Cốt lõi của Bồ Đề tánh không – Phần II

Hoang Po (Hoàng Bá)luôn cảnh giác các đệ tử của mình bằng cách đưa ra hình ảnh một người có một viên kim cương dính trên trán mà không hề hay biết, và cứ chạy đôn đáo khắp cả địa cầu và cả các thế giới khác để tìm cách hiến dâng một xu hầu mong cầu mua được cõi thiên đường và các phương tiện giúp làm thỏa mãn tất cả những gì mà mình khao khát. Thật vậy, chỉ vì không nhìn thấy viên kim cương đang dính trên trán mình nên chúng ta đành phải chạy khắp nơi trong thế giới này và cả bên ngoài địa cầu(cõi cực lạc và chốn thiên đường) để tìm kiếm nó. Vì thế tôi mong rằng quý vị hãy cố nhìn thấy, dù chỉ trong một thoáng thật ngắn ngủi, xem có gì dính trên trán mình hay không, và để hiểu rằng phải đặt bàn tay mình lên đấy.

Các lời chỉ dẫn giúp khám phá ra viên kim cương của các vị thầy Trung Quốc còn ẩn chứa một sự sâu sắc khác nữa, ấy là: “Chẳng cần phải làm gì cả, cứ đơn giản giữlấy sự thanh thản (be still / être tranquille / bình thản… – cũng có nghĩa là giữ sự yên lặng trong tư thế bất động của phép ngồi thiền) thì tâm thức tự nó cũng sẽ trút bỏ tất cả để trở thành trống không”. Câu phát biểu: “Cứ đơn giản giữ lấy sự thanh thản và chẳng cần phải làm gì cả” trên đây mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Tâm thức chúng ta thích nghịch ngợm và ham vui đùa (naughty and playful). Tâm thức chỉ muốn thoát ra bằng các cửa ngõ như mắt, tai, mũi, lưỡi và thân xác. Tâm thức thu góp các đối tượng giác cảm và cất chứa bên trong nó. Thế nhưng sau đó thì tâm thức lại tỏ ra quá sức đần độn vì nó cứ để mặc cho các dhamma của vô minh (sự u mê tâm thần)lèo lái nó, hậu quả mang lại sẽ toàn là các hình thức nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi”. Tình trạng đó gọi là ham thích nghịch ngợm và không thích sự thanh thản.

“Giữsự thanh thản” có nghĩa là cứ để cho các đối tượng giác cảm thâm nhập vào tâm thức mình, thế nhưng cứ mặc kệ để cho chúng chết, tương tự như những gợn sóng đập vào bờ. Hãy lấy một thí dụ, khi mắt trông thấy một hình tướng, nếu đấy chỉ là một “sự thấy”, thì cũng sẽ có nghĩa là không cho phép các thứ “hình tướng trông thấy được” thâm nhập vào tâm thức – đối với các giác quan khác cũng vậy. Nếu không làm được như thế và các thứ cảm tính như toại nguyện và bất toại nguyện hiện ra sau đó, thì quý vị cũng nên cố gắng dừng lại ở đấy! Không đượcđể cho các thứ cảm tính ấy chuyển thành sự thèm muốn. Nếu mọi sự dừng lại ở đấy thì vẫn có thể giữ được sự thanh thản. Trái lại nếu chúng ta cứ để cho chúng tiếp tục phát triển để biến thành cảm tính toại nguyện, thì tức khắc ngay vào lúc ấy “cái tôi” và cái “của tôi” sẽ hiện ra. Hoặc nếu phản ứng ấy là một cảm tính bất toại nguyện thì khổ đau sẽ hiện ra. Và đấy có nghĩa là không giữ được sự thanh thản.

Tóm lại ý nghĩa trong câu “giữ được sự thanh thản” do Huệ Năng đưa ra rất phù hợp với tinh thần tu tập do Đức Phật đã giảng dạy, tức là không được bám víu vào bất cứ thứ gì để xem đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”. Nếu chúng ta không bám víu vào bất cứ thứ gì cả thì lấy gì để có thể làm xao động và mang lại sự hoang mang cho chúng ta được. Thay vì chỉ biết chạy theo các sựvật tạo ra sự bấn loạn cho mình thì chúng ta nên giữ lấy sự thanh thản.

Chúng ta phải cố gắng tạo ra cho mình tánh không vì đấy là một thứ gì thật xứng đáng cho chúng ta hoài vọng. Nếu nói rằng có một thứ tánh không có thể mang lại sự đình chỉ, sự tinh khiết, sự minh bạch và sự an bình thì đấy cũng vẫn còn là một cách nói sử dụng các thuật ngữ quy ước. Bởi vì nếu đã thực sự là tánh không thì chỉtoàn là tánh không, chỉ có một thứ duy nhất ấy mà thôi và nhất thiết nó không phải là một thứ nguyên nhân nào cả nhằm để mang lại bất cứ một thứ gì cả. Cái tánh không ấy là Đức Phật, là Dhamma, là Sangha, là sự tinh khiết, minh bạch, là sự an bình và niết-bàn… tất cả đều hiện hữu chính trong cái thể dạng bất biến ấy. Nếu cứ tiếp tục bảo rằng tánh không là nguyên nhân tạo ra cái này hay cái kia thì đấy sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta chưa đạt đến chỗ tối thượng, bởi vì nếu đã đạt được cấp bậc ấy thì sẽ chẳng còn có gì để mà làm nữa (nếu đã đạt được tánh không đích thật thì sẽ không còn có gì khác để mà đạt được nữa, nếu giả sửcòn có một cái gì khác để đạt được thì nhất định đấy phải là một sự thụt lùi và sẽ không còn phải là tánh không nữa). Giữ được sự thanh thản thì Đức Phật, Dhamma, Sangha, sự tinh khiết, sự minh bạch, sự an bình, nibbanâ,…tất cả sẽ hiện hữu trong thể dạng bất biến ấy.

Hoang Po (Hoàng Bá)sử dụng một phương pháp thật đơn giản để giúp những người gặp quá nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu tánh không: Ông đưa ra một câu đố như sau: “Hãy thử nhìn vào một hài nhi trước khi nó được hình thành”. Tôi cũng rất muốn lập lại câuđố ấy với tất cả quý vị đang ngồi đây. Quý vị thử nhìn vào tâm thức của một hài nhi trước khi nó được hình thành để xem cái tâm thức ấy của nó đang ở đâu? (trước khi hiện hữu tức là trước khi ngũ uẩn kết hợp để tạo ra một cá thể thì cá thể ấy chưa có cái tâm thức để có thể hàm chứa “cái tôi”, cũng chưa có năm thứ cấu hợp -ngũ uẩn – để cho nó có thể gọi đấy là cái “của tôi”, do đó cái “tâm thức” trong thể dạng nguyên sinh trước khi một cá thể được cấu tạo sẽ phải trống không về những thứ ấy tức về “cái tôi” và cái “của tôi”). Nếu quý vị giải đáp được câu hỏi trên đây thì nhất định quý vị cũng sẽ tìm thấy tánh không thật dễ dàng, chẳng khác gì như quý vị lấy tay sờ vào viên kim cương trên trán mình.

Kết luận

Tóm lại, chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không). Tánh không vừa là một sự hiểu biết lý thuyết, vừa là một sự luyện tập và cũng lại vừa là quả mang lại từ sự luyện tậpấy. Dù học hỏi bất cứ thứ gì (tông phái nào, học phái nào, kinh sách nào…) thì cũng đều phải học hỏi tánh không; nếu luyện tập thì đấy cũng là phương tiện nhằm giúp mang lại quả tạo ra bởi tánh không; nếu tiếp nhận được quả thì đấy cũng sẽlà tánh không, tóm lại là sau cùng người ta sẽ đạt được một thứ gì đó vô cùng xứngđáng. Thật vậy, không có gì có thể vượt hơn tánh không được. Khi đã thực hiệnđược nó, tất cả các khó khăn đều chấm dứt. Tánh không không ở trên, không ở dưới cũng không ở bất cứ một nơi nào cả. Tôi cũng chẳng biết phải nói gì hơn, vì thếtốt nhất là tôi xin câm miệng lại! Đơn giản chúng ta chỉ cần biết rằng tánh không là niềm phúc hạnh tối thượng (Buddhadasa trở lại cách nói thường tình và quy ước của những người thế tục để nói với những người thế tục nhằm khuyến khích họ “mạnh dạn” bước vào Con Đường. Thế nhưng trong các câu kết luận sau cùng dưới đây Buddhadhasa sẽ ném về phía họ một chiếc dây thòng lọng để lôi họ trở vể con đường thẳng đưađến tánh không hay niết-bàn đích thật).

Dù sao thì quý vị cũng cần phải cố gắng hiểu được một cách đúng đắn các câu sau đây: “Nibbanâ (niết-bàn) là niềm phúc hạnh tối thượng”, “Nibbanâ là tánh không tối thượng”. Không nên lầm lẫn chữ “phúc hạnh” trên đây với niềm hạnh phúc mà quý vị có thể đã từng cảm nhận được – có một học phái mang hình thức tôn giáo phát triển trước cả thời kỳ của Đức Phật, đã từng tin rằng nibbanâ là điểm tột đỉnh của khoái lạc dục tính, tương tự như trường hợp của một số học phái khác (du-già) tin rằng các thể dạng tinh tế của thiền định chính là một niềm hạnh phúc tối thượng. Đức Phật mong muốn chúng ta phải ý thức được là phải tuyệt đối lánh xa những thứ ấy dù bằng bất cứ phương tiện nào: dù đấy là cách chọn thành phần của sự từ bỏ (nekkhamadhâtu) (xuất gia)như một phương tiện để tránh khỏi dục tính, dù đấy là cách chọn thành phần mang tính cách phi-vật-chất (arupadhâtu / immateriality) như một phương tiện để tránh khỏi phép lắng sâu vào thiền định để tìm thấy các thể dạng vật-chất-tinh-tế (fine-material plane / các loại cảm giác thanh thoát, lâng lâng và an bình tạo ra bởi thiền định), và sau hết dù đấy là cách chọn thành phần của sự tắt nghỉ (nirodhadhâtu) như là phương tiện để tránh khỏi tất cả mọi thứ mang tính cách trói buộc (conditioned / có lẽ nên dùng chữ conditionnant hay conditioning thì thích nghi hơn, bởi vì tất cả các hiện tượng trong vũ trụ – trong đó gồm có cả chúng ta – vừa “tự trói buộc” lẫn nhau và cũng vừa làm nguyên nhân để “tạo tác” ra những hiện tượng khác – thí dụ như chúng ta có thể tạo ra đủ mọi thứ chuyện. Do đó thế giới của mọi hiện tượng không nhất thiết mang tính cách thụ động mà thật ra cũng rất tích cực và chủ động, tuy rằng luôn bị chi phối bởi các quy luật tương-liên và nguyên-nhân-hậu-quả. Chọn thành phần tắt nghĩ là cách thoát ra khỏi tính cách vừa “trói buộc” lại vừa “tạo tác” của thế giới hiện tượng). Đấy chính là cách khiến cho tất cả mọi thể loại hoang mang tâm thần đều phải hội tụ (tan biến) vào tánh không.

Dù cho quý vị có thấu triệt được những gì vừa trình bày hay không, và dù cho quý vịcó đem những thứ ấy ra để luyện tập hay không, thì đấy cũng là chuyện của quý vị.Bổn phận của tôi là giải thích mọi sự vật đúng là như thế, còn về sự hiểu biết và lĩnh hội, cũng như việc luyện tập thì đấy là trọng trách của từng quý vị.

Hôm nay tôi xin chấm dứt ở đây.

Buddhadasa Bhikkhu – Bures-Sur-Yvette, 31.08.12

http://latoi.com/gdpt

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.