Triết lý và thực tiễn của Pháp môn Tịnh Độ – Phần II

Từ Pháp môn Tịnh độ

Nói đến Đại thừa và Tiểu thừa

(Trương Tuệ Minh)

Phật pháp là pháp pháp bình đẳng, hoàn toàn không có cao thấp. Tu tập bất kỳ pháp môn Phật pháp nào, cũng có công đức và cũng có thể thành Phật. Phật pháp vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật dạy vô lượng pháp môn, chẳng qua là tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sinh nghiệp lực không giống nhau, tâm lượng lại có lớn nhỏ. Phật phương tiện dẫn đạo chúng sinh nên nói Tiểu thừa và Đại thừa. Tất cả các pháp, vốn là không hai, không khác, đồng về một Thật tướng.
 Trong các pháp môn, chỉ có pháp môn Tịnh độ là đầy đủ phương tiện nhiếp độ tất cả các căn chúng sinh Thượng, Trung, Hạ. Từ kẻ ngu dốt cho đến người trí, trên các bậc Thánh nhân, dưới cho đến phàm phu nếu người nào có tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, phát nguyện vãng sinh, đều có thể thành tựu. Vì pháp môn Tịnh độ, lấy bốn chữ “A-di-đà Phật” làm cương yếu tu trì. Phương pháp đơn giản, dễ thực hành, lại thực tiễn, đầy lý nghĩa thâm sâu. Vì thế, từ xưa đến nay, các bậc Thánh nhân thường nói: “Một câu A-di-đà Phật là vua các pháp”.

Pháp môn Tịnh độ đã thù thắng như vậy rồi, tại sao Như Lai lại sáng lập thêm tám vạn bốn nghìn pháp môn nữa làm gì? Vì Như Lai thấy được căn cơ chúng sinh phần lớn đều không giống nhau, nhân duyên lại thiên sai vạn biệt. Nếu như không phương tiện tạo nên nhiều pháp môn thì không thể nào độ hết tất cả chúng sinh được. Chẳng qua các pháp môn khác cũng từ pháp môn Tịnh độ mà lưu xuất, tu các pháp môn khác chung quy cũng trở về pháp môn Tịnh độ. Người tu pháp môn Tịnh độ nếu đạt đến tu trì cao, thì không có pháp môn nào mà không đắc.

Phật nói Tịnh độ ở phương Tây, chúng ta có tin hay không là một vấn đề, cũng không chấp trước làm gì. Chẳng qua, đó cũng là một thí dụ, vì mặt trời vốn mọc phương Đông và lặn ở phương Tây. Phật lấy phương Tây làm thí dụ để cho chúng sinh quy túc về đó. Thật ra, thế giới Tịnh độ không chỉ có giới hạn ở phương Tây, mà bao trùm khắp cả hư không Pháp giới. Như vậy, các vị trí Đông, Tây có cố định hay không? Chẳng qua, chúng sinh căn cơ có lợi độn. Đối với người có căn tánh chậm chạp, tâm lượng nhỏ hẹp, không thông hiểu tự tâm, chỉ tham cầu Phật ở bên ngoài, đức Phật phương tiện, tùy bệnh mà cho thuốc, nên chỉ cho họ thế giới Tịnh độ ở phương Tây. Đối với người có căn tánh lanh lợi, tâm lượng rộng lớn, Phật dạy thế giới Tịnh độ ở tự tâm. Tâm tịnh thì Phật độ tịnh, tâm nhiễm thế giới Tịnh độ cũng trở thành ô trược. Do đó, có thể thấy được Tịnh độ Tây Phương cũng do tâm mà sở hiện. Nếu tự tâm chúng ta không thanh tịnh thì thế giới Tịnh độ cách xa mười cõi ức Phật, ngược lại tâm thanh tịnh, thì thế giới Tịnh độ chỉ trong một niệm, một khảy móng tay. Thế nhưng, luận về việc vãng sinh thì ngày nay, đa số người được vãng sinh là ông già bà cả, những người có căn tánh thấp kém. Trong khi đó, ít thấy người trí thức hay học giả vãng sinh là phát xuất từ nguyên nhân nào? Vì các bậc học giả trí thức phần lớn bị mắc vào sở tri chướng, họ chấp Lý mà quên Sự, cứ cho Phật tại tâm, tâm thanh tịnh thì Phật độ tịnh, từ đó bỏ quên Sự, rồi không thực hành. Vì vậy, các bậc Tổ sư sợ chúng ta bỏ Lý mà quên Sự, cho nên có nói: “Lý tuy đốn ngộ, nhưng Sự phải lần lượt tu hành” là vậy. Người tu Tịnh độ phải có Lý Sự viên thông, không được chấp Lý mà quên Sự.         

Tóm lại, thế giới Tịnh độ cứu cánh là có thật hay không? Xin thưa, như chúng ta hiện nay đang ở thế giới Ta-bà, đều nhận thức thế giới này là thế giới đầy ô trược là có thật, thì thế giới Tịnh độ bằng bảy báu trang nghiêm cũng chính xác là có thật. Điều đó đã được Phật nói trong các kinh Tịnh độ như Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh và kinh Di-đà. Ngoài ra, các kinh Đại thừa cũng như lịch đại Tổ sư cũng đều tán thán và khuyên răn chúng sinh nên về thế giới đó mà tu hành. Chư Tổ, nhất là chư Phật và chư đại Bồ-tát không lẽ lại nói dối chúng ta! Do đó, đối với thế giới Tịnh độ, chúng ta phải nên tin sâu, không nên nghi ngờ gì hết. 

Người tu Tịnh độ có bốn phương pháp thực hành: 1. Trì danh niệm Phật; 2. Quán tượng niệm Phật; 3. Quán tưởng niệm Phật; 4. Thật tướng niệm Phật. Trong bốn phương pháp đó thì Trì danh niệm Phật là thịnh hành hơn cả. Vì người tu Trì danh niệm Phật nếu đạt được đến nhất tâm bất loạn thì nghìn người tu, nghìn người được vãng sinh. Do đó, hành giả đang tu Trì danh niệm Phật nên có tin sâu, nguyện thiết, niệm cho đến ngày lâm chung, nếu giữ cho tâm không tạp loạn mà chỉ có thuần một niệm niệm Phật thanh tịnh, liền có cảm ứng Phật A-di-đà hiện ra tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ. Điều đó là hoàn toàn có thật không có chi nghi ngại. 

Bình thường, có một hạng người, tuy không biết đạo niệm Phật, nhưng đến phút lâm chung, gặp được thiện hữu tri thức khai thị, do túc nghiệp thiện căn nhiều đời gieo hạt giống niệm Phật, nên phát khởi tâm tha thiết niệm Phật cũng được vãng sinh.

Người vãng sinh Tây Phương còn gọi là Đới nghiệp vãng sinh. Vì sao? Vì một khi chúng ta khởi tâm động niệm đã là tạo nghiệp rồi. Song, người vãng sinh Tây Phương đến lúc lâm chung, các tư tưởng thiện ác hiện đời cũng như quá khứ chưa khởi hiện hành, mà chỉ có thuần một niệm thanh tịnh là niệm Phật, mà một niệm thanh tịnh cũng gọi là nghiệp. Vì thế, tu Tịnh độ còn được gọi tu Tịnh nghiệp, hay người vãng sinh Tây Phương còn gọi là Đới nghiệp vãng sinh là vậy.

Người muốn Đới nghiệp vãng sinh, cần phải gia công tu hành. Nếu bình thường miệng niệm Phật mà tâm nhớ nghĩ chuyện thế gian thì đến lúc lâm chung, nói đến việc vãng sinh thật khó. Vì sao? Vì đến lúc lâm chung, một mặt do tâm niệm Phật hằng ngày không tha thiết, mặt khác bị bệnh khổ nghiệp chướng hiện hành, thì biết dựa vào đâu mà phát khởi tâm niệm Phật! Đó cũng chính phần giải đáp cho câu hỏi tại sao người niệm Phật lại nhiều mà chỉ có số ít được vãng sinh. 

Phương pháp Quán tưởng và Quán tượng niệm Phật chỉ là phương tiện giúp hành giả thu nhiếp vọng tâm, chứ không có cứu cánh. Vì sao? Kinh Kim Cang có nói: “Phàm những vật có hình tướng tất cả đều hư vọng”, nghĩa là bất kỳ sự việc gì đã có hình tướng hoàn toàn đều là hư vọng. Do đó, Quán tưởng hay Quán tượng đều nằm trong phạm vi hư vọng, vì vậy không được gọi là cứu cánh. Chỉ có ngộ đến Vô sinh mới được coi là chứng được Thật tướng, chứng được Thật tướng mới được xem là cứu cánh. Thật tướng là đối với tướng hư vọng mà giả lập. Thật tướng vốn là vô tướng, đã là vô tướng thì có thể quán và tưởng được không? Vì vậy, chỉ có Thật tướng niệm Phật là không dính mắc vào tướng Phật, cũng như tướng niệm, đạt đến chỗ niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, đó là Niệm Phật tam-muội. Khi niệm đạt đến trình độ “năng” là người niệm Phật, “sở” là câu niệm Phật không hai, thì Thật tướng hiện tiền. Không cần phải chờ đến phút lâm chung nhờ Phật tiếp dẫn mà hiện đời đã thân hành chứng Bồ-đề vô tướng, đó mới là cứu cánh tối thượng.

Căn cứ những điều đã nói, chúng ta thấy được rằng, tuy cũng đồng là một pháp môn Tịnh độ nhưng cũng có phân chia thành Đại thừa và Tiểu thừa. Người niệm Phật mà chỉ cầu vãng sinh là Tiểu thừa, Thật tướng niệm Phật là Đại thừa. Phương pháp niệm Phật thì pháp nào vốn cũng rất tốt, chẳng qua một bên cầu vãng sinh Tây Phương là thuộc về Hữu tướng. Hữu tướng thì có chỗ trụ, mà còn chỗ để trụ là đã có giới hạn, có giới hạn nên gọi là Tiểu thừa. Còn Thật tướng niệm Phật, niệm đến trình độ toàn thể chân tâm hiển lộ liền chứng được Thật tướng. Thật tướng thì không có hình tướng, không có hình tướng thì không có giới hạn cho nên gọi là Đại thừa. Hơn nữa, người tu được Đới nghiệp vãng sinh, luôn luôn phải trở lại Ta-bà hành Bồ-tát đạo. Trong khi đó, người đạt được Thật tướng niệm Phật, niệm Phật là Phật, thân là thân Phật, hiện đời có thể độ sinh, điều đó rất thù thắng. 

Thế nhưng, chỉ vì cảnh giới Thật tướng niệm Phật quá cao nên không có người nào có thể thực hành được. Vì hiện đời, phần lớn chúng ta đều có căn cơ thấp kém, nên không thể tương ưng được với phương pháp Thật tướng niệm Phật. Chúng ta có thể đọc kinh Kim Cang nhiều lần, vì đây là một bộ kinh thuộc về Thật tướng Bát-nhã. Đọc nó rất có lợi. Trước tiên, gieo chủng tử Bát-nhã vào tâm thức, tiến cao hơn có thể ngộ được Thật tướng niệm Phật, hoặc được kiến tánh. Không thì trong ba pháp Trì danh, Quán tượng, Quán tưởng, chọn lấy một pháp thích hợp rồi gia công tu hành, đắc được nhất tâm bất loạn cũng có thể vãng sinh. 

Tóm lại, không luận là hạng người nào, nếu có thể tin sâu, nguyện thiết niệm một câu A-di-đà Phật, là đã có thể gieo được thiện căn, công đức đã vô lượng rồi. Điều thiết yếu là làm sao chúng ta phải bỏ đi tất cả những tâm hơn thua, ích kỷ, ngã mạn, cống cao… vì đó chính là những chướng ngại rất lớn cho việc vãng sinh. Nếu người tu hành mà không trừ diệt những thứ đó thì không có một pháp nào mà đắc được, lại thêm hoang phí thời gian và sức lực tu hành. 

Chỗ cứu cánh của việc học Phật là chuyển hóa tâm thành thanh tịnh. Tất cả pháp môn đều có thể làm cho tâm hành giả tu hành trở nên thanh tịnh. Vì thế có nói: “Pháp môn tuy vô lượng, nhưng chỗ cứu cánh không hai” ý là vậy. Pháp môn Tịnh độ thống nhiếp tất cả các pháp môn, tất cả các pháp môn cũng thống nhiếp pháp môn Tịnh độ. Thí như, Thiền tông trọng ở minh tâm. Học giả Thiền tông thường nói, tu hành Phật pháp nếu tự tâm không thông thì không thể thành tựu một pháp gì, vì ngoài tâm không có một pháp nào có thể đắc. Đối với pháp môn Tịnh độ, tu pháp Trì danh, nếu có thể trì đến nhất tâm bất loạn thì cảnh giới nhất tâm đó không phải là thiền chứ là cảnh giới gì? Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật có nói: “Tâm làm Phật thì tâm là Phật”, đó chính là thiền chứ là gì? Lại nữa, tu Thật tướng niệm Phật, nếu đạt đến Tam-muội hiền tiền liền nhập vào chánh định. Nhập vào chánh định là cảnh giới thiền, ngoài ra không có cảnh giới nào khác. Vì thế, trong kinh Đại Tập có nói: “Nếu người nào niệm Phật thì người đó được gọi là tu thiền vô thượng thậm thâm vi diệu”. Đã nói là niệm Phật rồi, tại sao lại còn nói tu thiền? Qua đó, cho chúng ta thấy được niệm Phật chính là thiền vậy. 

Tịnh độ và Mật tông cũng không có sai biệt gì. Bốn chữ A-di-đà Phật chính là tổng trì tất cả các kinh điển, mà tổng trì cũng là ý nghĩa của mật chú. Niệm Phật mà không tác ý và mong muốn thành Phật thì chính là mật chú. Bốn phương pháp niệm Phật của Tịnh độ và Sơ quán tưởng trì chú của Mật tông hoàn toàn giống nhau. Chẳng qua tu Tịnh độ, trong bốn phương pháp niệm Phật, chọn lấy một pháp rồi chuyên tu; trong khi đó, tu mật phải theo thứ lớp mà tiệm nhập. Chỉ có điểm khác nhau như vậy. 

Do đó có thể thấy được, Thiền chính là Tịnh, Tịnh chính là Mật. Một là tất cả, tất cả là một. Tại sao lại có phân biệt Đại, Tiểu? Chỉ vì hàng hậu học chúng ta, chỉ nghiên cứu một pháp, đối với các pháp còn lại không thông, từ đó cho pháp mình là lớn, là Đại thừa, có ai chấp trước cũng sẵn sàng tranh biện. Do chấp trước sự tướng nên tư tưởng bị sự tướng trói buộc. Thật ra, chỗ cứu cánh của Phật pháp không Đại, Tiểu, mà tất cả các pháp môn chung cuộc đều quy về một thừa. Niệm Phật đạt đến Tam-muội hiện tiền, tu Thiền đạt được minh tâm kiến tánh, tu Mật đạt đến Tam mật nhất như, tất cả không ngoài mục đích chuyển hóa tâm thức trở thành thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì thành Phật, có gì là khác nhau. 

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo, Sách Truyện. Bookmark the permalink.