Phát Tâm Bồ Đề

Bài pháp có tên là “Phát Bồ-đề Tâm” hay Phát tâm Bồ-đề, tức là tâm giác ngộ. Tất cả quý vị ở đây đều là Phật tử, là con bậc giác ngộ, mình phải học theo bậc giác ngộ. Học phát tâm Bồ-đề là học giác ngộ để xứng đáng với tên Phật tử của mình.

I. THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC, PHẬT PHÁP KHÓ NGHE

Trước hết, nói qua ý nghĩa việc mình được thân người. Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Quý vị thấy mình được thân người cũng đâu khó gì, pháp mình cũng được nghe đâu thấy khó gì, sao Phật lại nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”? Phật dạy: “Trong kiếp luân hồi sinh tử này chúng ta được thân người là việc rất hy hữu, đâu phải chuyện thường”. Kinh có một ví dụ: Được thân người giống như rùa mù gặp được bọng cây. Trong biển cả to lớn có khúc cây mục, trong khúc cây có một bọng trống lớn, gió thổi sóng đưa khúc cây qua lại, dưới biển có con rùa mù mắt, trăm năm mới nổi lên một lần. Khi nổi lên làm sao mà vào trúng bọng cây đó, có dễ hay không? Rùa có mắt sáng đã khó rồi vì bọng cây không đứng một chỗ, cứ trôi qua trôi lại. Con rùa mù có thể nổi lên vào trúng bọng cây là chuyện hy hữu. Chúng ta được thân người ở đây cũng như vậy. Nếu người không hiểu đạo, ba nghiệp thân, khẩu, ý cứ tạo nghiệp thì dễ đọa vào trong các đường ác, biết bao giờ mới trở lại thân người. Nói thân người khó được là như vậy. Khi chết thì nghiệp cứ dẫn đi chứ không ai chọn được đường đi, nếu lỡ sinh vào các loài súc sanh hay ngạ quỷ thì kiếp sống rất lâu dài, không biết bao giờ mới ra được.

Có câu chuyện về Tổ Xà-già-đa ở Ấn Độ, một hôm Tổ đi vào thành, tới cửa gặp một con ngạ quỷ đang đứng khóc. Ngài đã chứng Thánh quả, có thiên nhãn nên mới thấy được như vậy.

Ngài hỏi:

– Vì sao con khóc?

Quỷ con trả lời:

– Mẹ con sinh con ra chưa được bao lâu thì đi vào thành này tìm thức ăn, con chờ lâu quá mà không thấy mẹ con ra. Con đang đói khát, mong Ngài vào thành có gặp mẹ con thì nhắn lại dùm.

Ngài đi vào thành thì gặp ngạ quỷ mẹ.

Ngài hỏi:

– Sao ngươi vào đây lại để con ngươi đói khát đứng ngoài thành chờ?

Quỷ mẹ đáp:

– Bạch Ngài, con vừa mới sinh ra nó, còn đang yếu vào đây tìm thức ăn, tìm được chút gì thì bị những loài quỷ khác mạnh giựt hết. Vừa rồi, con thấy một người đang bệnh ói mửa bên đường, con lấy được thức ăn đó định mang ra cho con nhưng sợ vị thần giữ cửa thành ngăn lại. Xin Ngài ủng hộ giúp con đi ra để cho con của con ăn, vì nó đói khát lâu lắm rồi.

Ngài nhận giúp đưa ra, xong lại hỏi:

– Ngươi sinh vào loài ngạ quỷ bao lâu và bao lâu nữa mới hết kiếp ngạ quỷ?

Quỷ mẹ trả lời:

– Con cũng không nhớ là đã bao lâu và cũng không biết bao lâu mới hết kiếp này. Nhưng con ở đây, đã thấy thành này bảy lần thành rồi hoại, mà con vẫn còn đây.

Vậy quý Phật tử thấy thời gian là bao lâu, bảy lần thành hoại như vậy là bao nhiêu năm? Nên Phật mới nói: “Mất thân người rất khó được trở lại, được thân người rất quý hiếm”. Khi có được thân rồi thì cũng không bền chắc, không đảm bảo lâu dài.

Quý Phật tử có ai dám bảo mình sống được bao lâu không? Phật dạy mạng sống con người là trong hơi thở. Mọi người nhìn thấy cái tướng thô của thân, nên nghĩ sinh ra ít nhất cũng sống vài chục năm. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, có một lần Phật muốn thử các vị Tỳ-kheo nên hỏi: “Mạng người sống được bao lâu?”.

Có vị Tỳ-kheo đáp:

– Bạch Thế Tôn mạng người sống trong nửa ngày.

Phật không chấp nhận, nói:

– Ông chưa hiểu đạo.

Một vị khác bạch:

– Bạch Thế Tôn, mạng sống của con người chỉ trong bữa ăn.

Một vị khác trả lời:

– Bạch Thế Tôn, mạng sống của con người chỉ trong trong hơi thở.

Phật gật đầu nói:

– Ông hiểu đạo.

Thấy mạng sống trong hơi thở mới thấy đúng lẽ thật. Nếu quý Phật tử quán cho kỹ sẽ thấy đúng là mạng sống chỉ trong hơi thở.

Ví dụ: Từ đây đi tới trung tâm thành phố là mười lăm cây số. Đó là chúng ta thấy theo con mắt thường của mình, cứ tưởng như vậy là chính xác, nhưng chưa chính xác đâu! Khi chúng ta muốn đi qua mười lăm cây số đó, trước hết phải đi qua từng cây số một, từng mét, từng bước. Nếu đứng một chỗ thì làm sao tới được mười lăm cây số đó. Nhưng thường người ta ít nhìn thấu đến chỗ vi tế như vậy, chỉ nhìn thấy tướng thô. Chẳng hạn khi ta đốt một cây nhang, quay một vòng thì ta thấy cái vòng tròn, nhưng thật ra không phải là vòng tròn mà là từng chấm lửa, nó kết lại quá nhanh khiến mắt ta nhìn thấy một vòng tròn. Cũng vậy, sở dĩ ta sống được sáu, bảy chục năm thì phải qua từng hơi thở, cộng lại thì mới thành được sáu, bảy chục năm. Nếu trong khoảng giữa đó có một, hai hơi thở không cộng lại thì sao? Vậy có phải mạng sống là trong hơi thở không? Nếu nói mạng sống trong bữa ăn thì khoảng mười hơi thở không cộng lại đâu có ý nghĩa gì, vì mạng sống tới một bữa ăn kia mà! Cho nên Phật nói: “Mạng sống của người chỉ trong hơi thở”, nhưng thường thì chúng ta thấy mạng sống tới sáu, bảy chục năm nên thấy nó dài rồi dính mắc vào nó.

Người Tây Tạng có một câu ngạn ngữ “Ngày mai hay đời sau cái gì tới trước ta không thể biết được”. Chúng ta không thể biết được ngày mai tới trước hay đời sau tới trước. Có khi ngủ dậy là đi rồi, thế nên người Tây Tạng thấm sâu Phật pháp. Có một vị thầy nổi tiếng người Tây Tạng, mỗi đêm lúc đi ngủ, Ngài luôn rửa sạch tách, bình trà lau khô rồi gói lại cất trên đầu giường. Ngài nói vì ngủ rồi thì không chắc chắn có thức dậy được không? Nếu mỗi người chúng ta mà thấy được như vậy thì tu rất là mau tiến. Thân người mỏng manh như vậy mà mình không lo chuẩn bị tìm cái gì cao quý hơn để nương tựa, lại cứ bám chắc vào cái mỏng manh, bấp bênh này thành khổ. Cái cao quý, đó là Phật pháp. Nhưng Phật pháp đâu dễ cho người nghe, như trong bài kệ khai kinh:

“Vô thương thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ v.v…”

Dịch:

“Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu v.v…”

Nếu sinh ra vào những vùng xa như vùng dân tộc thiểu số, có dễ nghe được Phật pháp không? Hoặc khi sinh ra bị tật nguyền đui điếc thì có dễ nghe không? Ở Ấn Độ, ngay thời Phật còn tại thế, có bao nhiêu người được nghe Phật pháp? Đâu phải thời đó toàn xứ Ấn Độ ai cũng được nghe. Quán kỹ thì mới thấy được cái phước duyên của mình, nên phải trân quý. Nếu không có duyên với Phật pháp thì không biết hiện giờ mình đang ngồi ở đâu, trong loài nào? Vậy mới thấy được chỗ đáng quý của mình, chứ không thì nghĩ: “Phật nói: “Phật pháp khó nghe”, sao mình nghe hoài mà đâu có thấy khó gì!”.

II. CÓ ĐẠO LÀ QUÍ

Nếu là người không biết Phật pháp, sống theo tham, sân, si mặc tình tạo nghiệp không lường. Lúc đó, cuộc đời mình thật đen tối, không có điểm tựa, đến khi thở ra không hít vào, không biết mình sẽ đi về đâu, rồi đau khổ, chới với.

Vì vậy, vua Trần Thái Tông có bài kệ nhắc cho người nhớ về sắc thân của mình là:

Bỗng mất thân người khi trước,
Trở lại mang lấy đãy da.
Đội lông mang sừng, hàm sắc dây yên,
Lấy thịt nuôi người, dùng mạng trả nợ.
Sanh thì bị khổ dao bằm, chày nện,
Sống thì bị nạn nước sôi lửa bỏng.
Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt.
Khi đó mới hối hận, học đạo không có nhân.

Có nghĩa là khi mất thân người, do nghiệp xấu đã tạo chúng ta phải sinh vào loài này, loài kia để trả nợ. Vào đó rồi thì khổ biết bao nhiêu! Vì sinh vào loài đó là để trả nợ, khi người đến đòi nợ thì mình sinh hận trở lại người ta, rồi lại chất chứa oán thù với nhau. Ân oán từ đời này qua đời kia theo vòng luân hồi xoay mãi. Khi đó, hối hận trước kia không biết tu, giờ không có nhân lành để học đạo, không điểm tựa, rất khổ sở, đâu ai cứu mình được.

Phật không cứu được mình mà mình phải tự cứu mình. Phật chỉ là bậc thầy dẫn đường chỉ Phật pháp, chỉ rõ con đường an vui hay đau khổ cho chúng ta. Muốn an vui thì đi con đường an vui, đừng đi con đường đau khổ. Đó là Phật cứu khổ cho chúng ta rồi. Phật chỉ đường mình không đi, Ngài chỉ đường an vui mà mình đi con đường đau khổ, rồi kêu Phật cứu thì làm sao Phật cứu được. Điều đó rất thực tế. Nên vua Trần Thái Tông nói tiếp: “Chỉ bằng ngay đây tu tập, chớ để đời này trôi qua. Đức Phật Thích Ca trước bỏ hoàng cung để vào núi Tuyết. Cư sĩ Bàng Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu”.

Vua khuyên mình ngày ngày nên tu tập, chớ để đời sống trôi qua, rồi sau đó hối hận. Vua dẫn chứng Đức Phật Thích Ca sống trong hoàng cung cao quý nhưng cũng bỏ đi vào rừng tìm đạo. Cư sĩ Bàng Uẩn cũng vậy. Khi giác ngộ rồi, ông đem gia tài, của cải chất xuống thuyền, chở ra biển bỏ hết. Có người nghe tin tiếc hỏi sao ông không đem bố thí để được phước. Đó là chúng ta nhìn theo quan niệm của chúng ta, nghĩ đem của cải bỏ như vậy quá uổng. Nhưng cư sĩ nhìn theo cái nhìn của người giác ngộ, chính của cải là nguyên nhân gây nên lòng tham, đem đến nguy hiểm cho con người. Vì giác ngộ, không muốn người khác đi theo dấu vết đó nữa nên ông mới vất bỏ chúng đi. Trong kinh kể có lần Phật đi đường thấy vàng rơi, Phật chỉ cho ngài A-nan và nói đó là rắn độc.

Ở đây, vua Trần Thái Tông cũng thấy được điều đó. Dù là một ông vua, Ngài vẫn khuyên mọi người khéo học đạo tu hành, phát tâm giác ngộ, chớ có tham luyến, đắm say thế gian vô thường. Vì sống trong thế gian nên phải tạm nhờ vào của cải, sự nghiệp thế gian. Chúng ta lại thấy của cải là thật của mình, nhưng theo Phật dạy thì của cải này là của năm nhà: nước, lửa, trộm cướp, vua quan, con bất hiếu. Sự nghiệp của cải đó gặp nước lụt, lửa cháy, trộm cướp thì sao? Sẽ tiêu tan hết. Nếu có tội thì bị vua quan tịch thu hết, có con hư nghiện xì ke, ma tuý phá hết. Cho nên, của cải không phải là của mình mà là của năm nhà.

Thân này cũng vậy, tạm nương ở đây, cuối cùng cũng bỏ. Biết vậy mà không học đạo để sáng tỏ, đó là mê. Người hiểu được rồi mới thấy lo sợ. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ nhất có bài kệ:

Thân thể nằm dài trên giường lần cuối
Miệng thì thào những lời trăn trối
Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn ra
Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với người.

Đến lúc nào đó thân nằm dài trên giường bệnh, miệng thì thào nói lời trăn trôùi, khi sắp ra đi thì những ký ức trong đời quay lại giống như cuộn phim. Trước tạo nghiệp gì, giờ hiện ra hết. Tạo nghiệp lành thì hiện ra nghiệp lành, điều tốt thì ta thấy vui vẻ đi vào đường lành, đường tốt. Nếu tạo nghiệp ác, nghiệp dữ nó quay lại những cảnh xấu thì sợ hãi, làm tâm mình rối loạn, đi vào cảnh xấu. Và ai cũng đi đến giây phút đó. Cho nên, Ngài nói bi kịch đó khi nào sẽ đến với người, cảnh đó khi nào sẽ đến với mình? Không ai tránh khỏi hết, nên khéo biết lo học đạo.

Quán xa hơn trong kiếp luân hồi, Phật dạy: “Chúng sanh đi trong luân hồi vô lượng kiếp, khóc không biết bao nhiêu lần”. Khóc cho người thân đã mất, khóc cho đau khổ trong đời, nhất là những vị lớn tuổi.

Phật cũng dạy: “Nước mắt chúng sanh còn nhiều hơn biển cả” Chúng ta đâu thấy kiếp luân hồi dài xa như thế nào? Hôm nay, được ngồi đây không biết là do đã trồng duyên lành gì lâu xa với Phật pháp mà được có thân người, được nghe Phật pháp, nghe những lời chân thật là một điều hy hữu, phải quán xét kỹ mới thấy được cái quý này. Đó cũng chính là chỗ mở ra con đường sáng sủa, con đường giác ngộ cho chúng ta đi.

Cho nên, vua Trần Thái Tông còn nói: “Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống qua mất một đời, lại có người trên đường tu hành lầm lẫn không thức tỉnh, đâu biết tính giác Bồ-đề mỗi mỗi viên thành; nào hay căn lành Bát-nhã người người đầy đủ”. Ý vua muốn nói có người cứ lo vùi đầu trong sự ăn uống không biết có cái cao quý hơn, rốt cuộc qua mất một đời; có người lại lầm lẫn trên đường tu hành, không gặp được con đường chân chính, sáng sủa đúng đắn nên không thức tỉnh giác ngộ được. Thật là điều đáng tiếc! Đâu biết tính giác của mỗi người vốn đều đầy đủ, căn lành Bát-nhã ai ai cũng có, nhưng không phát triển được, thật đáng thương!

Vì vậy, vua khuyên mọi người nên phát tâm Bồ-đề, phát tâm tỉnh giác, sống trở lại tính giác Bồ-đề nơi căn lành Bát-nhã chính mình để sáng tỏ lại. Mọi người ai cũng có lẽ thật thù thắng cao quý nhưng bỏ quên, nhận cái tạm bợ hư dối. Nên nói “Con đường mê giác ngay chỗ đó”.

Lâu nay nghe nói “Bồ-đề” là một danh từ, nghĩa là”giác”. Mà “giác” thì cái gì giác? Là tâm giác, tâm biết thì tâm giác. Phật cũng từ tâm mà giác ngộ, chúng ta ai cũng có tâm ấy hết. Nghĩa là đều có tính giác. Vậy mà không lo phát triển tính giác, chỉ lo phát triển cái biết buồn, vui, giận, ghét, hơn, thua. Đó chính là mê lầm tạo phiền não, quên mất chân tánh giác ngộ. Ở đây, vua Trần Thái Tông nhận thấy được điều đó, vua nhắc nhở mọi người khéo soi trở lại để phát triển nó.

Trong kinh Phật cũng từng nói: “Nhất thiết chúng sinh, giai hữu Phật tánh” nghĩa là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Nhưng vì chúng sanh mê nên phải làm chúng sanh, giờ biết rồi phải khéo phát triển nó trở lại, chuyển chúng sanh thành giác ngộ. Đó là con đường tiến lên của chúng ta. Có tâm là có biết, có tánh giác, vì mê nên trôi lăn hoài tạo nghiệp luân hồi, quên mất gốc, lang thang trong sinh tử. Gọi là sống tha hương, quên mất quê hương của chính mình là bản giác, là Phật tánh, chúng ta chỉ sống với tâm sinh tử như lưu lạc nơi xứ người.

Phật và các Tổ ra đời để nhắc nhở chúng sanh tỉnh giác trở lại. Phải soi lại ngay cái tâm giác để vượt lên cái mê lầm này, sống trở lại cái gốc, tức có ánh sáng, có đầy đủ ý nghĩa sống. Quý vị thấy hiện tại chúng ta sống có gốc hay mất gốc? Trong cuộc vô thường, tạm bợ, biến đổi nhưng vẫn còn có chỗ nương, vẫn còn có cái tánh giác Bồ-đề làm chỗ nương tựa cho mình. Cho nên, đó cũng là điểm chúng ta đáng mừng, mừng còn có điểm tựa. Nếu không chẳng biết cuộc đời chúng ta sẽ đi về đâu? Nên mọi người khéo phát triển tâm Bồ-đề. Nhưng muốn phát triển tâm Bồ-đề chúng ta phải biết tâm Bồ-đề là gì? Bản chất của tâm Bồ-đề là cái gì?

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.