Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 9 & 10

HẠNH PHÚC XXXVIII

Khemaṃ
Lòng tự tại.

Phạn ngữ Khemaṃ nghĩa là tự tại, lại còn có nghĩa khác nữa là không sợ sự kinh hoàng, thoát khỏi tất cả tai nạn, trở ngại, không còn bận rộn, được có sự an vui, tiến hóa, đẹp và cao quý, giải thoát khỏi bốn điều trầm nghịch, đến Niết Bàn.

Lòng tự tại chia ra làm ba hạng:

1. Lòng tự tại bậc thấp là tâm vắng lặng phiền não tạm thời trong khoảng thời gian lâu hay mau tùy theo sự đè nén tâm của hành giả có thể chịu đựng được, như trong khi nghe pháp, học pháp hay học tham thiền nhưng chưa chắc đắc thiền định, mà cũng chưa đắc minh sát tuệ.

2. Lòng tự tại bậc trung là tâm của hành giả đã đắc được thiền định, và tâm của các vị đắc định do nhờ hành minh sát tuệ.

3. Lòng tự tại bậc thượng là tâm của các vị đắc được minh sát tuệ và một trong bốn quả.

Tâm hồn của chúng sanh thật là phức tập, lúc là bạn khi là thù, nghĩ kỹ không khác nào trên sân khấu, nhưng là sân khấu lớn vô lượng vô biên và ai ai cũng đóng tuồng hết, nên không thấy rõ chân tướng của mình hay của kẻ khác. Chỉ có bậc thánh nhân mới là đấng giải thoát, nên các bậc ấy là khán giả trông thấy rõ rệt hành vi của ta vụng hay khéo thôi.

Khi tâm thiện phát sanh thì lời nói cũng như việc làm hoàn toàn lành, bằng khi tâm ác sanh, thì nói hay việc làm đều đáng ghê tởm.

Trong điều hạnh phúc chót này, Đức Phật chỉ rõ cái phức tạp rắc rối trong tâm của chúng sanh, cùng phương pháp để trừ và phòng bị những cái rắc rối phức tạp trong tâm chúng sanh.

Tâm của chúng sanh thường bị trầm nghịch trong bốn cái hầm, nên không được tự tại. Bốn hầm ấy là:

1. Kāmāsava: hầm ái dục.

2. Bhavāsava: hầm tam giới.

3. Ditthāsava: hầm tà kiến.

4. Avijjāsava: hầm vô minh.

Bốn cái hầm này rất là sâu rộng và tối tăm, nên chúng sanh không thấy đâu là bờ mà lội vào. Hầm ấy sâu, có sóng to gió lớn, nhận chìm chúng sanh xuống đáy của sự khổ, không sao trôi ra khỏi được.

Hầm ấy rộng, nên chúng sanh khó lội vào bờ. Chúng sanh nào giỏi lắm là vớ lấy một miếng gỗ để lội tạm thời, đến khi bị trận gió lớn sóng to, sút tay chìm đắm lại nữa. Tôi muốn nói khúc gỗ mà ta vớ được tạm thời ấy, là cõi trời hay cõi sắc giới hoặc vô sắc giới, ta chỉ tạm ở được một lúc thôi, rồi phải bị rớt trở lại nơi khổ nữa.

Những lượn sóng to ấy ví như vật dục. Vật dục ấy là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự cảm xúc mềm mại làm cho chúng ta mê theo, quên già, đau và chết.

Những trận gió lớn ấy tức là phiền não dục, hay là tham lam, sân hận, si mê. Những phiền não dục này nhận chìm cả thuyền to, chớ chẳng phải chỉ có ta mà thôi.

Xin giải về bốn hầm ấy như dưới đây:

1. Hầm ái dục là cái hầm thương yêu khó mà lội qua khỏi, vì cái hầm này to không phân biệt đâu là bờ bến. Thậm chí bậc chư thiên vẫn còn sa vào, như đức vua Mahāsudassana trong sự tích sau đây:

Đức vua Sudassana là vị Chuyển Luân Thánh Vương. Quanh thành của ngài có cây thốt nốt bằng bạc, lá vàng, trái ngọc hằng có các loại chim quý đến ca hót nghe thật vui tai.

Ngày trai giới, đức vua mặt đồ trắng thọ bát quan trai giới xong, ra đứng giữa trời vỗ tay ba tiếng có mưa vàng ngọc đầy đồng. Nhân dân nhờ đó mà sống một cách an nhàn sung túc thảnh thơi. Thế mà đức vua vẫn còn thấy chưa đủ.

Vì vua có phước quá nhiều, nên các bậc thiên vương như Đế Thích cũng nể mặt, nhất là Đức Đế Thích nhường cho ngài trị vì nữa cõi Đạo Lợi. Nhưng không vì vậy mà toại nguyện, ngài còn muốn chiếm luôn trọn cả cõi Đạo Lợi mới vừa lòng, nên ngài đánh đuổi Đức Đế Thích đi, để chiếm lấy hết. Nhưng không sau thắng nổi Đức Đế Thích, nên ngài bị Đức Đế Thích đưa về cõi người.

Câu chuyện trên đây để chúng ta thấy rằng người hay chư thiên cũng là nô lệ của ái dục, tham ái, không sao thoát khỏi hầm này.

2. Hầm thứ hai là hầm tam giới tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi người chưa ra khỏi ba hầm này là còn ở dưới quyền thống trị của ngũ ma. Khi muốn chạy hay đánh ngã được ngũ ma thì phải dùng khí cụ tối tân của Đức Thế Tôn, là Bát Chánh Đạo.

Dục giới còn khổ hơn sắc giới và vô sắc giới. Mặc dù hai cõi này có phần an vui hơn, nhưng cũng không khỏi luân hồi. Vì vậy hành giả nào có kinh sợ luân hồi mới giải thoát được khỏi tam giới. Muốn thoát khỏi luân hồi, chỉ có một con đường, là đạo có đủ tám chi, hay tám điều.

3. Hầm thứ ba là hầm tà kiến, còn đáng sợ hơn hai hầm trên rất nhiều. Vì người đã sa vào hầm tà kiến thì không còn ai thuyết phục được. Vì vậy nên phương pháp của Đức Phật dạy, muốn giải thoát, phải đi theo Bát Chánh Đạo, mà trong ấy, chánh kiến đi đầu, thế thì ta thấy rằng diệt tà kiến là quan trọng tới chừng nào.

4. Hầm thứ tư là hầm vô minh. Nói đến vô minh thì ai cũng lầm tưởng rằng là tối tăm, mờ ám, không thấy đường đi, chúng sanh vì ở nơi tối tăm nên không thấy đường ra nên chịu khổ mãi.

Nói thế có thể tạm gọi là trúng một phần, nhưng thật ra, vô minh làm cho ta không tìm và thấy được phiền não, nhất là ái dục, là động cơ chính yếu, làm cho chúng ta không tìm thấy Niết Bàn là nơi giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy nên chúng ta không tiến hành theo đường chánh được.

Tóm lại, vì vô minh nên không giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy, diệt vô minh là một điều rất quan trọng. Quí vị hãy hình dung một đêm giữa biển rộng mưa bão, phần thì thuyền nhỏ mà chở khẳm, thì quý vị sẽ thấy kinh sợ dường nào. Đời người cũng vậy, quanh ta đầy những tai nạn hãi hùng, cái chết gần bên ta trong một sợi tóc mà thôi, mà ta không thấy, tại sao ta không nhìn thấy? Rồi trả lời, chắc quí vị thấy, tại vì vô minh che đậy mọi việc, nên thấy xấu cho là đẹp, thấy trái với sự thật mà Đức Phật đã dạy. Đó là vô minh vậy.

Bóng tối và gió bão cùng những con cá đang chờ ăn thịt ta, ví như nạn tai đợi chờ ta trong tam giới. Đối với sóng to gió lớn mà lại vô phương chống chỏi, thật là kinh khủng phi thường. Vậy tại sao ta không tìm lấy một vật gì để nương tựa vào? Đức Thế Tôn có dạy, còn có con thuyền vượt qua khỏi biển rộng sóng to gió lớn và đầy loài cá dữ ấy, đó là Bát Chánh Đạo.

Tóm lại bề sâu của vô minh làm cho chúng sanh tối tăm không nhận thấy ba tướng trong luân hồi khổ… Bề rộng của vô minh là cái che lấp đường tiến thủ của chúng ta.

Vì vậy trong Bát Chánh Đạo có tám pháp mà tóm lại là giới, định, tuệ; không khác nào là chiếc thuyền có đủ tiện nghi cho ta vượt qua biển rộng.

Tôi xin ví dụ: Chiếc thuyền ấy là giới, định ví như cột buồm, cánh buồm là tất cả những tiện nghi trên ghe. Còn tuệ là vị thuyền trưởng thông hiểu phương hướng để đưa thuyền đến nơi đến chốn. Cũng có thể ví giới như là chiếc thuyền, định như sức mạnh đẩy thuyền vào bờ, tuệ ví như đèn soi đường thấy bờ bến để thuyền vào được.

Khi ta có giới, định, tuệ đầy đủ, dù hầm ái dục có sâu rộng và nhiều gian nguy, nhưng ta cũng có thể thoát ra được. Ta có thể tin như thế được, vì đã có nhiều vị đã giải thoát và có để lại phương pháp và họa đồ để ta noi theo đấy mà ra.

Người có tâm tự tại được những hạnh phúc sau đây:

1. Là đại phước.

2. Là người không dễ duôi.

3. Là người không xa chánh pháp.

4. Là người đã chuẩn bị sẵn sàng vật thực để đi đường xa.

5. Là người đã xa ác đạo.

6. Là người đã cúng dường sự hành đạo giải thoát của mình đến Đức Phật.

7. Là người có thân, khẩu, ý trong sạch.

8. Là người tự tại ngoài bốn hầm to lớn ấy.

9. Là người hành theo Phật ngôn.

10. Là người được hưởng an vui trong mọi hoàn cảnh.

11. Là người Phật tử chân chánh.

12. Là người hiểu rõ Pháp bảo.

13. Là người có thể làm gương mẫu cho đàng hậu tấn.

– HẾT-

Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)

http://www.budsas.org/uni/u-38hanhphuc

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.