Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

KỆ NGÔN V – HẠNH PHÚC XV

Dāna
Nết hạnh bố thí

Phạn ngữ Dāna (Tàu âm là Đàn na) nghĩa là bố thí, là cho cơm nước, quần áo, chỗ ở, thuốc chữa bệnh .

Đàn na bố thí hàm ý cắt đứt sự bỏn sẻn, đánh đuổi, sự bỏn sẻn ra khỏi tâm, cắt đứt sự tham lam trong lòng.

Đàn na bố thí còn hàm ý gìn giữ, nghĩa là sự bố thí giữ người thí chủ không cho ở trong ác pháp, là tham lam bỏn sẻn. Hơn nữa, sự bố thí ấy giữ người thí chủ không cho sanh vào địa ngục v.v…

Cuối cùng Đàn na bố thí có nghĩa là đem của mình có ra cho.

Nói đến sự bố thí hình như là ít có người hưởng ứng. Vì người ta quan niệm thông thường rằng người sanh ra để thu vào chứ không có phát ra. Và trong thực tế ai ai cũng đều ưa thu hơn phát. Thậm chí đến khi thấy người quanh mình đang bị đói khổ thiếu thốn, như những người đang bị tai nạn như cháy nhà hay bão lụt, nhà cửa không có, cơm cũng không, y phục cũng thiếu, tuy họ dư ăn dư để, nhưng không bao giờ tự động đem của ra cho đâu. Người mà được nghe tiếng bố thí nhiều nhất là tín đồ Phật giáo, vì tiếng bố thí là tiếng đầu tiên mà người Phật tử nghe và biết. Nết hạnh bố thí là nết hạnh học trước nhất trong Phật giáo, mà bố thí cũng là một pháp Ba la mật đứng đầu trong 30 pháp Ba la mật.

Người đời rất ưa sự tiến bộ về vật chất, nhưng người ta không nghĩ tới tinh thần. Ý tôi muốn nói sự tiến hóa về vật chất là sự giàu sang nhà cao cửa rộng. Còn sự tiến hóa về tinh thần là phương diện đạo đức.

Nếu người đời chỉ biết đi tìm lấy một điều duy nhất là sự giàu sang, thì càng ngày thế gian này càng nhiều đau khổ, vì ai ai cũng tranh nhau để mình làm giàu, không nghĩ đến người khác, không biết giúp đỡ kẻ đói nghèo, người hoạn hạn.

Con người tiến hóa về tinh thần thì lại khác, chỉ lo cho bản thân mình vừa phải, rồi lo giúp đỡ cho thân bằng quyến thuộc và cho tất cả người trong xã hội bằng mọi thể cách nhất là sự bố thí. Ai ai cũng có thể bố thí được tùy trường hợp và từng giây từng phút.

Đức Phật dạy pháp bố thí là phát ra những cái dư giả của mình, tùy theo mình có, cho người khác, trong khi người ấy đang thiếu hụt. Bố thí là nguyên nhân đánh đuổi sự bỏn xẻn và dứt bỏ được lòng tham lam trong tâm mình, làm cho tâm trở nên cao thượng quý báu. Tâm con người không được sự cao quý thống trị, sẽ khiến cho người bị phiền não, tức thì bị tam độc là tham lam, sân hận và si mê hoành hành. Đức Phật dạy tâm của chúng ta ví như con rắn, loài rắn thích ở nơi ẩm thấp. Tâm cũng vậy thích ở nơi thấp hèn là phiền não, vì có phiền não nên tâm ta bị chìm đắm trong tài, sắc, lợi, danh, vì vậy nên nó tham lam để đem lại lợi tức cho nhiều, đặng mua lấy những gì mà nó thích, còn ai chết mặc ai. Vì tâm ích kỷ dục lợi, nên không đem hạnh phúc vĩnh viễn lại cho ta, có được chăng chỉ tạm thời thôi. Vì muốn cho chúng sanh làm cho tâm mình trở nên cao thượng ra khỏi nơi ẩm thấp là bỏn xẻn, tham lam và ích kỷ ấy, nên Đức Phật dạy ta pháp bố thí. Bố thí là pháp đối trị của bỏn xẻn, tham lam, dục lợi và ích kỷ.

Bố thí có hai cách, có hai ý nghĩa khác nhau:

– Cho để làm ơn.

– Cho có ý là làm phước, để dứt lòng tham lam, trừ bỏn xẻn và ngừa sự ích kỷ dục lợi. Đây thật là bồi bổ đức tính từ bi.

Người thường hiểu lầm rằng cho là làm ơn và làm phước.

Trong Phật giáo có dạy bố thí và làm ơn khác nhau. Người cho thì muốn người thọ lãnh biết đến mình và muốn người thọ lãnh luôn luôn nhớ lấy của cho ấy, tiếng Phạn gọi là Sanghaha nghĩa là giúp đỡ. Còn người bố thí (đàn na) thì trong mỗi việc bố thí nào cũng đều có tác ý là thuơng hại người mà mình cho (đó là lòng từ bi) và quyết diệt lòng tham lam, bỏn xẻn, trừ cả lòng ích kỷ của mình.

Chúng ta cho ai một vật gì, đừng muốn cho họ nhớ ơn mình và đền ơn mình, để tránh nguyên nhân sanh thêm phiền não. Bố thí cố dứt phiền não ở lòng mình là cao thượng.

Người làm phước nên làm bằng tác ý lành, cố tránh phiền não và nên để lòng thương người bị hoạn nạn, như mình thương bản thân mình hay là thương con đẻ của mình. Làm như vậy mới là bố thí. Làm như vậy là ta bồi bổ thêm tâm lành của ta và ta diệt phiền não bỏn xẻn, ích kỷ. Đó mới là tu, nghĩa là sửa chữa lòng mình, không cho còn phiền não nữa.

Sự bố thí hợp pháp theo Phật giáo, có 3 điều kiện là:

1. Vật bố thí trong sạch: Đồ vật đem ra bố thí ấy do nơi sự làm ăn chân chánh mà có, nghĩa là của ấy do nơi chánh mạng và chánh nghiệp tạo ra, không do sự trộm cướp hay lường gạt của người đem về làm của mình. Vả lại, không bao giờ Đức Phật dạy bố thí nhiều hay chê bố thí ít, mà chỉ cần của ấy là của hợp pháp thôi.

2. Tác ý trong sạch: Người cho vì lòng từ ái mà cho, chớ không phải cho để mong được một lợi lộc nào khác, chẳng hạn như bố thí để được sanh về cõi trời hay cõi nào. Để vun trồng tác ý cao thượng ấy, Đức Phật dạy nên bố thí bằng cách vô úy thí, nghĩa là người bố thí không chọn người thọ lãnh, mà cũng không nghĩ một điều nào ngoài ra lòng từ ái, muốn làm lành, muốn diệt trừ tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ trong tâm của mình.

3. Người thọ lãnh trong sạch: Người thọ lãnh là người có giới đức trong sạch đáng thọ lãnh của bố thí.

Nhiều người bỏn xẻn, khi có tiền của dư giả mà thấy người nghèo khổ hoạn nạn cũng làm lơ không giúp đỡ. Hạng người này càng được của cải nhiều, càng bỏn xẻn nhiều, và vì lẽ ấy mà khong khi nào giải thoát được; trái lại, phải đọa vào ác đạo là khác. Đành rằng bỏn xẻn ấy không hại ai, nhưng tâm bỏn xẻn không gọi là thiện được. Tuy những người bỏn xẻn thường nói họ là người tu, vì họ không có làm gì nên tội hết.

Trong thực tế, sở dĩ hạng người ấy không có làm tội là vì họ sợ pháp luật của chính quyền, hoặc vì danh dự hay trường hợp thuận tiện chưa đến, bởi nếu có dịp, chưa chắc họ không nhân cơ hội làm điều tội lỗi. Riêng người tu là người có phát nguyện xa tội ác, vì ghê sợ và hỗ thẹn tội ác, nên không dám làm tội, mặc dù là có làm, cũng không ai biết. Hơn nữa, người tu càng cố gắng giữ lấy đức hạnh của mình, như là lo cho đời sống của mình.

Đức Phật dạy: Tiền tài là món thuốc độc dành cho người kém trí tuệ; trái lại, đó là món thuốc bổ cho bậc trí thức.

Thật vậy, người kém trí tuệ mê theo tiền tài, không hề làm một việc lành nào mặc dù rất nhỏ, lại còn hay lường gạt cướp bóc của người đem về cho mình, để rồi, chừng sắp chết, họ tiếc của phải bị bỏ lại dương trần, khi mà họ muốn gần của ấy mãi. Tiếc của như vậy có nguy hại vô cùng, như sự tích sau đây:

Tại kinh đô Sāvatthī, có một ông trưởng giả rất là ích kỷ, không bao giờ bố thí một đồng điếu cho người ăn xin. Người trong thành đặt tên ông là Micchāriya (bỏn xẻn). Ông có chôn rất nhiều khạp vàng. Khi sắp chết ông sực nhớ lại vàng ấy, mà ông không có dịp tỏ cho người nhà hay. Vì luyến tiếc vàng ấy, nên ông lại sanh làm chó trong gia đình của ông. Khi chó ấy lớn lên, nó rất khôn và giữ của rất giỏi, nên con ông lấy làm thương mến.

Ngày nọ, Đức Thế Tôn đi khất thực ngang qua nhà con ông trưởng giả, con chó chạy ra sủa. Đức Thế Tôn mới phán hỏi: “Trưởng giả Micchāriya, người đã sanh vào nhà này rồi hả?”. Oai lực của Đức Thế Tôn làm cho chó ta nhớ lại tiền kiếp, lấy làm buồn và trở về nhà nằm.

Khi con ông trưởng giả đi công việc về, không thấy chó chạy ra mừng như mọi khi, mới hỏi rằng tại sao chó hôm nay coi buồn như vậy? Người nhà cho hay khi nãy thầy Cồ Đàm đi ngang qua đây, không biết có nói gì mà chó buồn như vậy. Con ông trưởng giả lấy làm tức giận, lập tức vào chùa hỏi Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn mới ngự đến nhà của trưởng giả và hỏi chó rằng: “Này Micchāriya, ngươi còn chôn vàng ở đâu sao không chỉ cho con ngươi?” Chó riu ríu lại moi chỗ chôn vàng, con ông trưởng giả mới đào lên được vàng của cha chôn lúc trước.

Tích này cho thấy rằng lòng bỏn xẻn, sự tham lam và tâm quyến luyến của cải có hại như vậy. Vậy các bậc trí thức nên dùng của cải làm việc từ thiện; bố thí là gởi của về ngày vị lai. Người bỏn xẻn trong kiếp này tuy là dư ăn dư để, nhưng kiếp sau họ sẽ trơ trọi nghèo nàn. Tại sao vậy? Vì người bỏn xẻn không kết trước duyên lành với kẻ khác, không có lòng từ ái thương hại kẻ khác đang chịu thiếu thốn bần hàn cực khổ. Vì quả của bỏn xẻn ấy, kiếp sau nghèo khó bần hàn thiếu hụt mọi bề, không ai giúp đỡ cho khi hoạn nạn.

Sau đây là một sự tích bố thí:

Đời Đức Phật Ca Diếp, có một thanh niên xuất gia mà hằng ngày về thọ thực ở nhà cha mẹ. Ngày nọ sau khi thọ thực xong, ra về đến gần chùa, chàng trông thấy một con chó cái mù cả hai mắt với một bầy con ốm vì thiếu ăn bu lại bú. Tình cảnh thật là bi đát. Khi chàng thấy vậy, lòng thương hại chợt phát sanh. Chàng không biết lấy gì cho chó ăn. Chàng bỗng nhớ lại mình vừa thọ thực xong, chàng liền dùng tay móc cổ cho ói vật thực ra cho bầy chó ấy ăn. Nhờ bữa ăn ấy, chó mới đủ sức khỏe đi ở nơi khác.

Sau khi chết, chàng thanh niên ấy được sanh về cõi trời, hưởng sự an lạc trong cõi trời từ đời Đức Phật Ca Diếp tới đời Đức Phật Thích Ca. Chàng lại sanh vào một gia đình Phật tử và có đức tin xuất gia theo Phật giáo. Nhờ phước báu bố thí từ kiếp trước còn dư sót, nên người trong thành rất trong sạch với chàng, bố thí rất nhiều vật thực, đến đổi dùng không hết.

Trong sự tích trên đây, của bố thí không cần phải là bạc nén vàng thoi hay là cao lương mỹ vị và cần thiết nhiều, nhưng cốt ở tâm trong sạch của mình. Nếu quí vị không muốn gặp những cảnh tượng hãi hùng như nhà cháy, bão lụt v.v… thì nên làm việc phước thiện cho những nạn nhân thiên tai hỏa hoạn. Đức Phật dạy hễ vừa lòng cho, thì bằng được vừa lòng. Khi ta giúp người qua khỏi cơn tai nạn, thì ta lại được phước và sẽ khỏi tai nạn.

Bố thí chia ra làm hai loại là:

1. Amissadāna: tài thí, là bố thí cơm nước, y phục, thuốc uống và chỗ ở.

2. Dhammadāna: pháp thí, là bố thí pháp.

Đức Phật có dạy: Sabbadānam dhammadānam jināti, nghĩa là trong các sự bố thí chỉ có bố thí pháp là cao thượng hơn hết. Vì người bố thí pháp gọi là bố thí thiên đàng, Phạm thiên và Niết Bàn. Tại sao? Vì người đời biết tu hành là nhờ nghe pháp; nhờ sự tu hành ấy mà người được sanh vào cõi trời, hoặc cõi Phạm thiên hay đắc đạo quả Niết Bàn.

Người bố thí tứ vật dụng, là cơm nước, y phục, thuốc men, nhà ở, làm cho người thọ lãnh được sự an vui cấp thời về vật chất thôi. Còn bố thí pháp có thể làm cho người rất hung dữ trở nên lương thiện, chớ ta không thể đem tiền của thuê người ác trở nên thiện được, vì vậy nên bố thí pháp, có phước vô lượng vô biên. Đức Phật dạy: Có người nào giàu vô cùng tận, mời thỉnh chư Chánh đẳng Chánh giác, Độc giác và chư Thánh Tăng ngồi chật quả địa cầu này, rồi bố thí tứ vật dụng; đoạn chư thánh nhân cầu chúc cho. Người này được phước không sao tả được, nhưng phước ấy không bằng một phần 16 của một phần, của một pháp sư thuyết chỉ một nữa câu kệ ngôn thôi.

Nếu có người hỏi: Vậy thì chỉ có các vị pháp sư mới bố thí được pháp thôi, còn chúng tôi là cư sĩ thì làm sao bố thí được?

Thật ra ai ai cũng có thể bố thí pháp được, bằng cách thỉnh chư pháp sư về nhà thuyết pháp cho bạn đồng đạo đến nghe, hay là hùn tiền để ấn tống kinh sách. Điều hay hơn hết là quí vị nhờ một vị pháp sư nào viết sách rồi quí vị ấn tống. Đây thật là phước cao thượng.

Hạnh bố thí đem đến những điều hạnh phúc sau đây:

1. Bố thí là nhân của tất cả sự an vui.

2. Bố thí là nguồn gốc của sự có tài sản.

3. Bố thí là kho chứa tài sản.

4. Bố thí là thành trì kiên cố để che chở tai nạn cho thí chủ.

5. Bố thí là vật nương nhờ của ta trong ngày vị lai.

6. Bố thí ví như hang sư tử cư ngụ, tất cả các giống thú không bao giờ dám bén mảng đến gần hang ấy.

7. Bố thí ví như mặt địa cầu; địa cầu là nơi nương nhờ của nhân loại.

8. Bố thí ví như sợi dây để buộc tâm con người, không cho phóng túng chạy theo tội ác.

9. Bố thí ví như ghe thuyền, có khả năng đưa người qua sông biển là luân hồi.

10. Bố thí ví như người chiến sì can đảm xông pha trong trận giặc, đó là giặc phiền não.

11. Bố thí ví như thành quách kiên cố.

12. Bố thí ví như hoa sen sanh trong bùn, nhưng không hôi tanh mùi bùn.

13. Bố thí ví như lửa thiêu đốt các ác pháp là tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ, dục lợi.

14. Bố thí ví như rắn độc cắn chết các ác pháp.

15. Bố thí ví như sư tử không hề biết sợ một loại thú nào.

16. Bố thí ví như voi, vì voi là thú có sức mạnh hơn hết, bố thí cũng có sức mạnh thắng các ác pháp.

17. Bố thí ví như thiên lý mã, có sức chạy rất mau, chạy khỏi phiền não là tham lam v.v… và chạy tới Niết Bàn.

18. Bố thí là con đường đi của các bậc thánh nhân, nhất là Đức Phật.

19. Bố thí là một hạnh của chư Phật.

20. Bố thí kết quả cho người không thiếu thốn những gì khi còn luân hồi trong tam giới.

21. Bố thí cho sanh làm Đế Thích.

22. Bố thí cho sanh vào cõi Tha hóa tự tại.

23. Bố thí được sanh làm vua Chuyển luân vương.

24. Bố thí làm cho đắc quả Thinh văn.

25. Bố thí làm cho đắc quả Độc giác.

26. Bố thí làm cho đắc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.