Sông Hằng và Phật giáo Ấn Độ

Trong Kinh điển Đại Thừa, Đức Phật không chỉ dùng hình tượng cát sông Hằng để ví cho vô số chư Phật và chư Bồ tát trong mười phương, mà còn để dụ cho thần lực, pháp thân và hào quang của Đức Phật.

Tóm tắt: Sông Hằng (Gangā) là con sông nổi tiếng nhất trong lục địa Ấn Độ ngày nay. Tầm quan trọng của con sông này được thể hiện qua ảnh hưởng của nó trong lịch sử văn minh Ấn Độ suốt hơn năm nghìn năm qua. Nếu lịch sử tư tưởng Ấn Độ là một phần quan trọng trong lịch sử tư tưởng thế giới thì sông Hằng là một nhân tố quan trọng để hình thành hệ thống tư tưởng uyên thâm của Ấn độ, đặc biệt của Phật giáo. Bài viết này đề cập đến vai trò của sông Hẳng và những tương hệ của nó đối với sự hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ.

pb242
Dẫn nhập

Trong truyền thống văn hoá tâm linh của Ấn Độ, Himalaya và Gangā được xem là hai hình ảnh thiêng liêng, tiềm ẩn một sức mạnh nội tại, một khả năng siêu việt và một suối nguồn cảm xúc vô tận mà con người thường mơ ước đến. Nếu như dãy Himalaya là một biểu tượng cho sự vĩ đại và oai hùng của tinh thần dân tộc, thì sông Hằng cũng được ví như một nữ thần từ ái, luôn dang rộng đôi tay để bảo bọc, dưỡng nuôi và bồi đắp cho nền văn minh xứ Ấn suốt bao thiên niên kỷ qua. Lịch sử tôn giáo và văn hoá của Ấn Độ sẽ giảm đi tính huyền bí và thiêng liêng bao đời nay nếu đất nước này thiếu đi hai biểu tượng tôn nghiêm và kỳ vĩ như thế. Vô số các vị ẩn sĩ, các bậc thánh nhân, các nhà hiền triết đã dành trọn đời mình để chiêm nghiệm, tu trì và truyền bá những tinh hoa tư tưởng tại những trú xứ thiêng liêng ấy. Dấu ấn về hành trạng và sự nghiệp của họ vẫn còn lưu lại đâu đó trên những hang động heo hút thâm nghiêm, những triền đá cheo leo, cô tịch của miền núi tuyết hay những dòng nước cuồn cuộn hay êm ả, những bãi cát mênh mông, những ngôi đền cổ kính sớm chiều vọng tiếng chuông ngân hoà trong âm thanh cầu nguyện theo ngữ điệu từ ngàn xưa, và rực sáng dưới những ánh lửa kỳ ảo bên bờ sông Hằng lịch sử.

Đối với dân tộc Ấn Độ, sông Hằng vừa là niềm tự hào, là sự tôn kính, là chứng nhân của bao thăng trầm của một đất nước huyền bí, có chiều sâu tâm linh bậc nhất thế giới. Trong tác phẩm Khám phá Ấn Độ, cố thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru (1889-1964) đã bày tỏ niềm kính ngưỡng của mình đối với sông Hằng như sau: “Sông Hằng, hơn hẳn các dòng sông khác tại Ấn Độ, chính là nơi lưu giữ trái tim của Ấn Độ, đã thu hút hàng triệu người tới bờ sông của mình kể từ thời bình minh của lịch sử. Câu chuyện về sông Hằng, từ nguồn ra biển, từ xưa tới nay, chính là câu chuyện của văn minh và văn hóa Ấn Độ, của sự hưng thịnh và suy vong của các đế chế, của những thành phố vĩ đại và kiêu hãnh, của những cuộc phiêu lưu của con người và sự tầm cầu về tâm thức vốn từ lâu đã thôi thúc các triết gia Ấn Độ, của sự phong phú và đầy đủ trong cuộc sống hay sự khước từ và xả ly xuất gia, của những thăng trầm, của sự hưng thịnh và hoại diệt, của sống và chết ”[1]. Từ TK IV Tr CN vua Alexander Đại đế (356–323 BCE) của xứ Macedon đã nghe đến danh tiếng của dòng sông Hằng và cố công mở rộng biên cương mình đến con sông thiêng liêng này. Các thi hào nổi tiếng như Virgil, Ovid, và Dante đều ca ngợi sông Hằng, con sông có một vị thế độc đáo trong dòng tư tưởng nhân loại thời Trung Cổ.

Trên phương diện lịch sử, sông Hằng là cửa ngõ mà các đoàn viễn chinh phương Tây đầu tiên xâm nhập vào tiểu lục địa Ấn Độ vào khoảng TK XI Tr CN.  Trong cảm nhận của những đoàn viễn chinh này, con sông này thật mênh mông và vĩ đại. Những dòng chảy của nó như những sợi dây nối kết các cộng đồng dân cư rải rác, đường đi của con sông dài thăm thẳm, hướng đến miền đất phương Đông xa xôi. Khi nền văn minh hình thành trên bờ sông này, các khu phố thị xuất hiện, con sông trở thành một điểm sáng của dòng lịch sử Ấn độ.

1. Huyền thoại về nguồn gốc sông Hằng

Bắt nguồn từ đỉnh Gangotri trên dãy Himalaya, băng qua một vùng đồng bằng dài 2510 Km với những trung tâm đô thị lớn như Kanpur, Allahabad, Varanasi, Patna, Calcutta, và cuối cùng đổ ra vịnh Bengal, sông Hằng được xem là dòng sông linh thiêng nhất tại Ấn Độ. Đối với Bà-la-môn giáo, dòng sông này là nơi lưu xuất các nhánh sông thiêng, là một vị nữ thần có khả năng tịnh hoá mọi sự ô nhiễm của đời sống trần tục, và nó cũng được ví như một bà mẹ với thần lực diệu kỳ mà các bộ thánh kinh Vệ-đà hằng tôn vinh và ca ngợi. Theo các bộ sử thi Mahābhārata và Rāmāyaa giống dân Aryan thường cư trú tại đồng bằng sông Hằng vì dòng sông này là nguồn của bảy con sông thiêng tại Ấn Độ.

Các huyền thoại khác nhau về nguồn gốc của dòng sông này được tìm thấy trong các sử thi, các bộ huyền sử cùng các kệ tụng bằng Phạn ngữ. Một trong những huyền thoại phổ biến nhất kể lại như sau. Tương truyền vua Sagara có hai người vợ rất đáng yêu. Vì được ân sủng của thần Śiva, người vợ thứ nhất sinh được sáu mươi ngàn người con trai. Người vợ thứ hai chỉ sinh được một đứa con duy nhất, đó là anh chàng Asamanjas. Trong khi sáu mươi ngàn chàng trai kia hăng say học hỏi và luyện tập để trở thành những chiến binh giỏi, thì Asamanjas lại gieo rắc nhiều đau khổ cho dân chúng trong nước, đến nổi vua cha buộc phải đuổi người con kỳ quái này ra khỏi vương quốc mình. Một hôm vua Sagara tổ chức một buổi lễ bắt ngựa. Trong buổi lễ này, một con ngựa hoang được thả trên cánh đồng và sáu mươi ngàn vương tử kia sẽ theo đuổi bắt lại. Người nào đuổi bắt được ngựa ấy được xem là thắng cuộc, và tất cả những người còn lại phải kính phục người ấy. Trong lúc các vương tử đang mãi mê đuổi theo con ngựa, bỗng nhiên con ngựa ấy biến mất. Sau một hồi tranh cải căng thẳng, các vương tử ấy cùng đào đất, moi hang, lặn xuống biển sâu, đến các vực thẳm…để cố tìm ra con ngựa ấy. Cuối cùng thì họ phát hiện ra con ngựa kia đang ở trong một hang sâu, gần nơi thánh Kapila đang hành thiền. Các vương tử hợp sức nhau bắt đươc con ngựa ấy. Song vì cố bắt cho được ngựa nên họ đã làm kinh động đến thánh Kapila. Kapila vô cùng tức giận và ông đã thiêu sống các vương tử kia bằng ngọn lửa phát ra từ ánh mắt giận dữ của mình.

Khi hay tin con mình bị hại, vua Sagara vô cùng đau đớn. Ông bèn sai người cháu của mình là Ansuman đến gặp thánh Kapila hầu mong cứu được linh hồn các vương tử. Kapila rất mến mộ phong cách và cử chỉ của Ansuman và ông cho biết rằng chỉ có nước sông Hằng trên thiên giới mới giúp cho linh hồn các vương tử được siêu thoát và sanh lên cõi trời. Dù trọn đời cầu nguyện và thiết lễ để thỉnh nữ thần sông Hằng từ thiên giới mang nước sông xuống trần gian, vua Sagara, Ansuman, rồi đến Dilipa (con trai của Sagara) cũng không mời được vị nữ thần này. Mãi đến thời Bhagiratha, con trai của Dilipa, thì vị nữ thần kia mới chấp thuận lời cầu thỉnh này sau khi Bhagiratha đã hành lễ và tu tập rất nhiệt thành. Tuy nhiên, chỉ có thần Śiva mới có thể sinh ra nữ thần sông Hằng tại cõi trần này và nhờ thế nữ thần này mới có thể xuống được trần gian. Vì vậy Bhagiratha lại phải hành thiền miên mật và thiết lễ trang trọng suốt một thời gian dài nữa để cầu thỉnh thần Śiva và sau đó thì nguyện ước của Bhagiratha được thành tựu. Cuối cùng, từ thiên giới, sông Hằng chảy xuống tóc và chân của thần Śiva trước khi chảy vào mặt đất. Theo tín đồ Ấn giáo, nơi mà sông Hằng chảy từ thiên giới xuống chân của thần Śiva chính là khu vực Gangotri ngày nay. Vừa lúc sông Hằng chảy xuống mặt đất, Bhagiratha liền lên ngựa quay về nơi các vương tử bị thiêu sống. Dòng sông Hằng chảy theo chân của Bhagiratha đến nơi ấy và cuối cùng các vị vương tử ấy được siêu thoát. Nơi mà tro cốt cuả các vương tử được hoà trong sông Hằng chính là đảo Sagar, từ nơi này sông Hằng bắt đầu đổ ra đại dương[2].

Sông Hằng được nhắc đến nhiều lần trong các huyền thoại và truyền thuyết cổ xưa của Ấn Độ trong mối liên hệ với nhiều vị thần khác như Śiva và Viṣṇu. Vào thời trung cổ, hai nữ thần sông Hằng và sông Yamunā được khắc vào hai bên cổng vào của các ngôi đền Ấn giáo. Nữ thần sông Hằng thường được khắc hoạ trong hình dáng một người nữ cưỡi cá sấu, một biểu tượng cho sự nguy hiểm của chết chóc và sự sung túc của cuộc sống.

2. Sông hằng trong văn hóa Bà-la-môn giáo

Với một niềm tin sâu đậm từ huyền thoại trên, tín đồ Bà-la-môn giáo ngày xưa hay Ấn giáo ngày nay thường hành hương đến năm địa điểm quan trọng của con sông này, đó là: Gangotri, nguồn của sông; Hardwar, nơi sông đổ vào đồng bằng; Prayāg, nơi giao lưu của sông này với hai con sông lớn khác là Yamunā và Sarasvatī; Kāsī (Ba-la-nại), trú xứ của thần Śiva; và Sagar, nơi sông Hằng đổ ra biển. Khi đến những nơi ấy, người ta thường tắm rửa, uống nước, lễ bái và cầu nguyện. Hàng triệu người đến tắm trên sông Hằng mỗi ngày.

Trong tâm thức tín đồ Ấn giáo, nước sông Hằng là một ân huệ linh thiêng của thần linh được tôn thờ trong truyền thống Ấn Độ cách đây bốn nghìn năm và kéo dài cho đến ngày nay. Vào đầu mùa vụ, trước khi những hạt giống được gieo trồng, nông dân miền Bắc Ấn đặt lọ chứa nước sông Hằng vào một nơi đặc biệt trên cánh đồng để mong cầu một mùa bội thu. Những cô gái mới lấy chồng hòa mình vào dòng sông và cầu nguyện cho con và chồng mình. Hình ảnh sông Hằng vang vọng trong lịch sử Ấn Độ với những câu chuyện, giai thoại về sức mạnh tiềm ẩn của nó: sự sản sinh và bồi đắp cho cuộc sống con người cũng như sự hướng đến cứu cánh bất tử.

Với sự ra đời của các thánh kinh Ấn giáo vào TK III TL, sông Hằng đã dần dần đóng một vai trò tiên phong trong các nghi lễ tôn giáo, đặc biệt các nghi thức liên hệ đến việc sanh sản, trưởng thành và qua đời. Kể từ khi nữ thần sông Hằng xuất hiện trong hệ thống tín ngưỡng thần linh của Ấn giáo, theo thời gian, vị thần này được tôn thờ càng ngày càng nhiều hơn vì rằng đây vị luôn hướng con người đến sự tịnh hóa và cảnh giới thiên đường.

Tín đồ Ấn giáo luôn tin rằng những ai được tắm, hoặc thậm chí thấy tận mắt con sông này sẽ tiêu trừ được tội lỗi và tiến gần đến bờ giải thoát. Những ai không đến được dòng sông này thường hành lễ với nước sông được những người hành hương mang về. Ba-la-nại được mệnh danh là thành phố thiêng, nhưng nó cũng có tên là thành phố hoả táng. Người dân Ấn ở khắp nơi đổ về thành phố này để làm lễ hoả táng cho người thân. Thường thì tử thi được quấn trong những lớp vải trắng hoặc đỏ, và được đưa lên đài hoả táng đốt bằng củi sau vài lời cầu nguyện ngắn của người dự lễ. Người dự lễ không tỏ ra đau xót hay than khóc vì họ tin rằng sau khi hoả táng, tro cốt của người chết sẽ được rãi trên sông Hằng và nhờ đó họ được giải thoát. Việc hoả táng diễn ra suốt hai mươi bốn giờ trong ngày. Tại những bến sông ở thành phố này, có những đoạn dài chỉ khoảng bảy cây số nhưng có đến hai ngàn ngôi đền lớn, nhỏ nằm san sát nhau. Mỗi khi bình minh lên, tất cả những sinh hoạt tôn giáo nơi đây như bừng dậy, sôi động và nhộn nhịp. Các đạo sĩ Bà-la-môn ra bến sông rung chuông và nâng cao những cây đèn lửa hướng về phía mặt trời đang mọc, miệng lâm râm tụng kinh, dân chúng đổ xuống sông tắm, kẻ đốt nến, người dâng hoa, lại có những người ngồi theo tư thế Yoga dọc theo những hàng tâng cấp, từng đàn chim bay lượn trên bầu trời mờ ảo, du khách phương xa đáp thuyền dạo sông, thả đèn trên dòng nước và ngắm bình minh đang lên bên kia bờ sông. Trời càng về sáng, bến sông càng đông đúc hơn, thuyền bè bắt đầu rời bến, người người chen nhau ra sông tắm giặt, cầu nguyện, thả tro cốt người chết và lấy nước sông đem về.

3. Sông Hằng và sự ra đời của Phật giáo

Vào thời Đức Phật, đồng bằng sông Hằng chiếm một vị trí địa lý quan trọng và có ảnh hưởng nhiều đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá của các vương quốc lớn nhất thời bấy giờ. Theo các nguồn sử Phật giáo, đương thời hệ thống chính trị của Ấn Độ được chia làm hai khối quân chủ và cộng hoà gồm mười sáu nước khác nhau[3]. Đứng đầu khối cộng hoà là liên bang Vajji (Bạt-kỳ). Liên bang này cai trị toàn bộ khu vực phía Bắc của sông Hằng và mạn Đông sông Gandak. Dẫn đầu khối quân chủ là bốn vương quốc hùng mạnh: Magadha (Ma-kiệt-đà), Kosala (Câu-tát-la), Vaṁsa (Bạt-sa), và Avantī (A-bàn-đề). Ba trong số bốn nước này luôn thay nhau chiếm cứ lưu vực sông Hằng và sông Yamunā. Với nguồn nước dồi dào của sông Hằng và lượng mưa cao vào cuối mùa Hạ, đồng bằng sông Hằng trở thành một khu vực phát triển nông nghiệp khá l‎ý tưởng.

Trên phương diện kinh tế, sự phát triển kỷ nghệ đồ sắt đã tạo nên những chuyển biến lớn trong xã hội vào cuối thời kỳ Vệ đà và là động lực chính để sản sinh ra nền văn minh sông Hằng. Cuối TK VII Tr CN các công cụ đồ sắt là phương tiện không thể thiếu trong việc khai khẩn những khu vực cây cối chằng chịt thuộc lưu vực sông Hằng. Lửa cũng được dùng vào việc này, nhưng người ta không thể dọn sạch gốc của những loại cây thuộc vùng nhiệt đới có rễ đâm sâu dưới lòng đất nếu như không dùng đến những công cụ bằng sắt. Thêm vào đó, việc cày bừa không thể nhờ vào các công cụ bằng gỗ bởi đất tại lưu vực sông Hằng là một loại đất cứng và việc canh tác chỉ thành công nếu như đất nơi ấy được cày sâu. Như thế, chính sự phát triển của công nghệ đồ sắt mà việc trồng trọt tại đồng bằng sông Hằng được phát triển. Sự phát triển nông nghiệp với mức thặng dư cao đã phát sinh ra nhu cầu thương mại và sự hình thành những trung tâm đô thị. Hẳn nhiên quá trình đô thị hoá không thể diễn ra một cách đột ngột mà nó luôn song hành với quá trình định hình những thể chế chính trị và xã hội tại những khu vực đó.

Trên phương diện xã hội, quá trình đô thị hoá là một động lực quan trọng làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân trong đời sống xã hội cũng như nền quân chủ chuyên chế trong lĩnh vực chính trị. Chính hai khuynh hướng này đã tạo nên những tác động tiêu cực đối với đời sống luân l‎ý và tinh thần của mỗi cá nhân, và làm cho họ cảm thấy bất mãn hơn đối với thời cuộc. Đây chính là tiền đề rất có‎ nghĩa cho sự hưng khởi của Phật giáo trong bối cảnh khá đặc thù như thế. Sự xuất hiện của Phật giáo như là một phong trào tâm linh để khai phóng những nội kết trong đời sống cá nhân cũng như những mâu thuẫn vốn có của xã hội, từ đó mở ra một hướng đi mới cho loài người bằng tinh thần từ bi, vô ngã, và phong trào này cũng đưa ra một khuynh hướng nhận thức mới đặt trên nền tảng của lý trí và tinh thần tự do tư tưởng. Vì thế sự xuất hiện của Phật giáo được xem là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của nền văn minh sông Hằng.

4. Nguồn gốc sông Hằng theo kinh điển Phật giáo

Trong kinh điển Phật giáo, sông Hằng cùng với bốn con sông lớn khác là Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, and Mahī được xem là những con sông chính ở Diêm-phù-đề (Ấn Độ) (Tương Ưng II). Theo các bản chú giải của các bộ Tương Ưng và Tăng Chi, sông Hằng bắt nguồn từ hồ Anotatta trên núi Tuyết. Theo kinh Trường A Hàm, trên núi Tuyết có ao A-nậu-đạt, ngang dọc năm mươi do tuần, chung quanh ao được trang hoàng bằng bảy báu, dưới đáy ao có nhiều cát vàng, có bốn con sông tuần tự chảy từ bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc của ao này vào biển, đó là các sông Hằng, Bà-xoa, Tân-đầu và Tư-đà. Bản kinh này cũng giải thích nghĩa của chữ A-nậu-đạt như sau: các Long vương ở Diêm-phù-đề thường gặp phải ba nạn, 1. Bị gió và cát nóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt, xương tủy làm cho khổ não; 2. Bị gió dữ thổi mạnh vào trong cung, làm mất y báu, chịu khổ não; 3. Thường bị chim lớn cánh vàng bay vào cung dắt đi, hoặc bắt rồng để ăn thịt. Riêng Long vương ở ao này không gặp phải những nạn như thế, nên ao này có tên là A-nậu-đạt[4]. Bản chú giải Kinh Tập(Suttanipāta) thì giải thích rằng ánh sáng mặt trời, mặt trăng không chiếu thẳng vào hồ nên không làm nước trong hồ bị nóng, vì thế hồ này có tên là Anotatta (A-nậu-đạt)[5].

Luật tạng phái Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có ghi lại rằng một lần nọ, khi đi qua sông Hằng, Đức Phật bỗng quay lại nhìn bờ sông một hồi lâu. Thấy vậy, các vị Tỳ-kheo mới thưa hỏi duyên cớ, nhân đó Đức Phật bèn kể về nguồn gốc sông Hằng như sau. Thuở xưa có một vị vua hiền đức tên là Piṇḍavaṃśa. Sau khi gặp những cảnh lão, bệnh, tử trong thành, vua bèn từ bỏ mọi dục lạc và sống đời ẩn sĩ. Lúc ấy trong vương quốc của vua có một Bà-la-môn thông thái và giàu có tên là Velama đến thưa vua rằng: “Đại vương chớ lo âu và phiền muộn nhiều, ngài nên hưởng thọ quả báo từ phước nghiệp của mình. Chúng sanh tạo các nghiệp thiện, ác khác nhau. Người tạo nghiệp thiện thì thường sinh trong thế giới chư thiên. Nay đại vương tạo nghiệp thiện nên trở thành một bậc thánh vương.” Sau đó, theo lời khuyên của Bà-la-môn này, vua đã tổ chức một lễ tế đàn rất long trọng. Tại đàn tràng ấy, vua cho đào một hồ lớn và cho dẫn nước ācāma vào. Nhờ có hồ nước này mà khí hậu nơi ấy trở nên mát mẻ và vì thế hồ này có tên là Anavatapta. Suốt mười hai năm sau đó nhờ dòng nước ācāma chảy vào nên nơi này trở thành một khu hồ rộng lớn và hồ này chính là nguồn của dòng sông Hằng hiện nay[6]. Bộ luật này là một trong số rất ít các văn bản Phật học ghi lại các truyền thuyết về nguồn gốc của sông Hằng.

5.  Sông Hằng và Đức Phật

Quá trình tìm đạo, thành đạo và truyền đạo của đức Phật luôn gắn liền với dòng sông Hằng lịch sử. Thái tử Tất-đạt-đa từ kinh thành Ca-tỳ-la nơi miền núi Tuyết tìm đến vương quốc Ma-kiệt-đà nằm trên đồng bằng sông Hằng để tìm và học đạo với nhiều vị thầy tâm linh đức độ và cuối cùng người đã chứng ngộ đạo giải thoát bên bờ sông Ni-liên-thiền, một nhánh của dòng sông Hằng. Bản kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên mà đức Phật đã tuyên thuyết để vận chuyển bánh xe pháp, khai sinh truyền thống Phật giáo cũng diễn ra tại Lộc Uyển thuộc đồng bằng sông Hằng. Suốt bốn mươi lăm năm độ sanh của đức Phật, dòng sông đã gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa của Ngài cũng chính là sông Hằng.

Kinh điển Phật giáo cho biết rằng vào thời Đức Phật đồng bằng sông Hằng là nơi hội tụ của nhiều trung tâm văn hoá, kinh tế và chính trị lớn thời bấy giờ như Benāres, Campā, Ayojjha, Kimbhilā, Ukkāvelā, Payāga, Pātaliputta, và Sankassa. Vì khu đồng bằng này dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, giao thông tiện lợi và sản vật phong phú nên người Ấn xem nơi đây là vùng đất thiêng. Trong suốt thời gian hoằng hoá của mình, Đức Phật đã trú tại nhiều nơi trong lưu vực sông Hằng và tất nhiên Ngài đã nhiều lần qua lại sông Hằng. Theo kinhPhương Quảng Đại Trang Nghiêm, sau khi thành đạo, trên đường đến xứ Ba-la-nại để độ cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như đức Phật đã đi qua nhiều ngôi làng và được dân chúng các nơi ấy chào đón cung kính và cúng dường các loại thức ăn thượng vị. Khi đến bờ sông Hằng, Ngài nhờ người chèo thuyền đưa mình qua sông. Người ấy đáp; “Tôi sẽ đưa ngài qua sông nếu ngài có tiền”. Đức Phật trả lời: “Ta không có tiền.” Người chèo thuyền lại bảo: “Nếu ngài không có tiền, tôi không thể đưa ngài qua sông.” Liền khi ấy Đức Phật liền thi triển thần thông và trong giây lát Ngài đã qua đến bên kia bờ sông. Lúc chứng kiến được điều kỳ diệu đó, người chèo thuyền kia cảm thấy vô cùng ân hận, buồn tủi và tự trách rằng mình như kẻ vô trí đã không chịu đưa một bậc thánh nhơn như thế qua sông. Khi chuyện này đến tai vua Tần Bà Sa La, vua liền ra lệnh cho người chèo thuyền rằng: “Kể từ nay trở đi nếu có bậc Sa-môn nào qua sông, ngươi không được đòi tiền họ.”[7]

Việc Đức Phật thi triển thần thông để qua sông Hằng cũng xảy ra vào lúc cuối đời của Ngài. Sau khi thuyết giảng về năm sự nguy hiểm của đời sống bất thiện và năm lợi ích của đời sống thuần thiện cho dân chúng ở Pāṭaligrāma, một khu đô thị nằm trên bờ sông Hằng, Đức Phật liền đến bến sông Hằng. Vì lúc ấy là mùa lũ nên nước sông dâng cao và chảy xiết. Trong lúc mọi người đang cố tìm thuyền, bè để qua sông thì Đức Phật liền hiển thị thần thông và nhanh như một lực sĩ co duỗi cánh tay, Ngài đã sang đến bờ bên kia[8]. Theo tác phẩmPhật Sở Hành Tán của ngài Mã Minh, sau khi thuyết giảng tại nhiều nơi ở nước Ma-kiệt-đà, Đức Phật và chúng Tỳ-kheo cùng đến bến sông Hằng. Lúc bấy giờ dân chúng ở bến sông ấy vội đem nhiều thuyền được trang hoàng đẹp đẽ để rước Đức Phật và chư Tăng qua sông. Vì có quá nhiều người mang thuyền đến nên Đức Phật, vì muốn mọi người không khởi tâm cơ hiềm, đã thị hiện thần thông và trong phút chốc Ngài và chư tăng đã sang bờ bên kia. Khi thấy điềm lành ấy, mọi người đều sanh tâm kính phục và họ đặt tên bến sông ấy là Cù-đàm[9]. Theo một số văn bản Phật học, vào mùa mưa nước sông Hằng dâng cao và chim chóc có thể uống nước sông ngay trên bờ (Luật Tạng Nam Truyền I). Khi nước lũ dâng cao, nhà cửa hai bên bờ sông bị tàn phá và việc qua lại sông của dân chúng rất khó khăn (Chú Giải Kinh Tương Ưng). Bản chú giải Kinh Tập và Pháp Cú còn ghi lại chuyện Đức Phật được các vương tử xứ Licchavi mời đến Tỳ-xá-ly để cầu nguyện lúc xứ này bị hạn hán, mất mùa và tật dịch. Trên đường Đức Phật đi từ Tỳ-xá-ly đến sông Hằng để về lại thành Vương-xá người dân đã tổ chức một lễ hội tên là Gaṅgārohaṇa để đánh dấu sự kiện này[10].

This entry was posted in Văn Hóa, Đời Sống. Bookmark the permalink.