Nơi Sẽ Sinh Về

CON THUYỀN VÀ LỤC BÌNH TRÔI SÔNG

Ngày 28- 06- 2008, sau khi thuyết giảng tại một số ngôi chùa ở Hà Nội, tôi đến viếng thăm chùa Bồ Đề. Hôm ấy, tôi đi bộ dọc bờ sông Hồng. Sông Hồng rất đẹp, trên mặt nước có vài chiếc lục bình đang trôi, xa xa có vài chiếc thuyền. Nếu để ý quan sát cảnh lục bình trôi bồng bềnh trên sông nước, có thể thấy đây là sự trôi vô định, không có mục đích. Bởi bản chất của lục bình không có ý thức, trôi tùy theo thủy triều lên hoặc xuống, tùy sức gió vận hành trên mặt nước, và có thể tấp dạt vào bờ. Nhất là ở những đoạn khúc khuỷu, đôi lúc nó trôi ra giữa sông, hoặc đứng yên tại chỗ. Việc trôi của lục bình hoàn toàn dựa vào duyên, mất sự chủ định. Ngược lại, con thuyền trên sông nước lại có định hướng rõ ràng. Chủ nhân con thuyền biết rõ mình xuất phát từ đâu, và chở hàng hoá cập bến nào. Do có chủ định rõ nên thuyền sẽ không đậu vĩnh viễn trên sông, mà nay chỗ này, mai chỗ khác. Chỉ cần so sánh hai hình ảnh giữa con thuyền và lục bình trên sông Hồng cho thấy rõ có hai hình thái của sự đi về.

Câu hỏi “chết đi về đâu” với sự so sánh giữa hai hình ảnh trên cho thấy hai khuynh hướng. Thứ nhất, trong tình huống của chiếc thuyền có người lái thì con người hay các loài động vật khi qua đời sẽ đi theo nghiệp. Các năng lượng nghiệp sẽ chủ động dẫn dắt, đưa đường dẫn lối về cảnh giới với nghiệp tương ứng, để tái sinh làm người với nhân quả tương thích, hoặc ở cảnh giới thấp kém, hoặc ở cảnh giới cao thượng. Tình huống lục bình trôi vô phương hướng tượng trưng cho người chết chưa có sự chuẩn bị, thái độ không chấp nhận cái chết như một sự thật, cứ muốn níu kéo, bám víu mãi. Vì vậy thần hồn vẩn vơ, lang thang vô định và thiếu mục đích, nên phải chấp nhận tồn tại trong cảnh giới mà dân gian thường gọi đó là cõi âm. Hương linh tồn tại trong thế giới

cõi âm với tính thời gian dài ngắn cũng tương tự như lục bình trôi không có hướng đi về. Cách thức sống lảng vảng như vậy được gọi là ngạ quỷ, tức là ma quỷ đói khát về cảm xúc, nhận thức, tiêu thụ và nhiều phương diện hưởng thụ khác.

Tình trạng vô phương hướng trong tái sinh khiến hương linh tốn nhiều năng lượng. Thay vì để các hạt giống mà họ từng gieo trồng trong suốt quá trình sống có cơ hội trổ quả thì người không có phương hướng do vì chấp trước, tiếc nuối, hận thù, oan ức nên phải bị kẹt lại, mất đi khoảng thời gian trung chuyển quá dài. Điều này giống như sự hành hạ, đày đoạ cảm xúc và tâm thức.

Hành giả là Phật tử có sự tu tập, được huấn luyên tâm thức, chấp nhận vô thường và vô ngã thì khi cái chết diễn ra, xem đó là qui luật bình thường. Ai có sự sống và được sinh ra từ cha mẹ thì chắc chắn phải trải qua cái chết. Vấn đề còn lại là tính thời gian dẫn đến sự tương thích về tuổi thọ hay yểu thọ mà thôi. Phủ định cái chết như một sự thật khiến con người có mặt trong thế giới sự sống như chiếc lục bình trôi vô nghĩa và khổ đau. Chính vì vậy, phải tập huấn luyện tâm thức theo cách làm chủ hành động, nói theo ngôn ngữ Tịnh độ tông gọi đó là “Dự tri thời chí”, tức là nắm bắt và biết rõ giờ khắc mình sẽ ra đi và đi về đâu.

CẬN TỬ NGHIỆP CÓ ĐỊNH HƯỚNG

Phật giáo Tây Tạng huấn luyện các nhà sư về nghệ thuật sắp xếp cõi đi về sau khi qua đời bằng sự phát nguyện, nghĩa là thoát khỏi vòng dẫn dắt của nghiệp vốn giam hãm và trói buộc con người trong tiến trình tái sinh. Vì có phát nguyện nên năng lực

đẩy con người đi vào cuộc đời, về ngay nơi mà họ muốn đến. Tuỳ theo ước nguyện, mà sự đi về của mỗi con người đi theo một điểm đến nào đó, theo sự sắp xếp (theo nghiệp), hoặc theo nguyện ước (theo phát tâm Bồ đề). Các vị cao tăng, hành giả chứng đắc và người có sự huấn luyện, làm chủ vận mệnh trong tái sinh đều có thể phát nguyện để đi vào cảnh giới nhất định.

Hòa thượng Thích Trí Thủ, chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên phát nguyện đời đời kiếp kiếp tái sinh làm lại con người trong cõi Ta bà này chỉ để làm một trong hai việc. Thứ nhất, nếu tái sinh dưới hình thức là người cư sĩ, ngài phát nguyện sẽ là vị minh quân hay nguyên thủ quốc gia để hướng dẫn mọi người trở về con đường chánh pháp, mang đạo lý Phật truyền bá cho muôn dân; giúp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cơm no, áo ấm, lúa thóc được mùa, mưa thuận gió hòa; chiến tranh, khủng bố, đói nghèo không còn nữa. Thứ hai, nếu tái sinh là người tu sĩ, ngài phát nguyện luôn là người lãnh đạo Giáo hội, để hướng dẫn cho các thế hệ sau đi đúng quỹ đạo của chánh pháp, giúp ích cho người hữu duyên với Phật pháp.

Sự phát nguyện lúc lâm chung sẽ định thành cận tử nghiệp có định hướng, giúp cho sự ra đi sẽ ở một trong hai nơi này. Ngài đã qua đời vào năm 1984. Nếu áp dụng nguyên tắc tái sinh trung bình là 9 tháng 10 ngày trong thai mẹ, cậu bé nào ra đời khoảng một năm sau trong khoảng thời gian Hòa thượng viên tịch, chỉ cần quan sát tâm tính, hành động, lời nói, việc làm có những dấu hiệu gần giống Hòa thượng lúc sanh tiền thì đoán biết đó là hậu thân của Hòa thượng

Nghiệp do con người tạo ra trở thành chất keo gắn bó, nhất là những gì gắn bó trong mấy mươi năm cuộc đời tạo cảm giác gần gũi, thân mật hơn cái vừa mới quen. Ví dụ ở đạo tràng Pháp Hoa – chùa Diệu Tú này, phần lớn quý Phật Tử mặc áo tràng lam theo văn hóa pháp phục của Phật giáo miền Nam. Nếu đạo tràng này được thiết lập ở miền Bắc trong trong những năm trước thì quý vị sẽ mặc áo tràng nâu của miền Bắc tượng trưng cho sự thanh bần. Ai đã quen với áo tràng lam, đến cuối đời chắc chắn vẫn sẽ tiếp tục mặc màu áo này. Áo tràng lam vẫn gắn bó hơn so với áo tràng nâu. Hoặc quý vị nào có thói quen dùng xâu chuỗi để lần và niệm Phật, giá trị xâu chuỗi có thể chẳng đáng là bao. Rồi quý vị được một nhà sư tặng một xâu chuỗi khác bằng đá

quý, mà giá trị cao gấp nhiều lần so với xâu chuỗi mà mình đang lần niệm, nhưng quý vị vẫn cảm thấy nó không quý bằng. Nếu được lựa chọn, chắc chắn quý vị sẽ chọn xâu chuỗi gắn với sự hành trì của mình trong nhiều năm qua.

Khi còn sống, bất cứ kỉ niệm vật nào đều tạo nên sự gắn bó. Đến lúc qua đời, tất cả năng lượng, hành động, chức nghiệp, và sự hành thiện của con người không bị mất đi. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nó tồn tại cùng một lúc tại thời điểm mà ta đầu thai, tâm thức ta trở thành phôi trong bào thai người mẹ. Vì vậy, nhiều cậu bé hay cô bé vừa mới chào đời đã có những thiên hướng bẩm sinh, mà tâm lý học Phật giáo gọi đó là:“câu sanh chủng tử”, tức là những hạt giống năng khiếu xuất hiện ngay cùng thời điểm đứa bé ấy chào đời, khiến chúng có thói quen chọn những vật liệu từng quen thuộc, gắn bó.

Hành giả nào ở đời trước từng có thói quen lần chuỗi, niệm Phật, khi tái sinh ở đời sau nếu quan sát sẽ thấy rõ trong buổi lễ thôi nôi; đứa bé ấy có khuynh hướng chọn xâu chuỗi – một vật liệu từng gắn bó với nó từ đời trước. Nếu là một nhà sư tu hành chân chính, phát nguyện trở lại cuộc đời để độ sinh, khi nhìn thấy xâu chuỗi, cái mỏ, cái chuông chắc chắn đứa bé sẽ chọn những vật dụng biểu tượng của người tu. Bởi vì với quá khứ từng là một nhà sư trong niềm an vui, hạnh phúc phục vụ nhân sinh, khiến người đó có khuynh hướng gợi nhớ lại những hạt giống ấy.

Người tu có phương pháp có thể làm chủ được vận mệnh lúc lâm chung, để tái sinh ở những gia đình thích hợp với nguyện ước của mình, tiếp tục thực hiện công việc còn dở dang.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.