Kim Cương Bát Nhã Luận – Quyển 1

Nói ở trong câu được nêu của kinh: Đây là nói về tướng để hiển thị Pháp thân ngôn thuyết. Tức ở trong thật tưởng sẽ sinh kia, nói sẽ sinh: Là dục nguyện. Thâu giữ: Là các Bồ-tát không còn ngã – tưởng nữa. Chuyển v.v… là an lập đệ nhất nghĩa.

Tu-bồ-đề! Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là hiển bày rõ. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội, cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn.

Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là ở nơi thể của pháp cùng pháp vô ngã đều không phân biệt.

Lại, Pháp thân ngôn thuyết là nghĩa chính yếu. Kinh nói: Do nghĩa ấy nên Như Lai thường nói về pháp môn “Dụ như chiếc bè”. Nếu hiểu được điều đó, thì pháp hãy còn xả bỏ, huống chi là phi pháp: Là lý không thể không theo, nên lược nói để hiển thị: Bồ-tát muốn đạt được Pháp thân ngôn thuyết thì không nên tạo tưởng không thật. Vì muốn đạt được trí tướng, trụ xứ của Pháp thân chứng đắc, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có pháp để cho Như Lai ở trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đắc Chánh giác chăng?: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị ngược trở lại đối với Chánh giác Bồ-đề, nên người thuyết pháp là thuộc về Chánh giác.

Kinh nói: Có pháp để có thể nói là chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Đó là nói về tướng để hiển thị Pháp thân chứng đắc. Không có pháp cố định: Là Thượng tọa Tu-bồ-đề dẫn theo ý của Phật.

Là thế đế nên có Bồ-đề cùng sự chứng đắc, đó là dục nguyện được thâu giữ. Do phương tiện nên cả hai cùng là có.

Nếu như ý của Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì cả hai đều không có. Vì hiển bày điều ấy, nên nói: Như con hiểu về nghĩa của Đức Thế Tôn đã nói v.v…

Kinh nói: Vì sao Đức Như Lai đã nói pháp không thể chấp giữ, không thể nói, là phi pháp, phi phi pháp: Là an lập đệ nhất nghĩa.

Do thuyết pháp nên nhận biết đạt được Bồ-đề, tức ở trong pháp được thuyết giảng an lập đệ nhất nghĩa.

Ở đây, không thể chấp giữ: Nghĩa là lúc đang nghe.

Không thể nói: Nghĩa là lúc diễn thuyết.

Phi pháp: Là tánh phân biệt.

Phi phi pháp: Là pháp vô ngã.

Kinh viết: Vì sao do vô vi nên được gọi là Thánh nhân?

Vô vi: Là nghĩa không phân biệt. Thế nên, Bồ-tát hữu học được gọi là không khởi, không tạo tác, hợp với Như Lai chuyển y, gọi là thanh tịnh. Do đó, Như Lai được gọi là bậc vô học (Tu học hoàn tất).

Trong ấy, thứ nhất là nghĩa vô vi: Là Tam-muội tương ưng, cùng lúc điều phục tâm tán loạn được hiển bày rõ.

Thứ hai, vô vi chính là đệ nhất nghĩa: Là vô thượng giác.

Từ đây trở về sau, nên biết trong tất cả trụ xứ, đều hiển bày do vô vi nên được gọi là Thánh nhân.

Nơi những trụ xứ trước chưa nói về pháp được mang tên vô vi. Ở đây, trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đã nói về vô vi xong.

Trụ xứ của Pháp thân phước tướng, chứng đắc, làm thế nào để hiển thị? Tức ở nơi Pháp thân ngôn thuyết hiện có kia xuất sinh phước tướng của Như Lai. Pháp thân chứng đắc ở nơi ấy, cho đến chỉ nói một kệ bốn câu cũng sinh khởi phước rất nhiều, huống chi là Pháp thân chứng đắc, phước tướng hiện có của Như Lai.

Do nhân duyên nào, nên ở trong Pháp thân ngôn thuyết, nói một kệ bốn câu như vậy, có thể sinh nhiều phước? Vì để thành tựu nghĩa nầy nên kinh nói: Vì sao Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng từ đây xuất sinh?: Trong ấy, tích tập khắp mười pháp hành A-hàm, nên chư Phật Thế Tôn từ đấy sinh khởi. Là thế đế, nên nói Phật xuất sinh do có Bồ-đề, tức hai thứ ấy là cùng hợp, gọi là Phật pháp do Bồ-đề và Phật, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp. Lại nữa, kinh nêu: Phước kia đã được sinh là hơn hẳn nơi vô lượng A-tăng-kỳ ấy: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị phước không sinh. Trong đó, phước kia: Tức là nói về tướng để hiển thị Pháp thân phước tướng. Hơn hẳn nơi ấy: Là hiển thị dục nguyện được thâu giữ.

Kinh nói: Thế Tôn! Tụ phước ấy tức phi tụ phước, thế nên Như Lai nói là tụ phước. Cùng nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp, đó gọi là Phật pháp: Do tụ phước nầy cùng với Phật pháp là chỗ thâu giữ Pháp thân phước tướng của Như Lai, hợp với việc an lập đệ nhất nghĩa. Vì tùy thuận vô vi nên được mang tên như thế. Tương ưng nơi Tam-muội cùng điều phục sự tán loạn, là không hiển bày lần nữa. Nói: Rất nhiều! Thưa Đức Bà-già-bà. Rất nhiều! Thưa Đức Tu-già-đà! Hai lời nầy là hiển thị thâu tóm tâm, giữ lấy tâm. Do thâu giữ tự tâm nên nói là thọ trì. Vì kẻ khác thuyết giảng, là giải thích cú vị. Vô lượng là vượt quá thí dụ. A-tăng-kỳ là hiển bày số nhiều.

KIM CƯƠNG BÁT NHÃ LUẬN
Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1510a, 2 quyển,
Kim Cương Bát Nhã Luận, Vô Trước Bồ Tát tạo Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch – Nguyên Huệ Việt dịch

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-73_4-1680_5-50_6-3_17-163_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.