Kim Cương Bát Nhã Luận – Quyển 1

Ở đây, thân đẹp đẽ: Là thân đạt đến, thân thành tựu được chuyển y rốt ráo.

Thân cao lớn: Là thân gồm thâu tất cả thân chúng sinh.

Từ đây trở lên đều là cầu đạt Phật địa, nên biết Phật địa ấy lại có 6 thứ đầy đủ, gồm thâu chuyển y đầy đủ:

1. Quốc độ thanh tịnh đầy đủ.

2. Kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ.

3. Thân tùy hình hảo đầy đủ.

4. Tướng thân đầy đủ.

5. Ngữ đầy đủ.

6. Tâm đầy đủ.

Trong tâm đầy đủ nầy lại có niệm xứ, có chánh giác, có pháp lợi lớn được thiết lập, có sự thâu giữ lấy Pháp thân, có không trụ nơi sinh tử Niết-bàn, có hành trụ thanh tịnh, nên biết.

Nơi hành trụ thanh tịnh ấy, nên biết lại có hành trụ oai nghi, có hành trụ quán danh sắc tự tại, có hành trụ không nhiễm.

Trong hành trụ không nhiễm nầy, nên biết lại có: Thuyết pháp không nhiễm, lưu chuyển không nhiễm.

Vì quốc độ thanh tịnh đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta làm trang nghiêm quốc độ, thành tựu v.v…

Vì kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có nhục nhãn chăng? Cho đến: Như Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…

Vì thân tùy hình hảo đầy đủ, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng sắc thân thành tựu để thấy Như Lai chăng? v.v…

Vì tướng thân đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…

Vì ngôn ngữ đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có khởi suy niệm: Ta đã thuyết pháp chăng? v.v…

Ở trong tâm đầy đủ, là niệm xứ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Phi chúng sinh, phi chẳng chúng sinh v.v…

Vì chánh giác, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Từng có pháp để Như Lai đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng?

Vì thiết lập pháp lợi lớn, nên kinh nói: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Trong Tam thiên đại thiên thế giới, hiện có núi Tu-di v.v…

Vì nhằm thâu giữ lấy Pháp thân, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v… Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ để đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Chớ nên nghĩ như thế: Nghĩa nầy là làm rõ thể của tướng đầy đủ là “phi Bồ-đề”, cũng không dùng tướng đầy đủ làm nhân, do tướng là tự tánh của sắc.

Vì không trụ nơi Niết-bàn, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Người suy niệm như thế để phát khởi, hành thừa Bồ-tát, có pháp để nói đoạn dứt chăng? v.v…

Vì không trụ nơi lưu chuyển, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát ở nơi tụ phước, không nên thọ nhận, không nên chấp giữ v.v…

Thọ nhận: Là nói về có.

Chấp giữ: Là chấp giữ đạo kia.

Như tụ phước, cùng trong quả đều không nên chấp giữ.

Ở trong hành trụ thanh tịnh, vì hành trụ oai nghi, nên kinh nói: Nếu có người nói như vầy: Như Lai hoặc đã v.v…

Vì hành trụ quán danh sắc làm rõ tự tại, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như các thiện nam, thiện nữ đem số lượng vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…

Ở trong hành trụ không nhiễm, vì thuyết pháp không nhiễm, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như Bồ-tát đem vô lượng vô số thế giới v.v…

Vì lưu chuyển không nhiễm, nên kinh nói:

Như sao, màng, đèn, huyễn

Sương, bọt, mộng, chớp, mây

Nơi các pháp hữu vi

Phải nên quán như thế.

Kệ nầy hiển bày 4 thứ tướng hữu vi. Đó là:

1. Tướng tự tánh.

2. Tướng tham vướng trụ nơi vị.

3. Tướng thuận theo lỗi lầm.

4. Tướng tùy thuận xuất ly.

+ Ở đây, tướng tự tánh: Là cộng tướng nơi kiến, thức. Tướng nầy như ánh sao, nên thấy như thế. Vì sao? Vì trong chỗ tăm tối của không trí thì có ánh sáng kia. Còn trong chỗ sáng tỏ của có trí thì không có ánh sáng ấy. Ngã kiến của người, pháp như “màng mắt nhặm”, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do chấp giữ lấy vô nghĩa. “Thức” như đèn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì khát ái thấm nhuần nơi thủ, duyên nên càng tỏ rõ.

+ Ở đây, tướng tham vướng trụ nơi vị: Là vị tham chấp về cảnh giới điên đảo. Tướng ấy như huyễn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do kiến điên đảo.

+ Ở đây, tướng thuận theo lỗi lầm: Là thuận theo như vô thường v.v… Tướng ấy được ví dụ như sương móc: Là hiển bày thể của tướng là không có, do thuận theo vô thường.

Tướng ấy được ví dụ như bọt nước: Là hiển bày sự thuận theo thể của khổ, do thọ như bọt nước, nên nếu có thọ đều là khổ, nên thuận theo Hữu. Nên biết khổ ấy là sinh, nên là khổ khổ. Hoại diệt nên là hoại khổ. Không cùng lìa nên là hành khổ.

Lại ở trong thiền thứ tư cùng vô sắc, lập thọ không khổ không lạc, cho là hơn hết.

+ Ở trong tướng tùy thuận xuất ly: Do tùy thuận người, pháp vô ngã để duyên dựa, nên được xuất ly, nên nói vô ngã dùng làm xuất ly.

Tùy thuận: Là các hành như quá khứ v.v… Dùng mộng v.v… để ví dụ, là hiển bày hành quá khứ kia. Do là xứ được nhớ nghĩ nên như mộng.

Hiện tại: Là thời gian trụ không lâu, nên như ánh chớp.

Vị lai: Là chủng tử thô ác kia giống như hư không, dẫn tâm xuất nên như mây. Như thế là nhận biết về hành của ba đời chuyển sinh rồi, tức thông tỏ về vô ngã. Đây là hiển bày tướng tùy thuận xuất ly.

Trụ xứ kia cùng tóm lược làm 8 thứ cũng được đầy đủ:

1. Trụ xứ gồm thâu.

2. Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh.

3. Trụ xứ dục.

4. Trụ xứ lìa chướng ngại.

5. Trụ xứ tâm tịnh.

6. Trụ xứ cứu cánh.

7. Trụ xứ rộng lớn.

8. Trụ xứ sâu xa.

Ở đây:

Trụ xứ gồm thâu: Nghĩa là phát tâm.

Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh: Là hành Ba-la-mật tương ưng.

Trụ xứ dục: Là muốn đạt được Sắc thân, Pháp thân.

Trụ xứ lìa chướng ngại: Là mười hai thứ còn lại.

Trụ xứ tâm tịnh: Nghĩa là chứng đạo.

Trụ xứ cứu cánh: Là từ đây trở lên đều cầu đạt Phật địa.

Trụ xứ rộng lớn cùng sâu xa: Là chung cho hết thảy xứ.

Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là rộng lớn. Nếu lại nói: Hoặc Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là sâu xa.

Trong Trụ xứ thứ 2: Như nói Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí v.v… Đây là sâu xa. Nếu lại nói: Tụ phước hiện có kia là không thể lường tính v.v… Đây là rộng lớn.

Như thế, ở trong các trụ xứ còn lại, nên biết là rộng lớn, sâu xa cùng theo chỗ tương ưng.

* Đã nói về Trụ xứ. Còn thế nào là Đối trị? (Nghĩa cú thứ 4)

Như vậy là hành tướng tương ưng kia, lúc hành các Trụ xứ, nên biết có 2 thứ đối trị: Là hành tà và hành chánh cùng kiến. Ở đây, kiến nghĩa là phân biệt.

Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là đối trị hành tà. Sinh tâm như thế là hành tà của Bồ-tát. Hoặc lại nói: Nếu Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là đối trị hành chánh cùng kiến (phân biệt). Phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là “Ta nên khiến chúng sinh được diệt độ”.

Ở trong Trụ xứ thứ 2: Như nói: Nên hành bố thí. Đây là đối trị hành tà, không phải không bố thí là hành tà của Bồ-tát. Nếu lại nói: Trụ nơi sự v.v…, là đối trị hành chánh cùng kiến, vì phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là nên hành bố thí v.v…

* Thế nào là không lỗi? (Nghĩa cú thứ 5) Vì đã lìa hai biên. Thế nào là 2 biên? Là biên tăng ích và biên tổn giảm. Nếu ở trong sự vô ngã của pháp, mà chấp là không, là biên tổn giảm, do tụ phước kia không có tự tánh phân biệt. Hoặc lại nói: Thế nên Như Lai nói tụ phước. Đây là ngăn chận biên tổn giảm, do tụ phước kia không như ngôn từ có tự tánh, nhưng có sự để có thể nêu, do Như Lai nói tụ phước. Đây là được hiển thị như thế.

“Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy Như Lai nói là phi Phật pháp”: Đây là nhằm ngăn chận biên tăng ích.

Đó gọi là Phật pháp: Đây là nhằm ngăn chận biên tổn giảm.

Ở đây, Như Lai nói là phi Phật pháp: Là hiển bày nghĩa không chung.

Đó gọi là Phật pháp: Là hiển bày nghĩa tương ưng.

Thế nào là tương ưng? Nếu Phật pháp như nói có tự tánh, thì Như Lai không nói là Phật pháp, do tuy không nói, cũng tự nhận biết. Vì vậy không có tự tánh là thế đế, nên Như Lai nói là Phật pháp. Như thế, nơi tất cả xứ đều hiển thị nghĩa không chung và tương ưng, nên biết.

Lại nữa, Phật pháp nên biết là gồm thâu sự Ba-la-mật cùng Bồ-đề phần pháp như niệm xứ v.v… Bồ-tát lìa hai biên nầy, nên ở nơi sự đối trị kia không còn có lỗi nữa, nên gọi là không lỗi.

* Thế nào là địa? (Nghĩa cú thứ 6) Địa nầy có 3 thứ: Là địa Tín hành, địa Tâm tịnh và địa Như Lai.

Ở đây, 16 Trụ xứ đã hiển bày địa Tín hành. Trụ xứ chứng đạo là địa Tâm tịnh. Trụ xứ cứu cánh là địa Như Lai.

* Thế nào là lập danh? (Nghĩa cú thứ 7) Gọi là kim cương năng đoạn: Tên gọi nầy có 2 nghĩa tương ưng, nên biết. Như nói hành nhập chánh kiến, hành nhập tà kiến.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.