Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 9 & 10

HẠNH PHÚC XXXVI

Asokaṃ
Không có sự uất ức

Asokaṃ nghĩa là không uất ức. Phạn ngữ Asoka có thể chiết tự để giải cho dễ hiểu hơn: A có nghĩa là không, Sokacó nghĩa là thấp xuống, tâm khô héo, ưu phiền, dường như là tâm bị ghim vào mũi tên.

Khi ráp hai chữ lại thành Asoka thì nghĩa chung là tâm không uất ức, không ưu phiền, không khô héo, không bị tên ghim. Asoka còn có một nghĩa khác là vắng lặng, không có sự uất ức, sự ưu phiền, bực tức, buồn rầu, nên Asokacó nghĩa cuối cùng là vô ưu hay Niết Bàn, và tóm lại là tâm không bị phiền não ngự trị.

Sau đây tôi xin xét lại uất ức về hai phương diện:

– Vật gì là tâm người bị uất ức.

– Tại sao tâm đắc được Niết Bàn không có uất ức.

Làm người không ai chạy khỏi sự uất ức, nên chi nơi đây tôi không giải trạng thái của sự uất ức, vì ai ai cũng biết mà chỉ giải về nguyên nhân làm cho tâm uất ức, theo câu Phật ngôn dạy trong kinh Pháp Cú rằng:

Pemato jāyate soko

Pemato jāyatebhayam

Pemato vippamuttassa

Natthisoko kuto bhayam

Nghĩa là thương yêu sanh ra uất ức, thương yêu sanh ra lo sợ, dứt được thương yêu thì sự uất ức lo sợ không còn có nữa.

Ý câu Phật ngôn này dạy rằng: Người bị uất ức hành hạ là do nơi sự thương yêu càng nhiều thì khổ lại càng cao. Khi tâm yêu thương vật gì mà vật ấy mất, khi thất vọng thì có uất ức. Khi không có thương yêu, thì làm gì có uất ức hay thất vọng.

Quý vị cũng từng biết trước sự sanh tử biệt ly là cảnh rất đỗi đau khổ, mà chúng ta ai ai cũng phải trải qua hoặc nhiều hay ít, vậy chúng ta ai ai cũng nhận thức cái khổ ấy và chắc chắn rằng ngày nào đây ta phải còn gặp cảnh ấy nữa. Sự chắc thật không thể nào khỏi, là ta phải bỏ thân này ra đi với nghiệp mà ta đã làm, mặc dù ta giàu sang quyền chức, có nhiều thế lực, anh em vợ con, những nhân vật này không làm sao cho ta ở lại được, mặc dù họ rất thương tiếc ta.

Đức Thế Tôn nhận rõ sự uất ức là tai hại khủng khiếp mà chúng sanh còn trong tam giới không sao tránh khỏi. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy không nên để cho sự uất ức ngự trị lòng mình.

Đức Thế Tôn có dạy hai phương pháp ngăn ngừa và diệt trừ sự uất ức ấy:

1. Hằng niệm về sự chết do Đức Bồ tát dạy:

a) Sattanam ma ramadhuvam: chắc chắn là chúng sanh phải chết.

b) Jivatam adhuvam: sanh mạng của chúng sanh không chắc (nghĩa là không bền vững).

c) Sabbe sankhārā aniccā: tất cả các pháp hành đều vô thường.

d) Rattimaca divāsa appamāttā hotha: tất cả các pháp hành không bền vững, hằng thay đổi từng giờ phút, vậy các người không nên dễ duôi.

2. Hành theo lời Phật dạy là:

a. Adhuvam javatam: đời sống không bền vững chắc chắn.

b. Dhuvammaranam: sự chết rất chắc chắn (không ai chạy nổi).

c. Avass ammaya maritabbam: ta chắc phải chết.

d. Marana pairiyosānam me jivitam: đời sống của ta có sự chết là nơi cuối cùng.

e. Jivitameva niyatam: đời sống thật là không bền vững.

f. Maranam niyatam: cái chết thật bền vững (ý nói cái chết không hề thay đổi, nó phải đến với ta).

Đức Phật có dạy người nên niệm thêm 8 điều nữa là:

1. Sự chết ví như đao thủ phủ đã đưa đao lên và chực hạ xuống nơi cổ ta.

2. Sự chết của con người như tay nấm mọc từ dưới đất lên. Ý nói khi tay nấm mọc từ dưới đất lên thì thế nào trên đầu nó cũng có dính đất, ví như con người khi vừa tượng thai vào lòng mẹ thì cái chết dính liền theo.

3. Sự chết ví như mặt trời. Mặt trời mọc ở hướng Đông chắc chắn phải lặn về hướng Tây, từ cổ chí kim không bao giờ mặt trời lặn về hướng khác, mà cũng không bao giờ không lặn. Đời người cũng vậy, không bao giờ không chết, hễ đã sanh vào bào thai là tử thần đã kề liền vào cổ rồi.

4. Thân này là cái nôi của các thứ vi trùng và các chứng bệnh.

5. Thân này thường bị biến đổi từng giờ phút theo thời gian mà chúng sanh không biết.

6. Thân này không có nơi nào gọi là nương tựa để tránh khỏi tay tử thần được.

7. Thân này ta chấp là của ta, nhưng ta không thể nhất định thời giờ mà ta phải chết và chỗ ta chết được.

8. Đời sống của con người chỉ trong một sát na thôi, ý nói đời sống của người rất ngắn (một sát na còn ngắn hơn một nháy mắt, ý câu này dạy rằng, khi không còn thở là không còn có xác thân này rồi).

Đức Phật là đấng cao thượng hơn tất cả các bậc trí tuệ. Ngài thường dạy chúng sanh cái nhân sanh ra quả. Ngài dạy khi bị quả, nên bỏ đi không nên luyến tiếc tham mê quả ấy mặc dù quả ngon. Tóm lại, Ngài dạy ngăn cái nhân và bỏ cái quả, cũng như Ngài dạy không nên trồng cây. Khi chúng sanh đã lỡ trồng cây rồi, Ngài dạy đốn bỏ, hay nếu cây có trái và trái đang hái, Ngài dạy quăng trái luôn không nên dùng nó.

Người sở dĩ phải uất ức ưu phiền, vì người vẫn luyến tiếc nhân vật mà mình bị mất. Nếu ta không luyến tiếc thì ta không bị uất ức, tức nhiên không còn khổ, đó là Niết Bàn, là hạnh phúc.

Đây tôi xin nhắc lại tích của gia đình nọ có 5 người và cô gái không than khóc uất ức vì thương yêu, nên được hạnh phúc.

Khi Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, có một người tên Kutumbi có con chết. Ngài mới thuyết Túc sanh truyền này.

Người Kutumbi có con chết than khóc thê thảm, bỏ cả công ăn việc làm. Đức Thế Tôn trông thấy duyên lành người ấy, nên ngài mới dự đến nhà. Khi an vị xong, nguời mới gọi Kutumbi ấy đến và hỏi: “Người buồn khổ lắm phải không?”

– Bạch Đức Thế Tôn, từ ngày con của đệ tử chết đến nay, đệ tử lấy làm đau khổ, không sao kể diệt được.

– Này Kutumbi, lẽ cố nhiên của các pháp hữu vi thì có sự diệt là lẽ thường, sự tiêu diệt ấy không phải để riêng cho cá nhân, hay một gia đình, hoặc một xóm, hay một gia tộc nào, mà là của chung của chúng sanh. Hơn nữa pháp vô sanh bất diệt, người không thể tìm thấy trong vũ trụ này. Không có ai có quyền thế gì làm cho chúng sanh còn trong dòng sanh tử luân hồi này khỏi chết được. Tất cả các pháp hành không có một pháp nào bền vững. Tất cả chúng sanh đều phải chết là thường như vậy. Lẽ cố nhiên của các pháp hành, nếu có sanh thì có diệt không sao tránh khỏi được. Nhưng riêng các bậc trí thức, không khi nào khóc khi con chết, bởi nghĩ rằng đó chẳng qua là pháp hành cấu tạo, rồi lài phải tiêu diệt, nó hằng có sự tiêu hoại là lẽ tự nhiên.

Đức Thế Tôn chỉ thuyết chừng ấy xong, ông Kutumbi mới yêu cầu Đức Thế Tôn thuyết thêm. Đức Thế Tôn mới dạy rằng:

“Lúc quá khứ, đức vua Brahmadatta trị vì tại kinh đô Bārānasī. Đức Bồ tát sanh trong gia đình Bà la môn, nhà ở gần cửa thành Bārānasī, nhà người chỉ làm ruộng thôi. Khi ấy Đức Bồ tát mới cưới vợ cho con trai ngài cũng là dòng Bà la môn cùng ở một làng. Tính cả người trong gia đình của ngài có 6 người là: ngài, vợ ngài, và con gái, con trai, dâu và người ở gái. Sáu người này đều hòa thuận và rất kính thương nhau. Đức Bồ tát thường dạy người nhà rằng: “Các người nên giữ thập thiện và tùy theo sức mình mà bố thí; hãy thọ ngũ giới và chuyên trì thêm bát quan trai giới, phải có trí nhớ và luôn luôn phải niệm tưởng rằng ta sẽ chết là lẽ dĩ nhiên, đời sống của con người rất bấp bênh, không vững chắc, đời sống con người không bảo đảm, mà của cải của ta đã có cũng vậy. Cái chết chắc chắn có cho ta. Vậy các ngươi không nên dễ duôi”. Người nhà đều vâng lời của ngài lo niệm tử, không hề xao lãng”.

Ngày nọ, nhằm mùa ruộng. Đức Bồ tát và con trai ra đồng lo cày ruộng. Đức Bồ tát thì cày, còn con trai thì gom rác lại đốt gần bên một cái gò mối, trong gò mối ấy có một con rắn độc. Khi bị khói, rắn không chịu nổi nên bò ra, gặp người thanh niên đang đốt rác nó cắn chết tại chỗ. Khi Đức Bồ tát hay thì con mình đã chết rồi. Ngài không buồn lo than khóc chi cả, bồng con lại để nằm dưới một tàng cây, còn ngài vẫn đi cày như thường. Vì khi ấy ngài nghĩ rằng sự thật khi các pháp hành đã cấu tạo ra, thì cũng có ngày tan rã là thường, nên dù ta buồn thương cũng chẳng ích lợi chi. Vật phải chết đã chết rồi, vật phải tiêu diệt, nay cũng đã tiêu diệt rồi. Tất cả các pháp hành không bền vững là thế, cái kết quả thảm khốc nhất đời, là ta phải dứt bỏ nó hay là nó bỏ ta. Không ai tránh khỏi chết.

Trong khi ấy, ngài trông thấy một người thanh niên cùng xóm đi ngang qua, ngài mới hỏi rằng: “Em ơi, em về nhà em phải không?”

– Dạ thưa ông phải!

– Nếu em vui lòng ghé ngang nhà tôi và bảo người nhà tôi rằng hôm nay, đừng đem ra hai phần cơm, chỉ đem ra một phần thôi. Mỗi ngày trước, khi người tớ gái đem cơm ra, hôm nay em bảo họ ra đây cả bốn người, mà phải sửa soạn cho sạch và phải có tràng hoa.

– Dạ được.

Người thanh niên ấy mới về nói cho người nhà của Đức Bồ tát hay. Bà vợ Đức Bồ tát mới hỏi: “Này em ai là người nhắn tin này cho tôi?”

– Thưa bà, ông nhắn về cho bà.

Bà la môn biết con mình đã chết rồi, mặc dù bà biết thế chăng nữa, bà cũng không than khóc thương tiếc chi cả. Bà gọi con gái, dâu, và người tớ gái đến và bảo hãy tắm cho sạch sẽ, sắm sửa tràng hoa cho tinh khiết và đem theo một phần cơm ra ruộng với bà. Khi bốn người ra đến ruộng, họ vẫn thấy Đức Bồ tát đi cày như thường, không tỏ vẻ gì bi ai cả. Họ đem cơm lại cho ngài dùng cơm tự nhiên. Khi ngài dùng cơm xong, năm người lo chất củi khô lại để làm hỏa đài, trong khi ấy cũng không có ai tỏ vẻ buồn tiếc cả, khi làm hỏa đài xong, họ để thi hài lên đốt lửa. Trong khi ấy cũng không có người nào than khóc, mỗi người ai lo phận sự nấy.

Lòng trong sạch của 5 người ấy làm cho nóng đến Đức Đế Thích. Ngài lấy làm lạ không biết vì nguyên nhân gì, ngài dùng thiên nhãn thông xem, thì mới thấy câu chuyện của 5 người ấy. Ngài mới quyết định phải xuống hỏi rõ xem những người này hành Phạm hạnh gì, mà không bị lụy giữa cảnh sanh tử biệt ly. Ngài liền hiện ra một thầy Bà la môn đến hỏa đài và hỏi rằng: “Các người làm gì đây?”

Đức Bồ tát đáp: “Tôi làm lễ hỏa táng”.

Đức Đế Thích nói: “Theo tôi tưởng, thì không phải là hỏa táng, các người đang chuẩn bị nướng thịt chi đây?”

Đức Bồ tát đáp”: “Thưa thầy Bà la môn, chúng tôi không bao giờ biết nói dối, chúng tôi làm lễ hỏa táng thật!”

Đức Đế Thích hỏi: “Nếu vậy các người làm lễ hỏa táng người thù của các người chăng?”

– Thưa thầy, người này không phải là người thù của chúng tôi, trái lại là người con chí thân của tôi.

– Nếu là đứa con chí thân của ông sao, không thấy ông than khóc chi cả vậy?

Đức Bồ tát muốn tỏ rằng sở dĩ mình không than khóc là vì lẽ đã quán tưởng nhiều về cái chết, nên nói câu kệ:

Uragova tacam jinnam hitvā gacchati santanum eva.

Sarīre nibbhoge pete kālakate sati dayhamāno na jānāti nātīnam paridevatam.

Tasmā etam na ocati tato so tassa yagati.

Nghĩa là một khi rắn đã lột da rồi, đã sanh về cảnh giới khác như thế này, thì sự than bi lụy có cần và ích gì. Thân của con tôi hôm nay có đem đâm chém, hoặc đang đốt đây cũng không biết đau nóng, cũng như con tôi đã chết rồi, nó còn thiết gì đến quyến thuộc mà thương tiếc khóc than? Vì vậy nên tôi không thương tiếc khóc than uất ức với con tôi. Nhân như thế nào thì được hay bị như thế ấy.

Đức Đế Thích nghe thế mới dạy qua hỏi vợ của Đức Bồ tát rằng: “Thưa bà, còn người chết đây là chi của bà?”

Bà đáp: “Người chết đây là con trai yêu quí của tôi”.

– Ô! Phàm người cha thì thường có tâm cứng rắn, đó là lòng của người đàn ông, tôi không lấy làm lạ, còn tâm của người mẹ, thì rất mềm mà tại sao bà lại không khóc.

Bà muốn giải tại sao bà không khóc cho Đức Đế Thích nghe, bà mới nói câu kệ rằng:

Anabbhito tato agā nānuata ito gato

Yathā gato tathā gato tathā kā parivedana

Dayhamāno na jānāti nātīnam paridevatam

Tasmā etam na socati gato tassaya gati

Nghĩa là con tôi đây không mời nó từ cảnh giới khác đến, tự nó sẽ sanh vào nhà tôi. Đến khi ra khỏi cõi này, nó cũng không xin phép tôi. Một khi nó đến cũng tùy ý nó, một khi nó đi cũng tùy ý nó, thì sự than khóc thương tiếc cái xác thân của con tôi đây có ích lợi gì. Một khi con tôi bị lửa đốt cháy như thế này, mà nó cũng không biết vui hay khổ, thì nó nào có biết sự than khóc uất ức của thân thuộc đâu mà tôi khóc? Vì lẽ ấy nên tôi không than khóc thương tiếc con tôi, con người làm nhân nào thì được quả ấy.

Đế Thích mới hỏi cô con gái của Đức Bồ tát rằng: “Người này là chi của cô?”

– Thưa ông, người này là anh ruột của tôi.

– Lẽ cố nhiên cô là thiếu nữ hằng thương mến anh trai, tại sao cô lại không bi lụy giữa tình cảm biệt ly như thế này?

Cô muốn giải lòng cô cho Đế Thích rõ nên nói câu kệ:

Sace rode kīsā assam tassā ne kim phalam siya

Nātimittā suhajjānam bhiyo no arati siya

Deyhamāno na jānāti nātīnam paridevatam

Tasmā etam na rocemi tata so tassa yagati

Nghĩa là một khi anh tôi đã chết, dù tôi có than khóc thì tôi chỉ chắc lấy cái ốm o gầy mòn, anh tôi cũng chẳng được sự lợi ích gì của sự than khóc của tôi, chỉ tôi là người bị thiệt hại thôi. Những sự khổ sở thương mến than khóc của những người bạn đang còn sanh tiền đây, anh tôi cũng không hay biết gì cả. Về vậy tôi không than làm gì vô ích. Người tạo ra duyên nghiệp thế nào thì sanh theo duyên nghiệp thế ấy.

Khi Đức Đế Thích hỏi cô em gái của người chết xong, mới hỏi đến dâu của Đức Bồ tát rằng: “Cô, người chết ấy là chi của cô?”

– Thưa ông, người chết ấy là chồng tôi.

– Lẽ cố nhiên tình nghĩa vợ chồng thương yêu nhau lắm, phàm một người chết, thì cũng như người còn sống lại chết đi hết nửa người, người ấy gọi là người quả phụ. Tại sao cô lại không than khóc, khi mà cô trông thấy rằng trên đời này cô mất tình thương đầm ấm nhất?

Cô ấy muốn tỏ lòng không uất ức khóc than cho Đức Đế Thích biết nên nói câu kệ rằng:

Yathā pi dārako candam gacchantam anuro-dati

Evam sampademevedam yo petāmanussocati

Deyhamāno na jānāti nātīn am paridevatam

Tasmā etam nasocāmi gatoso tassa yagati

Nghĩa là đứa bé chưa hiểu sự đời, khi nó trông mặt trăng đang di chuyển trên không, nó cứ theo đòi (muốn đem về chơi), điều này cũng ví như người đời kêu khóc người đã quá vãng, thì thật là không có ích gì cả. Chồng tôi một khi bị đốt trên hỏa đài mà cũng không hay biết gì cả, thì chồng tôi đâu biết rằng quyến thuộc vợ con đang khóc. Vì cớ ấy nên tôi không than khóc thương tiếc. Phàm người tạo nghiệp nào hưởng quả ấy.

Đức Đế Thích day qua hỏi người tớ gái rằng: “Người chết này là chi của cô?”

– Thưa ông người ấy là chủ tôi.

– Có lẽ là cô thường bị người chủ hành hạ đánh đập khổ sở lắm, nên khi người ấy chết, cô không than khóc thương tiếc chi cả, vì cô nghĩ rằng người này có chết đi chỉ là một chuyện may cho ta khỏi còn bị đòn, hành hại khổ sở nữa.

– Xin ông đừng nói thế, vì không đúng với sự thật của chủ tôi. Người chết đây là người đủ đức tánh tốt, nào là nhẫn nại, từ bi, đối với tôi không khác nào người cùng một cha mẹ.

– Nếu vậy tại sao cô lại không khóc?

Cô muốn cho Đức Đế Thích biết tại sao cô không khóc, cô mới nói câu kệ rằng:

Yathapi udakakumbho bhinno appatisandiyo

Evam sampadamevetam yo pet am anussocati

Deyhamano na janati natinam paridevanam

Tasma emma na socāi gato so tassa ya gati

Nghĩa là cái nồi đất đã bị bể, không thể ráp cho nó liền được như trước, cũng như người nào than khóc người đã quá vãng, chỉ hoài công vô ích. Chủ tôi bị thiêu trên hỏa đài còn không biết gì thay, phương chi quyến thuộc than van khóc lóc thì có ích gì. Vì lẽ ấy nên tôi không than khóc chi cho vô ích, chúng sanh tạo những nghiệp gì thì đi theo cái ấy.

Ý cô này nói lẽ cố nhiên khi cái nồi đất bể, không thể có người làm lành lại được, như người đã chết thì không làm sao sống lại được.

Sau khi nghe 5 người nói xong lòng mình. Đức Đế lấy làm trong sạch, bảo rằng: “Vậy từ đây trở đi các người không dễ duôi với sự niệm đề mục chết. Vậy từ đây trở đi các người khỏi làm lụng khó nhọc. Ta đây là Đế Thích, ta sẽ ban cho các người 7 thứ ngọc quí đầy nhà. Các người sẽ sống được nhàn, phải bố thí, trì giới”.

Sau khi thuyết xong, Đức Thế Tôn dạy rằng người tớ gái ấy chính là nàng Khujjutarā. Hiện tại, người con gái là cô Upalavanan, người con trai là Rahula, người mẹ là cô Khema. Còn vị Bà la môn ấy là Như Lai đây.

Tích này cho quí vị thấy rằng không ai chạy khỏi chết, và khi người đã chết mà ta uất ức tiếc thương, không lợi ích gì cả.

Khi người không uất ức, được hạnh phúc là:

1. Tâm đã dạy niệm tử hằng ngày, nên không buồn phiền uất ức khi gặp cảnh sanh tử biệt ly.

2. Trí nhớ luôn luôn kiểm soát tâm và nhớ đến cái chết.

3. Năm điều chướng ngại sẽ được từ từ yên lặng.

4. Thiền định sẽ phát sanh.

5. Là người luôn luôn không dễ duôi,

6. Người chán trong cõi sanh tử luân hồi.

7. Bỏ sự yêu thương của đời sống.

8. Là người hằng chỉ trích tội lỗi của mình

9. Người có nhiều phước thiện sẵn sàng để đem về cõi khác.

10. Không còn bỏn sẻn.

11. Thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã.

12. Không kinh sợ trước tử thần.

13. Là phước báu cao thượng.

14. Không còn sanh vào ác đạo.

15. Giải thoát khỏi phiền não.

16. Đến nơi an vui tuyệt đối là Niết Bàn.

 

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.