Lắt thịt để cứu bồ câu khỏi chết – Liên Hoa tiểu thư

Thuở đời quá khứ, tại Diêm Phù Đề này có một vị Quốc Vương tên Tát Bá Đạt, thống lãnh trọn một quốc độ lớn mà cai trị, tiếng nhân hiền đồn dậy bốn phương chỗ bố thí khắp trùm trăm họ. Đến đỗi tất cả mọi người ai muốn thọ dụng món chi, cứ đi ngay vào đền mà trình bày, thì thảy đều tùy tiện theo chỗ khuyết điểm của cá nhân mà chu cấp, chứ Vua không lẫn tiếc chút nào, bởi vậy lúc bấy giờ những người cô bần đều nhờ dư phước mà đặng phần tự tại.

Khi ấy, thiên thần quan sát thấy vậy bèn vào tâu với Đế Thích rằng: “Tại cõi Diêm Phù Đề có vị Quốc Vương tên là Tát Bá Đạt, ngôi cao phước lớn, đức hạnh hoàn toàn, ơn nhuần rộng khắp. Tôi sợ vị Quốc Vương ấy nhờ công đức đó, đến khi mạng chung chắc sanh về cõi trời mà làm chức lớn”.

Đế Thích nghe tâu, thì có ý sợ ngày sau mất ngôi, nên kiếm cớ thử lòng Vua Tát Bá Đạt.

Đoạn rồi Ngài mới bảo Biên Vương rằng:

– Nay tại cõi Diêm Phù Đề, có một vị Quốc Vương tên là Tát Bá Đạt, chỗ phổ tế đượm nhuận lê thứ và lòng ví hoài vời vợi vô cùng, ta sợ nhờ phước quả to tát đó mà đoạt ngôi Thiên Vị của ta. Vậy nhà ngươi biến hóa làm một con bồ câu, bay xán xả đến bên mình Vua, rồi giả đò bị nạn mà yêu cầu khẩn thiết xin cứu mạng. Nếu Vua có lòngtừ bi thì thế nào cũng che chở cho nhà ngươi. Còn phần ta thì hóa làm con ó bay theo sau, cứ nằng nặc quyết một lòng đòi Vua trả bồ câu lại mà ăn thịt. Thoảng như ý Vua là bậc chân chánh, chịu lắt thịt của mình cân cho bằng thịt con bồ câu mà đổi, thì ta mới bằng lòng. Khi cân thịt đó thì ngươi dùng thần biến làm con bồ câu nặng trĩu, dẫu có lắt hết thịt người thì cũng không đủ. Hễ thịt hết thì phải đau nhức, phải hối hận, nếu y có hối hận, thì chỗ chí hướng không thành tựu. Chừng đó ta sẽ an hưởng nơi cõi trời này đời đời, không ai tranh dành nữa.

Đế Thích bàn tính kế hoạch xong, bèn hóa ra một con ó, còn Biên Vương thì hóa con bồ câu mà bay đi.

Đây nói về Vua Bá Đạt đang đứng nơi chốn hoa viên với người tôi thị thần mà hóng mát, bỗng đâu con bồ câu bay xán xả rớt ngay bên chân, rồi ra bộ sợ sệt mà nói hớt hải rằng:

– Đại Vương ơi! Xin thương đến mạng tôi đương lúc nguy biến này, vì con ó rượt bắt tôi mà ăn thịt. Xin Ngài mở lượng từ bi ra tay tế độ, ơn ấy nguyện ngậm vành về sau mà đền đáp.

Vua Tát Bá Đạt thấy tình cảnh của loài phi điểu như vậy thì động mối từ tâm liền nói rằng:

– Không sao đâu! Không sao đâu! Có ta cứu ngươi được bảo toàn tính mạng.

Vua nói vừa dứt lời, kế con ó bay đến mà kêu nài rằng:

– Xin Đại Vương thả con bồ câu ra, vì nó là miếng mồi của tôi ăn thịt.

Vua Tát Bá Đạt nghe con ó năn nỉ hoài thì trả lời lại rằng:

– Số là con bồ câu đến đây yêu cầu ta cứu mạng mà ta đã hứa rồi, nên phải thủ tín, như nhà ngươi có nói vậy, thì ta đem thịt khác mà thường lại hơn gấp bội nữa.

Con ó liền đáp lại rằng:

– Tôi chỉ muốn ăn thịt con bồ câu đó mà thôi, chớ không chịu dùng thịt nào khác đâu!  Đại Vương là bậc sang cả, nỡ nào đoạt món ăn của tôi cho đành.

Vua Tát Bá Đạt nghe con ó nói một cách khẳng khái như vậy, thì lật đật an ủi:

– Bởi vì ta đã hứa cứu mạng con bồ câu, thì ta phải nhớ lời. Vậy bây giờ ngươi muốn dùng thịt chi cho ta biết, thì ta y theo cho vừa lòng ngươi chớ không có chút gì chấp nệ, miễn là để con bồ câu được toàn tánh mạng mà thôi.

Con ó nghe Vua đáp lại như vậy thì chi xiết nỗi vui mừng liền trả lời:

– Nếu Đại Vương có lòng từ huệ muốn cứu giúp tất cả chúng sanh thì xin lắt thịt nơi mình của Đại Vương đó đem ra cân cho bằng con bồ câu thì thôi, trước là cứu tôi khỏi sự đói khát, sau cứu con bồ câu kia đặng toàn tánh mạng. Như vậy cả hai đều tiện lợi cả.

Vua Tát Bá Đạt nghe con ó kêu nài như vậy, thì trúng cái bản nguyện của mình bèn đáp:

– Hay lắm! Hay lắm! Ta không có lẫn tiếc khối huyết nhục này đâu.

Vua liền bảo thị thần đem gươm và cân ra hoa viên bè bắt con bồ câu để đứng trên giá cân này, rồi cầm gươm thẻo thịt của mình để lên giá cân kia, song thẻo bao nhiêu thịt thì cũng vẫn không cân bằng.

Vua thấy vậy lắt hết thịt cả mình mà cũng thấy thiếu mãi, đến nỗi mình mẩy lòi xương mà cứ tự nhiên không có gì nhút nhát.

Vua Tát Bá Đạt bèn dạy bảo thị thần rằng:

– Mau giết ta đặng lấy cốt tủy cân cho đủ tịt con bồ câu kia, bởi vì ta thuận theo trong giới luật chân chính của Chư Phật, nguyện phổ tế sự nguy ách cho chúng sanh.

Chừng đó Đế Thích và Biên Vuơng thấy sự xả thí của Vua chẳng có chút nào dời đổi, nên cảm phục lòng tử tế không ai sánh bằng, và hườn lại bổn thân rồi đến trước mặt Vua cúi đầu bạch rằng:

– Chẳng biết Đại Vương muốn hy cầu sự chi mà chí hướng rất cao thượng, đến đỗi thân hình khổ não như thế mà không có chút nào thối chuyển xin nói cho anh em tôi biết.

Vua Tát Bá Đạt đáp lại rằng:

– Tôi sở dĩ bố thí đầy bổn ý chẳng phải hy cầu những điều phước báu nơi cõi nhân thiên hay là các ngôi Hoàng Đế phi hành! Vì tôi thấy chúng sanh cứ lặn hụp nơi ô trược chẳng nghĩ đến ngôi Tam Bảo và chẳng tưởng giáo lý của Phật, mãi buông lung làm các việc bạo ngược, thường bị gieo mình trong ngục hỏa trạch mà không thức tỉnh hồi đầu chút nào, nên tôi thương xót vô cùng, thề nguyện cầu được đến chỗ chứng ngộ mà cứu vớt chúng sanh đem lên cảnh an vui tịch tịnh. Bởi thế, nên dầu chỗ sở hành của tôi rủi có vong thân tánh mạng đi nữa thì cũng cương quyết cho đến cùng chớ  không bao giờ thối chuyển.

Đế Thích và Biên Vương nghe nói cả kinh và tự hối rằng:

– Theo ngụ ý của chúng tôi tưởng Đại Vương muốn đoạt ngôi thiên vị, cho nên mới lập kế mà nhiễu hại ra nông nỗi này. Bây giờ chúng tôi mới rõ bản nguyện cao cả của Ngài thì biết phương pháp gì mà sám hối cái tội ác nầy cho đặng!

Vua Tát Bá Đạt nói:

– Các Ngài biết mình làm việc sai quấy, nay muốn sám hối tội lỗi, vậy thì làm sao cho mấy chỗ dấu cắt trong thân thể tôi lành lại như cũ.

Đế Thích nghe nói vui mừng, tức thời khiếc các vị Thiên Y và Thần Y đồng đến điều trị cho Vua.

Linh nghiệm thay! Ban đầu thoa thuốc vào, thì thấy mấy chỗ vết thương đều phát động, phút chốc thoạt nhiên bình phục lại như cũ, thân thể hình dáng có vẻ càng tốt đẹp hơn xưa.

Lúc ấy, Đế Thích và Biên Vương đồng cúi đầu từ tạ và đi giáp vòng ba lần rồi bái biệt trở về bổn vị.

Sau đó Vua Tát Bá Đạt về triều thuật chuyện ly kỳ đó cho bá quan và phu nhân nghe, thì tất cả đều tán thán xưng tụng.

Từ đó sắp sau, Vua càng bố thí hơn trước đến bội phần, thành thử cả quốc độ gió thuận mưa hòa, ruộng nương thạnh mậu, thật là một thời kỳ nước trị dân an.

Nguyên vị Quốc Vương Tát Bá Đạt lắt thịt cứu con bồ câu nói trên đây, chính là tiền thân của Phật Thích Ca vậy

Trích chuyện TIỀN THÂN PHẬT TỔ

Người bố thí nên nhớ người đến xin như khi đói suy nghĩ món ăn, khi thấy người đến xin, tâm sanh hoan hỷ như nhà bị cháy đem được của quý ra.

Liên Hoa tiểu thư

Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, ở một nước nhỏ Ấn Độ, có một phú ông rất lương thiện, thích chơi Hoa Sen. Chung quanh biệt thự của ông là ao sen vây quanh. Cứ mỗi năm về mùa hạ thì Hoa Sen đua nở. Những người phụ cận đều gọi nơi biệt thự của ông là “Liên Hoa công quán”. Nguyên Lai, nhà phú ông đó có một người con gái, dung mạo mỹ lệ, tánh tình ôn hòa, giống như hóa thân của Hoa Sen, nên người ta gọi cô là “Liên Hoa tiểu thư”. Phú ông rất thương con gái của mình nhưng có một việc mà phú ông không vừa ý, đó là âm thanh của con mình không thích nghi với vẻ đẹp và tánh ôn hòa.  Bởi vì tiếng nói của Tiểu Thư vang như sấm động, mỗi khi nói chuyện, làm cho người nghe phải long óc mà bịt tai lại. Đã thế, Tiểu Thư lại thích ca hát.

Có một năm về tiết mùa hạ, Vua nước Ma Kiệt Đà (Magadha) phái khiển một sứ thần tới, được phú ông tiếp đãi rất ân cần. Sứ thần nói:

– Quốc Vương có ý định tới đây xem hoa trong mùa hạ năm nay. Ông phải gấp rút chuẩn bị để cung nghinh xa giá!

Vì xa giá của Quốc Vương ngự lãm, không phải là một việc dễ dàng, nên phú ông không khỏi sợ hãi kinh ngạc. Sứ thần lại nói:

– Vậy phú ông chuẩn bị nghênh giá được chăng?

– Thưa được!  Đó là một việc rất hân hạnh cho tôi.

Sau khi sứ thần ra về, phú ông cao hứng tự nói:”Mừng thay, đó thực là một vinh dự lớn cho nhà ta”.

Lúc đó, Liên Hoa tiểu thư từ hoa viên đi tới thấy phụ thân có vẻ hân hoan liền hỏi:

– Phụ thân có việc chi mà vui mừng?

– Tại sao âm thanh của con lại thô kệch đến thế?

Phú ông mắng con như vậy.

Liên Hoa tiểu thư vừa tủi vừa hổ thẹn, nhưng cũng biết tiếng nói của mình quá lớn, hạ giọng nói:

– Phụ thân! Con xin lỗi! Con đã quên mất.

Tuy Tiểu thư đã hạ thấp giọng nói, nhưng âm thanh vẫn còn vang lớn, phú ông phải bịt tai mình lại và nói:

– Không cần phải nói ra tiếng nữa. Im lặng đi!  Im lặng đi!

Tiểu Thư bực mình quá, bất giác oà lên khóc. Phú ông đứng dậy an ủi Tiểu Thư và nói:

– Thôi đi con! Cha đã lầm và đã quên mất âm thanh quá lớn của con, con đừng khóc nữa.

Tiểu thư lau nước mắt trở về phòng riêng, phú ông thở dài nói:

– Ôi! Thực là điều không hay. Âm thanh của con mình giả sử làm Quốc Vương phải phẫn nộ thì đó là tội lớn của ta. Đó là sự bất hạnh cho gia đình ta.

Trải qua một ngày, hai ngày, rồi đến năm ngày, phú ông cứ ngày ngày lo buồn.  Tiểu thư thấy thế tự nghĩ:  “Đó chẳng phải là nguyên nhân vì âm thanh của mình để cho phụ thân phải nhọc lòng lo nghĩ?”. Thế rồi hai cha con đều sinh buồn rầu.

Tiểu thư ngẫm nghĩ mãi, chợt nảy ra một biện pháp mắt sáng ngời hẳn lên rồi nói với cha:

– Phụ thân! Con đã nghĩ được một phương pháp rất hay.

– Phương pháp chi thế?

– Giản dị lắm! Tới khi hoa nở, nếu cha muốn con không phải nói chuyện tốt hơn hết là để con im lặng, cho đến lúc vua xem hoa xong trở ra về.

Đó cũng là một phương pháp hay, nhưng đó cũng không phải là lối thoát khổ của Tiểu Thư. Tiểu Thư lại nói:

– Phụ thân cho phép con đi. Con nhất định sẽ thực hành như thế.

Sau khi nghe lời yêu cầu cần thiết đó, phú ông bất đắc dĩ phải ưng thuận cho.

Qua xuân sang hạ, chung quanh biệt thự của phú ông được bao quanh bởi những đóa hoa sen hương thơm ngào ngạt vẻ đẹp lạ thường, nào Bạch Liên Hoa, nào Thanh Liên Hoa và Hồng Liên Hoa đua nhau phô diễn màu sắc.

– Đẹp thay hoa sen xanh, khả ái thay hoa sen trắng.

Tiểu Thư thốt ra những tiếng như vậy, chợt lại nghĩ chỉ 3, 4 ngày sau nữa, Quốc Vương sẽ xa giá tới!

– Ôi!  Thời gian trôi nhanh quá! Còn chi hơn ta cất giọng hát cuối cùng cho ngày hôm nay:

Hoa sen nở ngát đầy ao,

Từ trong bùn nọ mà nào gợn chi.

Hoa tươi lá biếc xanh rì,

Ba ba má má cùng đi xem nào!

Tiết trời xơ hạ gió hiu hiu thổi hương thơm tỏa ngát bốn bề. Từng đóa hoa sen đưa đi đưa lại theo chiều gió. “À!  Hình như chúng cũng lộ vẻ vui mừng cho lời ca tiếng hát của ta chăng?  Thôi ta không thể ca hát đựơc nữa vì Quốc Vương sắp tới nơi đây.  Hoa sen ơi! Mi cũng hiểu được ý ta chăng, nếu vậy hãy nhất tề nở đều để ta xem!”.

Hoa sen tuy là loài thực vật nhưng chúng cũng cảm động với ý niệm thành khẩn của Tiểu Thư mà nhất tề mãn khai làm cho cảnh đẹp mỹ lệ phi thường. Phú ông thấy thế vui mừng khôn xiết, liền gấp rút chuẩn bị để hoan nghênh Quốc Vương. Hôm đó Quốc Vương đem rất nhiều bộ hạ theo hầu. Nhà Vua ngồi trên xe ngựa trắng ngự giá tới. Phú ông rất hoan nghên và nói:

– Thưa Đại Vương tôn quý! Thần dân được gội hồng ân, hân hạnh hôm nay được Thánh gia quan tâm.

Tiểu Thư và tất cả nhà đều ra cửa xa mã của Vua tiến vào trong biệt thự. Phú ông ứng tiếp chu đáo phi thường. Ngày hôm đó, Quốc Vương rất cao hứng dạo gót quanh hoa viên rồi tới nghỉ mát ở Liên Hoa đình. Phú ông chuẩn bị các thứ đồ ăn cổ bàn lại dâng Quốc Vương. Tiểu Thư cũng tới ứng tiếp.

– Ồ!  Tiểu Thư, quả thực người con gái có dáng đẹp phi thường.

Lúc đó trống ngực của Phú ông dồn dập quá độ không dấu nổi niềm vui.

– Tiểu Thư đây chính là lịnh ái của Phú ông?

– Thưa vâng!  Đó chính là người con gái độc nhất của tôi năm nay vừa 15 tuổi.

– Hừ! Thực có vẻ khả ái. Cô nương tên cô nương là gì?

Tiểu Thư muốn trả lời ngay nhưng lại sợ làm súc não đến Quốc Vương, sẽ sảy ra việc không hay, nên Tiểu Thư im lặng không đáp.

– Cô nương!  Không nên khắc khí cứ tự do nói đi.

Tiểu Thư đang lúc e thẹn luốn cuốn, Phú ông vội vã trả lời thay:

– Kính tâu Đại Vương! Vì âm thanh của con gái nhỏ tôi, bản lai vẫn lớn, nên không dám cất tiếng nói, sợ làm náo động Quốc Vương và các quan. Xin lượng trên khoan thứ.

– Không hề chi!  Đã là bản lai như vậy thì có quan hệ gì. Vậy cô nương tên là gì?

Tiểu Thư tuy đã được nghe lời Vua phán, nhưng vẫn không dám cất tiếng. Phú ông nói tiếp.

– Xin lượng cả tha thứ, quả thực là vì âm thanh con gái tôi quá lớn…

– Biết rồi!  Không cần nói, chính ta cũng thích tiếng nói lớn…

Quốc Vương phát gắt, Tiểu Thư bất đắc dĩ phải tới trước mặt Vua nói:

– Tôi tên là Liên Hoa.

Âm thanh của Tiểu Thư vang động quá lớn, gần như phá vỡ màng tai của người nghe. Quả là thứ âm thanh đáng sợ và vô nghĩa.

Do thế Quốc Vương, sứ thần và các quan bỏ ra về.

Phú ông là người nhát đảm, bất luận việc lớn hay việc nhỏ xảy ra đều làm cho ông buồn rần phiền não. Lần này, nhân vì Tiểu Thư xúc phạm đến oai nghi của Quốc Vương, nên luôn luôn sợ hãi không yên, thở dài rồi nói:

– Tội lỗi đều vì cơ duyên này, chắc đó là tiền nghiệp đã định. Con gái ta nhất định sẽ bị Quốc Vương quở phạt.

Phú ông cứ như thế nghĩ tưởng liên miên không lúc nào nguôi, nên phát bệnh nặng đã đón nhiều danh y tới chạy chữa. Nhưng đều vô hiệu. Trong đó có một ông thầy thuốc nói:

– Kỳ lạ quá!  Tôi không thể chữa khỏi bệnh này, phải đi tới thỉnh lời giáo huấn của Đức Phật.

Không may lúc đó Đức Phật đi giáo hóa chưa về, duy có Ngài Tân Đầu Lư Tôn Giả còn ở lại tịnh xá. Vì lòng hiếu thảo nên Liên Hoa tiểu thư tới tận đỉnh núi thỉnh Tôn Giả và nói:

– Kính xin Tôn Giả thương tình cứu bệnh hoạn cho phụ thân của con…

Tôn Giả đương lúc ngồi thiền định, im lặng, Tiểu Thư lại thỉnh một lần nữa.

– Tôn Giả y nguyên không động, chợt có một cơn gió thổi mạnh làm rung động những chiếc lông mày trắng của Tôn Giả và liên tiếp hai, ba chiếc lá rơi xuống. Tôn Giả mới dõng dạc nói:

– Tiếng nói của con sao lớn thế! Căn cứ vào lời nói tha thiết mà ta thấu rõ được lòng hiếu thảo của con. Đức Phật rất trọng người con có hiếu. Để đáp lại lời khẩn cầu của con và để giúp con làm tròn đầy đạo hiếu, nghĩa là con phải vâng theo lời giáo huấn của Đức Phật, để tạo cho cuộc đời chân hạnh phúc ở hiện nay và ngày mai, con hiểu ý ta nói chăng?

Tiểu Thư cúi đầu chăm chú nghe, Tôn Giả lại nói tiếp:

– Ta bảo cho con hay. Cách đây về phương tây chừng ba trăm dặm, có một ngọn núi cao gọi là Long Sơn. Trên núi có một cái hồ, trong hồ có cung điện. Trong cung điện thường thường có một thứ nước trong suốt chảy ra, con nên tới đấy múc thứ nước đó về cho cha con uống, thì bệnh của cha con tự nhiên khỏi ngay, và âm thanh của con cũng trở nên êm dịu.

Tiểu Thư nghe xong vui mừng khôn xiết cúi đầu bái tạ và tiếp nói:

– Đa tạ!  Con hiểu ý Tôn Giả nói. Con xin đi ngay.

Tôn Giả nói:

– Đừng lo ngại!  Uống thứ thuốc đó mà cha con sẽ được khỏi bệnh, đó là từ ở lòng hiếu thảo của con mà ứng nghiệm.

Tiểu Thư thưa tiếp:

– Nếu vậy sau khi cha con khỏi bệnh con sẽ lại tới đây xin thỉnh giáo Đức Phật.

Tôn Giả gật đầu.

Tiểu Thư hạ sơn hướng về phương Tây mà đi đột nhiên mê mất đường. Trong khi đó, Tiểu Thư thấy một người tiên đầu tóc bạc phơ xuất hiện, Tiểu Thư vội tới hỏi thăm đường, người tiên chỉ đáp một câu: “Cách đây ba trăm dặm phương Tây”. Nói xong biến mất. Tiểu Thư nghĩ tại sao đến ba trăm dặm? Bất đắc dĩ lại tiếp tục cuộc hành trình, đi rẽ qua bờ sông, lại thấy người tiên xuất hiện ở dưới cây Bồ Đề. Tiểu Thư lại hỏi. Người tiên lại đáp: “Cách đây ba trăm dặm về phương Tây”. Trả lời xong rồi lại biến mất. Tiểu Thư buồn rầu quá liền oà lên khóc:  “Thôi không còn hy vọng gì nữa, ta lại phải trở về chăng?”. Lúc đó chợt nhớ lời Tôn Giả dặn nên Tiểu Thư lại tiếp tục cuộc hành trình vừa đi vừa khóc.

Bỗng người tiên lại xuất hiện liền tới an ủi Tiều Thư:

– Cô nương! Người con hiếu thảo, đằng kia là ngọn núi Long Sơn, con hãy cỡi con hươu của ta mà đi.

Người tiên nói xong liền bỏ đi. Tiểu Thư vâng lời cưỡi hươu lên thẳng đỉnh núi, thì thấy quả thực trên núi có cái hồ rất đẹp, trong hồ có cái đảo nhỏ. Trời đã xế chiều, ánh trăng bắt đầu chiếu. Tiểu Thư đi thẳng vào trong hồ chợt gặp một Tiểu Đồng ở cửa một cung điện đón tiếp và nói với Tiểu Thư:

– Thưa Tiểu Thư, Tiên ông đang đợi Tiểu Thư.

Tiểu Thư bước theo Tiểu Đồng đi lên trên thềm đá của cung điện, trong cung quả có một cái suối, nước cuồn cuộn từ đất ra trong trắng như tuyết. Người Tiên mà Tiểu Thư đã gặp trước kia đang thảnh thơi mỉm cười, Tiểu Thư liền quỳ xuống nói:

-Xin Tiên ông cho con ít nước!

Người tiên đáp:

– Được lắm, cho con múc đem về cứu bệnh cho cha con.

Trong khi chờ đợi Tiểu Đồng mang đồ đựng nước tới, Tiểu Thư liền tay vốc nước lên uống thử. Ồ!  Vị nước thơm ngọt quá! Bất giác Tiểu Thư cảm than như vậy, tiếng nói Tiểu Thư cũng biến thành êm dịu không thô kệch như trước. Tiểu Thư rất vui mừng vái tạ người tiên rồi múc nước mang về nhà cho cha. Khi về tới nhà, Tiểu Thư thấy bệnh tình của phụ thân rất trầm trọng, vội đem thứ nước ấy cho cha uống. Mầu nhiệm thay! Chỉ trong giây lát, bệnh của phú ông tự nhiên thuyên giảm.

Sau khi khỏi bệnh, Tiểu Thư đưa phụ thân đến tịnh xá của Tân Đầu Lư Tôn Giả tạ lễ và qui y Đức Phật. Nhờ sự chỉ giáo của Tôn Giả mà gia đình của Tiểu Thư hưởng được chân hạnh phúc.

Vị Quốc Vương xưa kia, nghe biết tin đó, cũng lại xa giá đến nhà phú ông xem hoa, nhận thấy tiếng nói của Tiểu Thư trở nên êm dịu khác thường. Vua khen: “Đó thực là lòng hiếu thảo của người con mà cảm ứng đến thế”.

Vua liền đem của cải ban thưởng cho Tiểu Thư và bố cáo cho khắp trong nước để nhân dân đều biết. Từ nay trở về sau mọi người nên tin theo Phật Giáo, và Phật giáo sau nầy sẽ trở thành tôn giáo lớn trên thế giới.

CHÂN TỪ

Lấy món ăn vật mặc phụng dưỡng cha mẹ là hiếu thế gian, khuyến hóa cha mẹ tu học chánh pháp là hiếu  xuất thế gian.

Thầy THÍCH MINH CHIẾU sưu tập
http://4phuong.net/ebook/32252207/120345542/tap-ii-11.html

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.