Ánh Sáng Đạo Pháp

Trưa Thứ Hai

Nếu chúng ta có lòng từ bi thương yêu mọi người, cho dù một chút thôi thì ơn ích cũng rất nhiều. Ðó là lý do tại sao động năng thúc đẩy lại rất quan trọng. Trong Phật giáo, chúng tôi nhận thấy rằng có những hành động rất khó phân biệt tốt hay là xấu dù nó có tính cách tôn giáo hay không có tính cách tôn giáo. Tốt hay xấu hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ của chúng ta. Ðàng sau mỗi một hành động là cả một tiến trình hoạt động ở bên trong tâm chúng ta. Mỗi một hành động đều tùy thuộc lẫn nhau (nghiệp và duyên khởi) và do thái độ của tâm chúng ta làm cho sự kiện đó tốt hay xấu.

Tôi cho qúy vị một thí dụ. Có một thương gia rất giầu đến cúng dường tu viện, ông ta gửi tâm ý đến mười phương tám hướng để cầu danh lợi (động năng thúc đẩy) Ngoài kia có một kẻ ăn xin cũng đi vào cúng dường nhưng với một tâm ý rất đơn sơ, chất phác (động năng thúc đẩy). Người ăn xin chào và chúc tụng người giầu để làm ông ta vui thích. Vị thương gia dâng rất nhiều tiền bạc cho buổi lễ, rồi các vị sư bắt đầu tới hành lễ. Nhưng khi vị chủ tế dâng lời tế lễ, ông chỉ nhắc đến tên người ăn xin ở mãi tận ngoài kia mà chẳng hề nêu tên người giầu có này. Vì tất cả những lễ vật, tiền bạc mà người giầu dâng cúng trong buổi lễ đều vì một lý do duy nhất là cầu danh lợi. Oâng ta làm tất cả những công việc này với một tâm ý, với một thái độ kiêu căng không thành thật.

Ðây là một thí dụ rất tốt. Coi như người giầu có đã làm một việc tốt, coi như đây là một nghi lễ tôn giáo, nhưng như chúng ta biết, bên ngoài là một hành động tôn giáo nhưng bên trong lại là tâm ý của qủy. Kẻ nghèo khó chẳng làm gì cả, ông ta chỉ có lòng chân thành. Ðộng năng là lòng chân thành trong sạch nên ông ta nhận được rất nhiều ơn ích.

Có lẽ thí dụ của tôi không được đúng lắm với tâm người Thụy điển bởi vì ở đây không có ăn mày ! Tôi nên lấy một thí dụ khác thích hợp với người Thụy điển — nhưng tôi không biết lịch sử của qúy vị. Tôi mong rằng qúy vị hiểu tôi muốn trình bày cái gì. Một hành động coi có vẻ tốt ở bên ngoài nhưng bên trong lại vô cùng xấu.

Thường thường, nếu chúng ta có một tấm lòng thương người chân thành, dù chỉ một chút xíu như cho một ly nước cũng đủ mang lại cho chúng ta nhiều ơn ích. Phải vậy không? Một hành động tự nó không tốt không xấu, cái động lực ở bên trong mới quan trọng hơn, bởi vì động lực từ mẫn có tác dụng cởi mở và giúp chúng ta thanh tẩy tâm ích kỷ. Ðó là ý nghĩa và đó là những gì tôi muốn nói với qúy vị. Nó có rõ ràng không? Qúy vị có thí dụ nào hay không? Qúy vị có hiểu không? Nếu qúy vị đã hiểu, tôi không cần phải đưa ra thí dụ nào khác nữa.

Nên nhớ rằng những động lực trong đời sống và động lực của từng hành động mới là những nguyên nhân thúc đẩy, hành động tự nó không là gì cả. Hành động chỉ là những gì chúng ta đang làm ở bên ngoài, cái gì ẩn sâu ở bên trong mới thực sự là nguyên nhân chuyển động, cái đó làm cho hành động trở thành tốt hay xấu.

Ngày hôm qua chúng ta đã nói về những động lực tốt sẽ mang đến hành động tốt, những động lực xấu sẽ dẫn đến những hành động xấu; vậy cái gì là một hành động tốt, cái gì là một hành động xấu? Chúng ta không thể nói, “ hành động của tôn giáo thì tốt, không tôn giáo thì xấu.” Chúng ta không thể nói như vậy được — nó qúa mù mờ, phải không?

Một hoạt động của tôn giáo mà mang tâm quỷ thì có gì tốt đâu. Qúy vị có nghe tôi không? Chúng ta đã có bao nhiêu cuộc chiến tranh? Hiện tại bây giờ trên thế giới có bao nhiêu cuộc chiến — thánh chiến? Ðó là qủy. Chúng ta tuyên bố, “ Tôi phải tham chiến bởi vì nó phá đạo của tôi.” Ðó chỉ là một sự hợp lý hoá. Ðó là điên cuồng, ngu si!

Người Tây tạng chúng tôi có lối nói diễu, người con sau khi giết cha mẹ rồi nó đi giải thích tại sao nó giết. Nó giải thích, nhưng hành động này không đúng. Cũng giống như vậy, thời nay có rất nhiều người có đạo hay không có đạo đã gây ra rất nhiều vấn đề cho nhân loại bởi vì họ không hiểu được những hoạt động căn bản của tôn giáo là gì. Ðâu có tôn giáo nào dậy chúng ta đi giết người, làm tổn thương cho người khác hay tiêu diệt người khác? Có tôn giáo nào dậy như vậy không?

Khi những người có đạo gây ra một cuộc chiến tranh tôn giáo, họ tuyên bố, “Chúng đã tàn phá đất nước tôi và tôn giáo của chúng tôi. Do đó chúng tôi phải bảo vệ, chúng tôi phải giết họ.” Khi họ tuyên bố như vậy cũng chính là lúc họ phá hủy tôn giáo của họ.

Theo quan niệm của tôi — tôi là một nhà sư Tây tạng — khi người Trung hoa đến, nếu tôi nói, “ Ô, người Trung hoa tàn phá tôn giáo của tôi, tôi phải tiêu diệt hết người Trung hoa.” Nếu tôi làm như vậy tôi đã tự giết chính tôi và tôn giáo của tôi. Ðó là sự hiểu biết của tôi, đó là sự diễn giải của tôi.

Chúng ta nên hiểu cái gì là những hoạt động căn bản của tôn giáo. Hành động chân thật chỉ có thể là lòng từ mẫn, lòng yêu thương đem đến cho mọi người. Mặc dầu anh nói rằng anh hành động vì tôn giáo, vì Phật, vì Chúa, vì Thượng đế, vì tông phái, vì lý tưởng, nếu đó chỉ là những gì phát khởi vì tự ái (động năng thúc đẩy) để rồi anh giết người bằng dòng máu lạnh của anh thì anh không phải là người đạo đức chút nào.

Ðó là lý do tại sao những lời dậy bảo của Ðức Phật Thích Ca lại chỉ chú ý nhiều đến vấn đề buông bỏ những sự bám víu. Ngài còn nhấn mạnh rằng sự bám víu vào Thích Ca Mâu Ni cũng là rác rưởi. Ngài rất khôn ngoan, rất trong sáng trong vấn đề này. Ngài nói với những người theo Ngài rằng Ngài không muốn bất cứ người nào bám víu vào Ngài. Những người theo Ngài không nên bám víu, lệ thuộc vào những giáo thuyết của Ngài. Ngài không muốn họ phải lệ thuộc vào Phật hay Phật Pháp hay Tăng hay Bồ Tát. Ngài tuyên bố đó là rác rưởi —không trừ một ai. Bất cứ một sự bám viú nào cũng là trở ngại cho tâm của con người. Nó phá hủy sự an lành của con người. Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật, Ngài dạy phải chấm dứt tư tưởng chiếm hữu, ôm giữ, bám víu vào Phật, vào Bồ Tát hay vào bất cứ cái gì như là một toàn thể tự hữu. Tất cả đều là rác rưởi. Chúng ta nên vất bỏ tất cả vào thùng rác. Phải vậy không? Ðúng như vậy !

Nếu nhìn vào thế giới ngay bây giờ, chúng ta thấy chuyện gì đang xẩy ra. Chính trị gia, họ là những người chẳng có tôn giáo, họ lợi dụng tôn giáo, họ dùng tôn giáo để mưu cầu lợi ích cho chính họ. Thực sự họ không thích giáo lý một chút nào, họ không hiểu cốt tủy của tôn giáo là gì, họ chỉ dùng những triết thuyết tôn giáo theo kiểu này hay kiểu khác để làm lợi cho họ. Qúy vị vẫn nghe tôi đấy chứ?

Ðó là chuyện tức cười, thật là nực cười. Họ dùng bất cứ cái gì. Họ dùng giáo lý như là một cục kẹo, đưa phía này, đẩy phía kia. Họ lợi dụng bất cứ cái gì, bất cứ giáo lý nào, bất cứ hoàn cảnh nào. Mục đích của họ là gây một sự mập mờ, rối trí trong lòng mọi người để mọi người chống đối nhau, để mọi người không còn hòa hợp với nhau. Họ chỉ muốn như vậy thôi. Nếu nhìn vào những sinh hoạt của thế giới chúng ta sẽ nhận ra điều này. Chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều khi chúng ta nhìn sâu vào thế giới này. Chúng ta sẽ học được đạo pháp thật ở trong đó, chúng ta sẽ học được tất cả mọi thứ về tâm của con người, nó hiện hành như thế nào.

Chúng ta hãy thực tế. Bây giờ chúng ta hãy thực hành. Chúng ta thực hành cái gì đây? Hầu như tất cả chúng ta ở đây đều đi làm, đều có những công việc phải giải quyết, phải đối đầu; vậy mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, chúng ta hãy tự hứa với chính mình: “ Hôm nay tôi sẽ cố gắng hết sức của tôi để chia sẻ đời sống của tôi với mọi người. Tôi sẽ làm bất cứ gì từ thể xác đến tinh thần, cả cuộc đời tôi để lợi ích cho mọi người.” Hãy hứa một cách thành thật, mạnh bạo và nghĩ, “ Nếu gặp hoàn cảnh khó khăn, nếu có ai gây khó khăn cho tôi, tôi sẽ không tức giận, không nổi nóng.”

Với động năng mãnh liệt này thì ngay cả làm những công việc nặng nhọc như đi thu rác trong thành phố, đi lượm rác trong các đường phố, chúng ta cũng vẫn vui vẻ. Chúng ta đang làm việc cho mọi người, cho sự lợi ích của tất cả con người. Ðiều quan trọng là ở sự thúc đẩy, cái động năng ở bên trong của chúng ta.

Tôi nghĩ rằng sự phát triển, sự tạo dựng một động lực tốt lành là vô cùng quan trọng, đặc biệt ở thế giới Tây phương của chúng ta. Xã hội Tây phương chưa tạo được những vị đại thiền gỉa. Họ chưa tạo được sự thiền định vĩ đại. Qúy vị có hiểu không? Chúng ta chưa tạo nên được những cơ hội đó, chưa có được những hoàn cảnh đó. Nhưng chúng ta có thể dành đời sống của chúng ta cho những người khác. Chúng ta có thể hy sinh cho người khác, giúp đỡ người khác, phụng sự nhân loại. Công việc này chúng ta có thể làm mỗi ngày.

Tôi nghĩ, bằng đường lối này chúng ta sẽ sống thực hơn là cứ nói, “Ô, tôi sẽ trở thành một đại thiền gỉa.” Xã hội của chúng ta không dành cho những kiểu nói đó. Hãy thực tế, hãy giúp đỡ tất cả mọi người. Chúng ta có thể kiểm soát được sự nóng giận của chúng ta, sự ích kỷ của chúng ta, sự bám víu của chúng ta. Chúng ta có thể mở rộng và phụng sự mọi người càng nhiều càng tốt. Ðiều này chúng ta có thể làm được.

Tôi có một thí dụ rất tốt về người Thiên Chúa Giáo trong cộng đồng chúng ta. Có rất nhiều người tốt trong tôn giáo của qúy vị nhưng qúy vị không thấy họ. Qúy vị không thấy những người tốt trong tôn giáo của qúy vị, họ có một tấm lòng thương người bao la. Ðối với tôi, Thiên Chúa Giáo Tây phương đã hiến tặng rất nhiều. Có rất nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo đang phụng sự nhân loại với một tấm lòng bao la vô bờ bến.

Bên Ðông phương, tôi nghĩ rằng không có nhiều vị sư hay ni cô làm việc xã hội trong các trại cùi, bệnh viện ung thư hay tình nguyện làm những công việc xã hội khác. Tôi không thấy nhiều lắm. Tôi không có kinh nghiệm trong vấn đề này. Nhưng bên trời Tây, tôi đã thấy rất nhiều người tình nguyện giúp đỡ những người đang bị bệnh. Mặc dù có thể bị lây bệnh, họ cũng đã hy sinh cả sinh mạng họ cho người khác.

Tôi nghĩ rằng nó rất tốt, rất đáng cho chúng ta ca tụng. Ðối với tôi như vậy là đủ rồi. Tôi không cần biết họ có hiểu Phật giáo hay có là Phật tử hay không. Trong tâm của họ, họ chỉ biết phụng sự cho người khác, họ hy sinh cả một đời cho người khác. Chúng ta còn muốn gì hơn nữa, còn có thể dâng hiến gì hơn được nữa. Qúy vị có những thí dụ cao đẹp ở trong xã hội của qúy vị là có được những người biết hy sinh cả đời mình cho người khác. Vì những thí dụ sống động tốt đẹp này, chính chúng ta nên cố gắng càng nhiều càng tốt, hãy buông bỏ tính ích kỷ của mình đi để giúp đỡ người khác. Tôi nghĩ như vậy mới thực tế, chúng ta có thể làm được. Chúng ta có thể làm được! Nó sẽ làm tan biến đi những lầm lẫn và những bất mãn của chúng ta.

Nói như vậy là qúa đủ về tâm bồ đề rồi, qúa đủ về sự buông xả rồi, từ biệt tâm bồ đề, từ biệt sự buông xả, từ biệt động năng tốt, từ biệt từ biệt….

Bây giơø, chúng ta hãy nói về trí huệ: trí huệ tính không (shunyata wisdom). Trí tuệ rất đơn giản, vô cùng đơn giản. Hãy nhìn nó theo chiều hướng này: Chúng ta có một đối tượng đáng yêu –người khác là đối tượng đáng yêu của chúng ta. Nhưng vấn đề là chúng ta đã ôm giữ nó như một thực thể vững chắc. Chúng ta đã ôm giữ đối tượng yêu qúa chặt, đối tượng ghét qúa chặt (chấp cái tôi và chấp vào đối tượng, cái bị chấp –Dg ), như vậy chúng ta sẽ chẳng giải quyết được vấn đề gì. Qúy vị đang nghe tôi đấy chứ?

Chúng ta có tình yêu, nhưng khi nào chúng ta còn ôm giữ nó qúa chặt là chúng ta đã bị lầm lẫn, đã bị lừa gạt. Thí dụ, trong tôn giáo Tây phương, chúng ta nói, “ Tôi yêu Chúa.” Người ta dâng hiến trọn vẹn tình yêu cho Chúa. Nhưng nếu chúng ta ôm giữ Chúa hay Phật như một thực thể thì sẽ chẳng giải quyết được vấn đề gì –cái tôi vẫn còn đó. Cái tôi (vấn-đề-tôi, chấp ngã) vẫn còn đó bởi vì chúng ta đang chấp, đang nhận sự vật như là một thực thể tự có.

Do đó, cần phải có trí huệ. Một động năng trong sáng, một tình yêu trong sạch giống như sự trang điểm, trang điểm sắc đẹp — nó làm cho mọi sự trông đẹp đẽ. Nó như vậy, nhưng chúng ta cần có trí huệ để nhìn thấu qua được lớp trang điểm đó, nhìn ra được sự thật. Chúng ta phải thực sự nhìn thấu qua được cái gì đang xẩy ra ở bên trong lớp vỏ trang điểm đó. Khi chúng ta nhìn ra được lớp vỏ tình yêu giả tạo, nhìn ra được có một cái gì gỉa tạo đang diễn xuất với tình yêu, thì với trí huệ chúng ta có thể nhìn qua được đám mây mù tình yêu. Có nghĩa là chúng ta sẽ nhìn được sự thật của tình yêu.

Trí huệ đó, trí huệ bát nhã (prajna), rất cần thiết để cắt đứt hoàn toàn ý niệm nhị nguyên. Tình yêu và động năng trong sáng không đủ sức để cắt đứt tận gốc rễ của vấn đề và của những ý niệm nhị nguyên. Chúng thuộc về tình cảm; chúng không có triệu chứng, những dấu hiệu đến rất chậm, để hoàn toàn cắt đứt chúng và để hoàn toàn tẩy xoá những vấn đề, chúng ta cần phải có trí bát nhã.

Chúng ta đã nói về những phóng tưởng, những vọng tưởng: chúng ta đã đặt để những dự tính mù mờ trong đầu chúng ta và trên người khác, cả tốt lẫn xấu, mà chẳng thèm tìm hiểu sự thật. Thí dụ, khi nhìn một đối tượng đẹp ở chung quanh chúng ta, chúng ta hãy theo dõi xem tâm chúng ta đang làm việc như thế nào? cái gì đang diễn ra ở trong tâm của chúng ta? Chúng ta sẽ thấy tâm của chúng ta đang cho thêm những gía trị vào đối tượng đó, rồi chúng ta bám chặt lấy những gía trị đó: “ Thật là tuyệt vời. Ðúng là cái mà tôi muốn.” Chúng ta sáng tạo ra đủ thứ kiểu. Chúng ta tự sáng tạo ra những ý niệm về sắc đẹp, chúng ta bám chặt lấy những ý niệm đó rồi chúng ta đem cái ý niệm đó ra áp dụng, đặt để trên những đối tượng, trên những sự vật. Từ những ý niệm có sẵn này chúng ta bắt đầu dự tính, mơ mộng hết chuyện này đến chuyện khác, sáng chế hết cái này đến cái khác. Ðối tượng tự nó không có một ý niệm vững chắc nào, tất cả đều do tâm mà ra.

Do đó, chúng ta cần lưỡi gươm trí huệ vô cùng sắc bén để chém đứt tất cả những vọng tưởng mà đi vào sự thật. Mỗi khi chúng ta nhìn một đối tượng đẹp, chúng ta chỉ nhìn nó bằng những ý niệm vững chắc đã có sẵn. Tâm không còn một chỗ trống nào. Cái đẹp đã bị lệ thuộc vào sự trang điểm, nhưng chúng ta đã không biết đến điều này. Cái đẹp đã tùy thuộc vào nước, đất, chất nhờn, máu, xương…, nó tùy thuộc vào những hợp chất (phấn xáp) vừa kể trên. Nhưng chúng ta đã không chấp nhận, không nhận thức được cái đẹp là một sự kết hợp tùy thuộc vào những yếu tố khác này. Chúng ta chỉ nghĩ PAM! đây là sắc đẹp, chúng ta không thừa nhận cái đặc tính tùy thuộc của những hiện tượng. Chúng ta đã không nghĩ đến cái thật hiện đang có trong đối tượng.

Ðó là lý do chúng ta u mê, đó là lý do tại sao chúng ta nhận huyễn ảo làm sự thật. Ðó là lý do tại sao chúng ta cần phải hiểu luật duyên khởi để phá vỡ, để chặt đứt tất cả những ý niệm sẵn có về cái đẹp. Rồi chúng ta mới có thể nhìn ra được sự thật. Nếu không như vậy, vô minh vẫn là vô minh, u mê vẫn chỉ là u mê. Cái đẹp là cái đẹp, nó đang ở đâu đó, chân thiện mỹ là chân thiện mỹ, nó đang ở đâu đó, nhưng chúng ta đã vẽ thêm vào, đã tô thêm vào rồi đi gọi cái tùy thuộc đó, cái lớp vỏ giả tạo đó là sắc đẹp. Nếu không có cái nhãn hiệu của tâm chúng ta gắn cho thì chẳng có cái gì đẹp ở ngoài kia cả. Ðó là tất cả những gì mà chúng ta nên nhận thức, nên nhận diện, rồi mỗi ngày, mỗi ngày chúng ta từ từ buông bỏ những ý niệm nhị nguyên này đi.

Tôi nghĩ rằng quý vị có thể tự phân tích được vấn đề này. Theo ý kiến của riêng tôi, nếu chỉ nói, nếu chỉ ngồi nghe về vấn đề này thì không đủ. Chúng ta cần phải phân tích chúng ngay bây giờ, ngay tại đây, thì chúng ta mới thấy được rất nhiều điều tức cười đang diễn ra trong tâm của chúng ta. Chắc chắn quý vị sẽ nhìn thấy chúng ngay bây giờ.

Dù mạnh hay yếu, những ý niệm sân (ganh ghét) và những ý niệm tham (tham lam, tham vọng, ước muốn, bám víu, chôïp giật …) của chúng ta không tùy thuộc vào sự thật của đối tượng. Hãy lấy một thí dụ, giả sử tôi giận cô kia hay anh kia. Tôi đang tạo nên sự tức giận mãnh liệt, mỗi lúc một mãnh liệt hơn trong tôi. Tôi càng tức giận bao nhiêu thì họ lại càng xấu xa, đáng ghét bấy nhiêu. Quý vị có hiểu không? Ðây là những điều xẩy ra trong tâm của tôi. Tôi không tha cho họ một chút nào vì sự tức giận đang lớn dần ở trong tôi. Rồi bất chợt họ biến thành một cái gì rất xấu xa.

Sự xấu xa này chẳng có gì liên quan đến họ. Ðó chỉ là vọng tưởng của tôi. Họ chẳng thay đổi chút nào – dĩ nhiên họ vẫn là họ, họ không có một chút thay đổi nào. Nhưng vì cái tôi của tôi và cái tức giận của tôi qúa cao, nên tôi bày đặt ra đủ thứ chuyện: “ Thằng cha đó quá tệ, nó quá xấu vì nó thế này, thế này… Con đó quá tồi vì nó thế này, thế này… Chúng quá ích kỷ, chúng quá nóng tính, chúng không xài được vì thế này, thế này…” Mỗi ngày chúng ta mỗi tăng thêm lòng ganh ghét thì họ lại càng giống con quái vật hơn.

Tâm chúng ta cũng làm việc theo chiều hướng khác. Nếu chúng ta thích người nào, chúng ta khen, “ Trời, em đẹp quá, cái mũi của em thật là xứng với mặt em, thật là tuyệt,” hay “ giọng nói của anh quá ngọt ngào,” “ cô ta thật là diễm ảo.” Tâm của chúng ta đã cho bất cứ cái gì của họ cũng hoàn toàn tốt đẹp. Do đó, bất cứ cái gì anh ta làm, cô ta làm, nụ cười, bất cứ cái gì, tất cả năm đối tượng nhận thức – hình dáng, mầu sắc, mùi, vị, tiếng nói – đều quá tuyệt hảo. Vì chúng ta đã muốn như vậy nên mỗi lần chúng ta nhìn thấy họ, gặp họ là mỗi lẫn sắc đẹp của họ lại tăng lên. Chẳng có cái gì đụng chạm đeán sự thật của họ, toàn là những điều mà chúng ta tạo ra cho họ. Chúng ta đã tạo ra một sắc đẹp, một đức tính không thể tưởng tượng nổi, “Anh ta đẹp trai quá chừng, anh ta tốt ơi là tốt ” ngay cả “anh ta là một thiền sư lỗi lạc.”

Có rất nhiều học trò của tôi đến tâm sự với tôi về bạn trai, bạn gái của họ. Họ nói họ như thế nào, họ cởi mở làm sao. Họ nói, “ Lạt ma, con có người yêu như thế này, thế này; con cảm thấy như thế này, thế này.” Họ diễn tả tất cả mọi thứ cho tôi –tôi cười! Với tôi, tôi nhìn được tất cả những gì đang xẩy ra trong tâm họ. Họ tưởng tượng cô ta như một nàng tiên, hay như một vị thần. Oâi chao! Quý vị đã nghe như vậy bao giờ chưa?

Theo tôi, tất cả chỉ là nhị nguyên — ý niệm nhị nguyên, ý niệm không rõ ràng, không trong sáng. Chúng ta cứ đặt để cái tốt hay cái xấu trên những đối tượng, đó chỉ là những phóng tưởng của chúng ta, những vọng tưởng của chúng ta. Ðể nhận diện được những vọng tưởng này, chúng ta cần có trí tuệ sắc bén — đó là lý do tại sao chúng ta đi vào sự tự nhiên, tâm trong sáng, tâm bản nhiên. Khi đó chúng ta mới biết chúng ta đã vọng tưởng như thế nào, đã u mê bao nhiêu, rồi chúng ta sẽ cười chính chúng ta, sẽ cười trên sự ngớ ngẩn của chính mình.

Khi chúng ta biết được những vọng tưởng này, chúng ta sẽ không ngờ được. Chúng ta sẽ nói với chính mình, “ Thực là điên, tôi đã làm những gì? Tôi đã sơn cái thế giới này, tôi đã sơn cái xã hội này, tôi đã sơn cả loài người, tôi đã sơn những sự liên hệ của tôi với người khác, tôi đã tự sơn phết cho những ràng buộc này.” Chúng ta sẽ nhìn thấy rất rõ những lớp sơn phết này. Ðó là lý do tại sao chúng ta cần thật nhiều trí tuệ để nhận diện thế giới huyễn ảo này mà chúng ta đang chạy lòng vòng ở trong đó, hết ngày này qua ngày khác, hết giờ này qua giờ khác, 24 giờ trong một ngày. Chúng ta đã u mê như vậy đó. Chúng ta đã tin vào những gì xuất hiện chung quanh chúng ta là hạnh phúc hay không hạnh phúc, xấu xa hay đẹp đẽ. Chúng ta đã không nhận diện ra chúng là những phóng tưởng của chính chúng ta. Chúng ta đã tin chúng, chúng ta đã cho chúng là sự thật, là những thực thể hiện hữu. Chúng ta đã ngoan cố cho thế giới này là vững chắc, bền chặt không có gì thay đổi được.

Mỗi khi những năng lượng ô nhiễm (vọng tưởng, tham, sân, si, kiêu mạn…) gia tăng ở bên trong chúng ta là những ý niệm kiên cố (về cái đẹp hay cái xấu) cũng trở nên bền chặt, lúc đó chúng ta chỉ nhìn thấy đối tượng ở mức độ cao nhất của cái đẹp hay cái xấu. Cho tới khi nào những sự u mê bền vững này còn mạnh, còn ở mức cao độ thì chúng ta cũng vẫn còn nhìn những đối tượng ở vị trí đó. Khi mức độ ô nhiễm giảm xuống thì cái đẹp hay cái xấu của đối tượng cũng đi xuống.

Tất cả những sự kiện này cho chúng ta biết một điều là chúng ta phải làm một cái gì với cái ngã chấp, với cái tôi (năng lượng bị ô nhiễm) ở bên trong chúng ta. Tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta cần phải biết, cần phải hiểu, cần phải tập trung vào. Cái tôi, đây là một sự lường gạt, một sự phỉnh lừa, gian xảo, mưu kế, mưu mẹo, một trò khéo léo… Tất cả chỉ là một trò lừa bịp khổng lồ, ở ngay đây (Lạt ma chỉ vào trái tim của ngài). Mưu mẹo diễn ra ngay ở đây, sự phỉnh lừa xẩy ra ngay ở đây để rồi chúng ta thổi phồng ra ở bên ngoài này (Lạt ma chỉ chung quanh ngài). Ðó là vấn đề. Ðó là sự thật. Nó vô cùng quan trọng.

Ðầu tiên, chúng ta tạo ra một đối tượng tuyệt hảo, nhưng thời gian qua đi, nguồn năng lượng giảm xuống, chúng ta nghĩ, “ Ồ, có lẽ cái này không phải là cái hoàn hảo nhất,” nên chúng ta lại bắt đầu đi tìm kiếm ở chung quanh. Trước nhất chúng ta nghĩ cái này là cái tốt nhất trên thế giới, rồi từ từ với thời gian, khi mà nguồn năng lực giảm dần đi, chúng ta bắt đầu so sánh, chúng ta bắt đầu đặt lại giá trị. Ðó là tư tưởng nhị nguyên. Chúng ta có một cái này ở đây, rồi chúng ta lại có một cái khác (đến rất tự nhiên), ngay lập tức sự so sánh bắt đầu xẩy ra. Chúng ta so sánh hai sự kiện, hai cái, hai hiện tượng… như vậy hai sự kiện xung đột nhau ở trong tâm của chúng ta, hai hiện tượng tự mâu thuẫn ở trong tâm của chúng ta. Ðó là lý do mà chúng ta gọi nó là ý niệm nhị nguyên.

Cho tới khi nào chúng ta còn nằm trong vòng ý niệm nhị nguyên thì chúng ta không bao giờ, không thể nào tìm được sự hoàn hảo, sự tuyệt đối. Tôi có thể quả quyết với qúy vị, tôi có thể thách đố qúy vị, cho tới khi nào qúy vị còn chơi cái trò nhị nguyên này ở trong tâm của qúy vị thì qúy vị sẽ không có một con đường nào để kiếm tìm sự toàn hảo: ở tôn giáo, ở vô tôn giáo hay ở bất cứ sự vật nào. Ðó là triết lý của Phật giáo, đó là tâm lý học của Phật giáo đã được khám phá ra. Luôn luôn có sự xung đột giữa hai sự kiện ở trong tâm của chúng ta.

Thí dụ, từ đầu chúng ta không có xe. Rồi chúng ta mua một cái xe bình thường để di chuyển. Ngày hôm sau chúng ta nhìn thấy một cái xe khác thì cái xe mà chúng ta mới mua không còn là cái xe tốt nhất nữa. Ai có thể làm cho một thương gia giầu có ở thế giới Tây phương này thỏa mãn với một chiếc xe? Oâng ta không bao, không bao giờ thỏa mãn. Ðó là lý do tại sao kỹ nghệ xe hơi cứ thay đổi hoài, thay đổi một chút này, một chút kia, mục đích là chạy theo thị hiếu, theo thời trang của khách hàng. Tất cả những kiểu mẫu quần áo, tất cả những kiểu xe, tất cả những sáng chế hay tất cả những nhà máy ở xã hội Tây phương đều nói lên, đều là những thí dụ điển hình cho đặc tính nhị nguyên huyễn ảo này của tâm. Phải vậy không, thưa qúy vị?

Thực ra, chúng ta đã có thể nhìn thấy tất cả những cái đó từ khi chúng ta sinh ra cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã hoàn toàn sinh sống trong cái gỉa tạo, ảo vọng đó của thế giới. Chúng ta đã tin tưởng vào những nhãn quan của cái tôi của chính chúng ta về một thế giới đầy huyễn ảo và đầy gỉa dối. Chúng ta đã sống như vậy đó, phải không qúy vị?

Thật là khủng khiếp! Có phải chúng ta đang sống trong một thế giới gỉa tạo phải không? Qúy vị cảm thấy thế nào? Qúy vị có nhận thấy rằng qúy vị đang sống trong một thế giới huyễn ảo của chính cái tôi của qúy vị từ khi sinh ra cho đến ngày hôm nay và sẽ còn tiếp tục sống như vậy cho tới lúc chết không? Hãy khảo nghiệm một cách khoa học ngay bây giờ, ở đây. Qúy vị có cảm thấy như vậy không? (một số người nói có, một số người trả lời không).

Lạt ma: Qúy vị có nhận thấy như vậy không?

Thính gỉa: Thỉnh thoảng.

Lạt ma: Thỉnh thoảng thôi sao? Chị có lý. Còn anh? Anh không cảm thấy như vậy? Ðược rồi. Còn ông?

Thính gỉa: Thỉnh thoảng.

Lạt ma: Chỉ thỉnh thoảng? Cám ơn nhiều — ông qúa thận trọng.

Thính gỉa: Thưa ngài, tôi quên cái nào là tốt cái nào là xấu.

Lạt ma: Ðược rồi. Còn bà cụ?

Thính gỉa: Hầu như vậy.

Lạt ma: Hầu như vậy nhưng đôi khi không? Còn anh?

Thính gỉa: Thỉnh thoảng.

Lạt ma: Thỉnh thoảng, được rồi. Thỉnh thoảng anh cảm thấy gì? Xin lặp lại. Thỉnh thoảng anh cảm thấy anh hoàn toàn sống trong một thế giới đầy ảo vọng của chính anh phải không? Khi đó anh làm cái gì? Anh quyết định ra sao?

Thính gỉa: Tôi nghĩ về nó.

Lạt ma: Tốt qúa. Thực là tốt, chúc mừng anh. Cám ơn anh, tốt qúa. Khi anh nghĩ về nó, anh có vượt qua được không?

Thính gỉa: Thỉnh thoảng.

Lạt ma: Nhưng thỉnh thoảng không được? Tốt. Anh còn trẻ nhưng anh vẫn biết kiểm soát. Tốt qúa. Rồi anh cảm thấy gì?

Thính gỉa: Tôi không biết.

Lạt ma: Ðôi khi anh bỏ qua?

Thính gỉa: Hai lần.

Lạt ma: Hai lần? Ðược rồi. Như vậy anh không cảm thấy anh đang sống trong một thế giới đầy ảo vọng?

Thính gỉa: Tôi đã hiểu sai. Tôi nghĩ rằng ngài hỏi, nếu chúng ta đang muốn rời khỏi thế giới hão huyền của chúng ta?

Lạt ma: Không, không, chúng ta đang sống trong nó. Ðừng đi ra, hãy ở lại thế giới huyễn ảo.

Thính gỉa: Tôi không thể nói tôi đang rời khỏi nó bởi vì tôi đang ở giữa nó.

Lạt ma: Có lẽ ngôn ngữ của tôi không được rõ ràng lắm. Khi qúy vị khám xét, khi qúy vị tự đặt câu hỏi về sự thật, về sự liên hệ của qúy vị với thế giới, thế giới nội tại và thế giới ngoại tại, về sự cảm nhận mà qúy vị có giữa qúy vị và thế giới chung quanh thì qúy vị có cảm thấy, có nhận thấy tâm của qúy vị đã tạo ra một vài sự kiện hay không? Qúy vị có nghĩ: “ Tôi thế này, thế giới chung quanh tôi như thế này, như vậy tôi nên làm như thế này, như thế kia.” Rõ ràng không qúy vị? Tên của anh là gì?

Thính gỉa: Aino.

Lạt ma: Aino, “ Tôi là Aino, tôi sẽ làm thế này, tôi sẽ làm thế kia. Tôi như thế này. Ðây là gía trị của tôi. Còn thế giới thì như thế này, như thế kia. Nên tôi sẽ nhập cuộc như thế này….”

Thính gỉa: Và sự việc không xẩy ra như tôi nghĩ ….?

Lạt ma: Tôi ví dụ nó xẩy ra đúng như anh dự tính về chính anh và về thế giới chung quanh anh. Thì đó là cái mà anh hoàn toàn cho nó là sự thật, phải không?

Thính gỉa: Ồ…ư…ư…

Lạt ma: Ðược rồi, bây giờ chúng ta mới thực sự nói chuyện.

Thính gỉa: Nó không xẩy ra như tôi mong muốn nó như vậy, không như tôi tưởng tượng.

Lạt ma: Ðó là lý do chúng ta đang sống trong một thế giới huyễn ảo. Qúy vị hiểu không? Hoàn toàn hiểu? Ðó là cái mà tôi nói: mặc dầu tôi có thông minh đến thế nào đi nữa, mặc dầu tôi có khôn ngoan đến thế nào đi nữa thì cái tôi của chính tôi cũng đặt lên tôi một sự giới hạn. Tôi nói tôi thế này, nên tôi dự tính như thế này, nhưng thế giới lại như thế kia.

Tôi nói, Thụy điển như thế này — thực ra tôi không biết rõ lịch sử của Thụy điển và người Thụy điển lắm– nhưng tôi vẫn tưởng tượng ra một nước Thụy điển khác; rồi tôi sắp xếp những sự tưởng tượng đó lại với nhau. Vì thế tôi đang sống với nước Thụy điển mà do tôi tưởng tượng ra. Ðó là ý nghĩa mà tôi muốn đề cập tới. Tôi đang sống trong một thế giới mộng ảo. Phải vậy không?

Tôi nghĩ rằng như vậy là qúa đủ cho đề tài này rồi. Bây giờ chúng ta qua đề tài khác. Có bao nhiêu người trong qúy vị nghĩ như vậy?

Thính gỉa: Có, nhưng đôi lúc thôi, thưa ngài.

Lạt ma: Chỉ đôi lúc thôi sao? Không phải luôn luôn? Khi nào chị không sống trong thế giới mộng tưởng của riêng chị? Khi nào chị ngủ, cái gì? Tốt, câu hỏi thật là hay. Tôi muốn biết nó. Khi nào chị không sống trong thế giới mộng ảo của chính chị? Khi chị còn trẻ?

Thính gỉa: Không.

Lạt ma: Ðây là một sự học hỏi rất tốt. Chúng ta làm việc một cách khoa học. Chúng ta làm việc theo tinh thần đại học về kinh nghiệm của con người. Cô ta nói, cô ta đã sống rất nhiều lần trong thế giới mộng ảo của cô ta nhưng không phải luôn luôn như vậy. Câu hỏi của tôi là, khi nào cô ta không sống trong thế giới mộng ảo của cô ta?

Thính gỉa: Khi tôi thấy sự vật rất là kiên cố, vững chắc, như căn phòng này, và hầu như tôi không có một ý tưởng gì về nó.

Lạt ma: Xin lỗi. Ðợi một chút, chị hãy cẩn thận về những gì chị đang nói (cười).

Thính gỉa: Ðôi khi tôi cảm thấy mọi vật thật là vững chắc. Tôi có thể nắm bắt được nó, chứ không phải chỉ ở trong đầu.

Lạt ma: Khi nào chị không tạo nó ra ở trong đầu? Khi nào chị không tự xác nhận chị là một cô gái Thụy điển trẻ đẹp? Tôi nghĩ chị nên nghĩ lại, nên xác nhận lại — chị sẽ có một nhận xét lớn, theo tôi nghĩ.

Chúng ta tưởng rằng khi chúng ta không suy nghĩ cái gì trong đầu của chúng ta là chúng ta không sống trong thế giới huyễn ảo. Ðiều này không đúng. Có hai cách nhận thức: ý thức và vô thức, chúng ta dùng cách này hay cách kia, làm thế này hay làm thế khác. Như vậy chúng ta luôn luôn sống trong một thế giới mộng ảo.

Thính gỉa: Nhưng dĩ nhiên, thế giới không hoàn toàn là huyễn ảo. Tôi có ý nói, như ngài trình bày, chúng ta thấy nhân loại đau khổ, có một sự thật nào ở trong đó, phải vậy không? Có nghĩa, thế giới mà chúng ta nhìn thấy và thế giới mà chúng ta tạo ra có một sự liên hệ nào đó đến một thế giới thật. Chúng ta biết chúng ta tạo ra tất cả mọi thứ, chúng có một sự liện hệ nào đó đến chúng ta và thế giới. Như vậy, dĩ nhiên, cái gì mà chúng ta tạo ra là ảo vọng của chúng ta trong sự tương quan, trong sự liên hệ đến chúng ta.

Lạt ma: Phải rồi, đúng lắm. Tôi nghĩ rằng nó đã được sáng tỏ, phải không? Anh ta nói rằng, chúng ta đã tạo ra một thế giới huyễn ảo, nhưng cùng một lúc cũng có những sự thật. Những người đói và những người đau khổ đang ở đó –có một cái gì đang ở đó– nhưng khi chúng ta bắt đầu phán đoán cái này tốt cái này xấu, là chúng ta bắt đầu huyễn ảo. Mỗi khi chúng ta nói cái này tốt cái kia xấu là chúng ta bắt đầu phủ một chiếc mền huyễn ảo lên chúng. Ðúng vậy? Ðược rồi, tôi nghĩ rằng chúng ta đã sáng tỏ vấn đề.

Trong Phật giáo, chúng tôi thường nói về trí huệ tính không. Trí huệ có nghĩa là đang nhìn, là chúng ta đang hiểu thấu (thẩm thấu) được những vấn đề, những trở ngại và nhìn rõ được cái căn bản tự nhiên, cái bản lai diện mục của chúng ta. Ðó là tính không. Bản thể của quý vị và bản thể của tôi không nhị nguyên. Vì thế khi chúng ta khám phá ra được tính bản nhiên của mình là lúc chúng ta khám phá ra toàn thể thực hữu, thực thể của tất cả chúng sinh. Ngay tại lúc đó, tại kinh nghiệm đó, chúng ta không có một chút vọng tưởng nào về cái tốt, cái xấu, về quỉ ma, về tất cả mọi thứ. Không có một chút gì về bạn xấu hay bạn tốt. Chúng ta không có một đối tượng yêu, không có một đối tượng ghét; chúng ta duy nhất chỉ là một (nhất thể). Tôi đang nói về một kinh nghiệm, một chứng nghiệm.

Tôi nghĩ như vậy là đủ rồi. Hãy đi đến kết luận. Mỗi khi chúng ta để tâm của chúng ta trong trạng thái tự nhiên, trạng thái tự nhiên của chính tâm thức chúng ta, thì nó sẽ dẫn chúng ta đến một kinh nghiệm về một thực thể không có tốt hay xấu, quỷ hay thần, bạn hay thù, một cách rất tự nhiên, rất trực giác. Kinh nghiệm này dẫn đến tình trạng không còn cái tôi, không còn tự thể. Những ý niệm vững chắc sẽ biến mất. Ðó là toàn thể vấn đề.

Khi chúng ta có chứng nghiệm này, chúng ta không nên sợ hãi. Hãy an trú trong trạng thái đó càng lâu càng tốt và hãy thấu hiểu nó. Hãy hiểu thấu. Hãy thẩm thấu trạng thái này bằng sự tỉnh thức mãnh liệt, đừng dùng trí thông minh. Hãy ở trong trạng thái đó càng lâu càng tốt. Chúng ta sẽ khám phá ra sự đồng nhất, không còn nhị nguyên (tất cả là một, một là tất cả, nhất thể).

Bây giờ tới phần đặt câu hỏi. Tôi xin ngừng ở đây để cho qúy vị đặt câu hỏi. Ðiều tốt nhất là chúng ta hãy đối thoại, không nên để một mình tôi nói.

Hỏi: Tôi không hiểu một người như Ðạt Lai Lạt Ma lại có thể liên tục tái sinh trong khi Phật giáo chủ trương “vô ngã” ?

Lama: Một câu hỏi rất hay. Trong tiếng Anh, danh từ “Ngã, tự ngã, cái tôi ” có rất nhiều nghĩa khác nhau. Quan niệm của Phật giáo về “ Không có một tự ngã” là không có một cái tôi kiên cố, vững chắc. Khi anh qủa quyết “Tôi là thế này”, anh đã tạo cho anh một đặc tính, nhưng anh không hiện hữu như vậy, anh không sinh ra như vậy. Tại sao? Bởi vì cái tôi của anh xác nhận phẩm tính của nó luôn luôn như vậy, thường hằng, tự thể hiện, tự có, không thay đổi. Nó xác nhận một “cái tôi” thường hằng, tự hiện hữu, độc lập, trong khi “cái tôi” thực sự không có những đặc tính đó. Ðây chỉ là những vọng tưởng, ảo tưởng của anh mà thôi. Rõ ràng không?

Hỏi: Tại sao một người như Ðức Ðạt Lai Lạt Ma lại có thể liên tục tái sinh và được xác nhận là từ một người?

Lama: Ðiều này lại khác. Sự liên tục tái sinh này nói lên sự hiện hữu liên tục của tâm thức, nhưng không thể tự nó mà có được, nó không tự hiện hữu. Thí dụ chính anh, từ khi sinh ra đến bây giờ, tâm thức của anh được thể hiện một cách liên tục, nhưng sự thể hiện của nó không phải là không có thay đổi.

Nếu không còn câu hỏi nào nữa, chúng ta tiếp tục với nghi lễ qui y. Nếu sau này qúy vị có câu hỏi nào khác, qúy vị liên lạc với Karin. Bà ta sống ở đây, Sweden, hay qúy vị viết thẳng cho tôi. Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng tôi đã trình bày.

Thế giới này qúa nhỏ, chúng ta không nên lo lắng. Tôi vẫn còn gặp qúy vị. Tôi sẽ trở lại đây để lại đối thoại với qúy vị về những điều tôi mới trình bày. Ðây là bổn phận và trách nhiệm của tôi, tôi cố gắng làm cho mọi sự trở nên sáng tỏ càng nhiều càng tốt. Hãy viết cho tôi, nếu qúy vị không chấp nhận những điều tôi trình bày, tôi sẽ làm trong sáng tất cả những sự hiểu lầm, như vậy được không?

Thính gỉa: Ngài xử dụng luân xa (chakras) như thế nào?

Lama: Luân xa? Tôi có luân xa. Anh có luân xa. Tất cả chúng ta đều có luân xa. Ðúng không? Nhưng hãy nhớ, tôi đã nói: Toàn thể thân xác của chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cầu vòng (rainbow), chủng tử trắng OM sẽ ở nơi nào óc của chúng ta ở, chủng tử đỏ AH ở cổ họng, chủng tử xanh HUM ở trái tim. Hãy thiền định trên những chủng tử này. Ðó là những luân xa của chúng ta, chúng sẽ mở những trung tâm thần kinh của chúng ta, chúng làm trái tim của chúng ta hết căng thẳng. Những cột thắt ở trái tim sẽ được nới lỏng, chúng ta gọi đó là mở. Phải vậy không? Ðúng rồi.

Bất cứ người nào muốn qui y cũng nên nhớ rằng qui y có nghĩa là quyết tâm. Trước đây, chúng ta chạy theo (qui y) những thú vui vật chất; bây giờ, chúng ta biết những điều đó là sai lầm, chúng ta muốn thanh tẩy sự hiểu biết đó, muốn trí tuệ được trong sáng. Trí tuệ trong sáng là đối tượng để chúng ta qui y chứ không phải trí tuệ u mê lầm lạc. Do đó, chúng ta quyết tâm từ bây giờ, ngay ngày hôm nay, càng nhiều càng tốt, chúng ta qui y Ðạo Pháp.

Theo chiều hướng của vị kia, hãy quán tưởng đến luân xa trái tim. Trong luân xa trái tim có vầng trăng, trên vầng trăng là hình ảnh của trí tuệ trong sáng được thị hiện như Ðức Phật Thích Ca, với những tia sáng vàng long lanh chung quanh thân Ngài. Quán tưởng như vậy và chúng ta qui y. Chúng ta qui y trong trí tuệ vô cùng trong sáng của Ngài, Ðạo Pháp và Phật tính.

Hãy quyết tâm từ bây giờ về sau chúng ta sẽ qui y trong sự tỉnh thức trong sáng của Ðạo Pháp, thay vì chỉ chạy theo những đối tượng trần gian, vật chất. Hãy quyết tâm một cách thành thật và dũng mạnh. Hãy nhắm mắt lại và chân thành quyết tâm.

Hãy nghĩ: “ Tất cả quãng đời còn lại của tôi, tôi sẽ sống an lành, tôi sẽ đi theo con đường giải thoát. Ðặc biệt, tôi sẽ kiểm soát thân khẩu ý của tôi và tôi sẽ thận trọng trong tất cả mọi hành động của tôi trong cuộc sống.” Hãy quyết tâm: “ Từ ái là con đường của tôi đi. Vì thế, tôi sẽ không bao giờ làm hại ai, làm buồn lòng ai từ bây giờ cho đến khi tôi chết.” Hãy trầm tư trong ý tưởng này, hãy lắng đọng và thiền định.” Hãy thành thật xác nhận: “ Qui y tận đáy tâm hồn là quan trọng, con đường này sẽ dẫn tôi đến sự qui y vĩ đại, trường cửu.”

Ðừng quên gửi lòng từ bi đến muôn vàn chúng sinh. Hãy quán tưởng cha mẹ chúng ta, anh em và những người thân của chúng ta cũng như muôn loài chúng sinh trong khắp vũ trụ đang ở chung quanh chúng ta. Nguyện cho họ cũng đang qui y trong Ðạo Pháp. Và Chư vị Phật, Chư vị Bồ Tát trong mười phương cũng đang ở chung quanh chúng ta, các Ngài đang độ trì, đang hướng dẫn chúng ta trên con đường tu tập trong sự quyết tâm của chúng ta.

Cùng lúc đó, quán tưởng chủng tử OM của vị Phật đang ở trong trái tim của chúng ta, những tia sáng màu trắng đang đến; và từ luân xa trái tim của chúng ta, những tia sáng màu xanh đang lan tỏa khắp người chúng ta. Hãy phát triển sự quyết tâm: “ Từ bây giờ, tôi sẽ qui y Pháp trong tận đáy sâu thẳm của tâm tôi (nội qui y), tôi sẽ qui y Phật để phát triển Phật tính trong tận tâm tôi.” Cũng trong cùng lúc đó, hãy tụng niệm những câu chú khi thiền (mọi người bắt đầu tụng).

Từ vị Phật trong trái tim của chúng ta có những tia sáng tỏa ra để thanh tẩy tất cả những ô nhiễm trong thân khẩu và ý của chúng ta ( Lama nhắc lại nhiều lần)

Có đơn giản không qúy vị? Tất cả chỉ là như vậy. Qui y rất là đơn giản. Chúng ta vừa nhaän ra sự trong sáng của trí huệ, Ðạo Pháp. Mỗi khi chúng ta phát triển trí huệ này, đó chính là qủa vị Phật. Hãy tự tin trong trí huệ của riêng mỗi người chúng ta. Tất cả là như vậy. Hãy quyết tâm đừng gây đau khổ cho bất cứ ai, hãy có một tấm lòng từ bi, thương yêu muôn loài.

Kính chào qúy vị. Cám ơn qúy vị nhiều lắm. Tôi thực sự hạnh phúc được chia sẻ với qúy vị ở đây.

Cám ơn nhiều lắm lắm.

Ánh Sáng Ðạo Pháp – Trình bày: Nhị Tường

Nguyên tác Light of Dharma của Lama Yeshe, do nhà sách Wisdom xuất bản -Vô Huệ Nguyên dịch (Email: vohuenguyen@yahoo.com)

Nguồn: http://quangduc.com

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.