Hạnh Phúc Chân Thường – Phần IV

Chương 14

ĐỐI PHÓ VỚI LO LẮNG VÀ TỰ LƯỢNG

Người ta ước đoán rằng trong suốt cuộc đời, cứ trong 4 người Mỹ thì có 1 người bị ảnh hưởng bởi cảm xúc lo lắng ở một mức độ nào đó hoặc ảnh hưởng của cảm xúc này đã trầm trọng đến mức cần phải được bác sĩ chẩn đoán. Nhưng ngay cả những người chưa bao giờ bị thương tổn nặng nề bởi cảm xúc này cũng đã có lần kinh qua tình trạng lo sợ, băn khoăn mà hậu quả là hạnh phúc của họ bị suy thoái cũng như ảnh hưởng đến khả năng hoàn tất những mục tiêu của họ trong đời.

Bộ óc con người có một thiết bị tinh xảo để ghi nhận cảm giác sợ hãi và lo âu. Thiết bị này có một chức năng quan trọng, nó động viên chúng ta để ứng phó với tình trạng nguy hiểm bằng cách gây tạo các biến động sinh hóa và các chức năng sinh học theo một thứ tự rất phức tạp. Phần có thể chấp nhận được của cảm giác lo sợ là nó cho phép chúng ta tiên liệu tình trạng nguy hiểm và tìm biện pháp phòng ngừa. Về phương diện này, một vài cảm xúc sợ hãi và lo âu có tác dụng tốt. Tuy nhiên, những cảm giác này có thể tồn tại và tăng trưởng nếu không có những trị liệu thích đáng; và nếu chúng phát triển quá độ so với mối nguy hiểm thật sự, chúng sẽ trở thành không thích nghi. Sợ hãi và lo âu thái quá, cũng như giận dữ và thù hận, sẽ gây ra những tác hại ghê gớm về tinh thần cũng như thể lực, chúng là nguyên nhân của các khổ não tinh thần cũng như các bệnh tật thể xác.

Về phương diện tinh thần, lo âu trường kỳ có thể làm người ta mất khả năng phán đoán, gia tăng tính cáu kỉnh và ngăn trở hiệu năng toàn bộ của con người. Nó cũng đưa đến những rắc rối vật lý như giảm thiểu chức năng đề kháng, các bệnh liên quan đến tim, rối loạn trật tự tiêu hóa, mệt mỏi và đau nhức bắp thịt. Tình trạng lo âu vô trật tự đã gây ra trạng thái tăng trưởng èo uột ở các thiếu nữ đang tuổi dậy thì.

Trong việc truy tìm những sách lược để ứng đối với lo lắng, đầu tiên chúng ta phải nhận thức rằng, như đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ rõ, cảm giác lo sợ do rất nhiều dữ kiện cấu thành. Đôi khi là do những cấu tạo sinh học của chúng ta. Do cấu trúc thần kinh, một số người như có vẻ rất dễ bị kích động bởi cảm xúc lo lắng, sợ hãi. Các khoa học gia đã phát hiện ra những nhiễm thể vốn là nguyên nhân khiến người ta dễ bị lo sợ và thường có cảm tưởng tiêu cực. Độc tố lo lắng không phải lúc nào cũng do di truyền và người ta đã biết được khá rõ là học hỏi và hoàn cảnh chung quanh giữ một vai trò cốt cán trong việc gây tạo ra cảm xúc này.

Nhưng không cần biết nỗi lo lắng của con người có nguyên thủy từ thể chất hay tâm lý, điều đáng mừng là chúng ta có thể chữa trị được. Trong những trường hợp lo sợ thái quá, thuốc men được coi là hình thức trị liệu cần thiết. Nhưng đối với đa số, lo âu và sợ sệt trong đời sống thường nhật không cần đến sự trợ lực của dược lý. Các chuyên gia trong lãnh vực này thường cho rằng một khuynh hướng đa dạng là biện pháp hữu hiệu nhất. Trước hết, khuynh hướng này loại bỏ ý niệm cho rằng những điều kiện y học là nguyên nhân của cảm giác lo sợ. Các hoạt động nhằm cải thiện thể lực như ăn uống điều độ hay tập thể dục cũng rất hữu ích. Và như đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh, phát triển từ ái và gia tăng mối liên hệ với tha nhân cũng giúp phát triển một tâm hồn lành mạnh, đồng thời giúp chúng ta dễ dàng đối phó với cảm xúc lo âu.

Tuy nhiên, trong số những sách lược được đề ra để khắc phục lo sợ, kỹ thuật có hiệu năng vượt trội là sự can thiệp bằng nhận thức. Đây là phương pháp được đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến nhiều nhất trong việc chế ngự cảm xúc lo âu và sợ hãi trong đời sống hàng ngày. Cũng như phương thức được dùng để vượt qua giận dữ và thù hận, kỹ thuật này gồm những phương pháp tích cực để thử thách những ý tưởng vốn là nguyên do của lo sợ rồi kế đó, thay thế chúng bằng các ý tưởng tích cực và thái độ hợp lý.

Bởi tính cách phổ quát của lo âu trong đời sống nhân loại, tôi rất mong được đề cập đến chủ đề này và tìm hiểu xem đức Đạt Lai Lạt Ma đã đối phó ra sao. Ngày hôm ấy đức Đạt Lai Lạt Ma rất bận rộn và tôi cảm thấy nỗi lo lắng tăng lên khi người thư ký của Ngài cho biết rằng buổi nói chuyện có thể bị thâu ngắn lại. Sợ rằng không đủ thì giờ và chúng tôi sẽ không có cơ hội đề cập đến tất cả chi tiết mà tôi muốn bàn thảo, nên vừa ngồi xuống là tôi đã bắt đầu ngay, với hy vọng sẽ tìm ra những giải pháp đơn giản từ đức Đạt Lai Lạt Ma:

“Như Ngài đã biết, lo âu và sợ sệt là những ngăn ngại quan yếu trong việc đạt đến những mục tiêu của con người, bất kể chúng là nội tại hay ngoại vi. Trong ngành tâm lý trị liệu, chúng tôi có rất nhiều phương cách để ứng phó với cảm xúc này, nhưng tôi muốn biết, theo quan điểm của Ngài, biện pháp nào được coi là hữu hiệu nhất?”

Làm như không để tâm đến ý muốn đơn giản hóa vấn đề của tôi, đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời với một khuynh hướng bao quát rất đặc trưng của Ngài:

“Trong việc đối phó với lo sợ, tôi nghĩ là trước hết, chúng ta nên hiểu rằng cảm giác này có nhiều hình thức. Một số là do những lo sợ thực sự với những lý do vững chắc như bạo động, đổ máu chẳng hạn. Ai cũng đồng ý rằng đây là những chuyện xấu xa. Rồi đến những cảm giác như lo âu về những hậu quả về lâu về dài phát xuất từ các hành động tiêu cực của chúng ta, lo sợ bị khổ não và những cảm giác tiêu cực như giận dữ. Theo tôi thì đây là những lo ngại đúng đắn, những sợ hãi khiến chúng ta đi theo con đường trung chính, giúp chúng ta trở nên nồng hậu, nhiệt thành.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại một lúc như để suy ngẫm rồi nói tiếp với vẻ trầm ngâm: “Dù lo sợ có những hình thái khác nhau, tôi nghĩ rằng có một sự khác biệt nào đó giữa cảm giác lo sợ và sự nhận thức về những hậu quả tàn khốc của những hành động có tính cách hủy hoại.” Đức Đạt Lai Lạt Ma lại ngưng một lúc lâu và hình như Ngài cố ý như vậy trong khi tôi liếc trộm đồng hồ tay. Rõ ràng là Ngài không nôn nóng như tôi và sau cùng, đức Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp với một phong thái thoải mái: “Ngoài ra, một số những hình thức sợ hãi khác là do tâm thức chúng ta tạo ra. Thí dụ như trạng thái lo sợ của trẻ con.” Đức Đạt Lai Lạt Ma cười: “Khi còn bé, lúc phải đi qua những chỗ tối, đặc biệt là những căn phòng không có ánh sáng trong Patola, chúng tôi đều khiếp đảm. Thật sự thì đây chỉ là những phóng chiếu tâm lý. Những người dọn dẹp phòng ốc và những người bảo dưỡng tôi vẫn thường dọa rằng có một con cú lúc nào cũng canh chừng để ăn thịt trẻ con và tôi đã thực lòng tin là có thật[2]” Đức Đạt Lai Lạt Ma cười lớn hơn… “Có những loại sợ hãi chỉ do tâm lý chúng ta phóng chiếu ra như trường hợp người ta có những cảm xúc tiêu cực. Do trạng thái tâm lý của mình, chúng ta phóng chiếu những cảm xúc này lên người khác, rồi chúng ta cho rằng người ấy tiêu cực, thù nghịch và hậu quả là chúng ta cảm thấy sợ hãi. Theo tôi thì những hình thức lo sợ này hoàn toàn do tâm trí tưởng tượng ra và thường có liên hệ đến thù hận. Do vậy mà muốn đối phó với sợ hãi, chúng ta phải suy xét rồi phân loại xem những cảm xúc này có căn bản vững chắc hay không.

Tôi hỏi: “Thông thường thì người ta không có những sợ hãi quá đáng về một cá nhân hay một hoàn cảnh nào đó, nhưng đa số chúng ta bị ám ảnh bởi những lo âu rất phổ thông và không ngớt trong cuộc sống hàng ngày. Xin Ngài cho biết làm sao để ứng xử với chúng?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Một trong những phương pháp mà cá nhân tôi cho là rất hữu hiệu để giảm thiểu lo sợ là phát huy ý tưởng này: Nếu một hoàn cảnh hay vấn nạn nào đó có thể giải quyết được thì không cần phải lo lắng đến chúng. Nghĩa là nếu đã có biện pháp thì đừng bận tâm làm gì. Thái độ thích ứng nhất là hãy truy tìm các giải pháp. Chú tâm vào việc tìm kiếm giải pháp thay vì ngồi đó mà lo lắng là điều rất hợp lý. Ngược lại, nếu không có giải đáp, không thể nào giải quyết được vấn đề thì cũng không có lý do gì để lo sợ, vì chỉ phí công, vô ích mà thôi. Trong trường hợp này, chấp nhận sự việc càng sớm chừng nào càng khỏe cho chúng ta chừng ấy. Chúng ta phải áp dụng công thức này khi trực diện với những khó khăn vì nếu không, người ta sẽ không làm sao biết được là một vấn nạn có thể hay không thể giải quyết được.”

Tôi ngắt lời đức Đạt Lai Lạt Ma: “Nhưng nếu nghĩ ngợi về sự việc không giúp chúng ta vơi bớt lo âu thì sao?”

“Có thể chúng ta phải suy ngẫm thêm thật nhiều về ý niệm vừa nói và cứ tiếp tục nhắc nhở mình. Cũng nên nói thêm là tuy phương pháp này giúp chúng ta giảm bớt lo âu và sợ hãi nhưng không có nghĩa là chúng luôn luôn đúng với mọi người. Nếu chúng ta phải đối phó với những lo âu không ngớt thì cần phải xét đến từng trường hợp cá biệt. Lo âu có nhiều hình thức khác nhau và nhiều nguyên nhân khác nhau. Có loại do các nguyên nhân sinh học như mồ hôi tay chẳng hạn. Theo y lý Tây Tạng thì chứng này là do sự thiếu quân bình của các năng lực tiềm ẩn. Hoặc trầm cảm cũng thế. Và những triệu chứng này có thể trị liệu bằng dược phẩm. Cho nên phải tìm hiểu nguyên nhân của những cảm xúc lo âu này nếu muốn chữa trị một cách hiệu quả. Do vậy, lo âu và sợ hãi có nhiều dạng khác nhau. Một cảm xúc lo sợ thông thường mà rất nhiều người mắc phải là không cảm thấy thoải mái trước đám đông, hoặc sợ bị người ta chế nhạo, coi thường mình.”

Tôi hỏi: “Có khi nào Ngài bị vướng vào tình trạng này không?” Đức Đạt Lai Lạt Ma phá lên cười và trả lời không một chút do dự: “Có chứ, có chứ …”

“Xin Ngài cho một ví dụ?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Vào năm 1954, tôi có dịp hội kiến với chủ tịch Mao Trạch Đông và trong một dịp khác, với Thủ tướng Chu Ân Lai. Vào lúc đó, tôi không biết nhiều về các nghi thức ngoại giao và hội đàm. Trong những dịp như thế, thông thường thì người ta nói chuyện xã giao với nhau trước rồi dần dà chuyển hướng câu chuyện vào mục tiêu chính của buổi họp. Lúc ấy, phần vì không biết phần vì nôn nóng, nên vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào vấn đề chính của nghị trình.” Đức Đạt Lai Lạt Ma lại cười thoải mái với kỷ niệm này. “Sau buổi họp, một thông dịch viên Cộng sản người Tây Tạng, vốn là một người bạn khá thân của tôi, mới nói cho tôi biết và chế nhạo tôi quá chừng! Ngay bây giờ cũng vậy, đôi khi tôi vẫn cảm thấy không mấy bình tâm trước những buổi nói chuyện với công chúng khiến nhiều người đã nói với tôi rằng nếu vậy thì tại sao tôi lại nhận lời mời đi diễn thuyết?”

Tôi hỏi tiếp: “Như vậy thì cá nhân Ngài đã ứng xử với cảm xúc lo sợ như thế nào?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp bằng một giọng không mấy thoải mái: “Tôi cũng không biết nữa …”

Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc lâu và đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ suy ngẫm về vấn đề này một cách khá cẩn trọng. Sau cùng, Ngài nói: “Tôi nghĩ rằng con người có thể khắc phục được cảm giác lo âu và sợ hãi nếu chúng ta có sự thành thật cộng với một động lực chính đáng.

Giả như trước buổi diễn thuyết, nếu không cảm thấy yên tâm, tôi sẽ tự nhủ rằng mục đích chính yếu của buổi nói chuyện là vì lợi dưỡng cho mọi người về một phương diện nào đó chứ không phải để tôi có dịp khoa trương. Nếu chuyện gì tôi biết thì tôi sẽ giải thích rõ ràng và chuyện gì tôi không thấu đáo, tôi sẽ ngay thật trả lời rằng tôi không rõ. Chẳng có gì phải làm bộ dấu giếm hay giả vờ. Với một viễn tượng và động lực như thế (vì lợi ích cho người chứ không phải cho mình) tôi không ngại rằng sẽ làm trò cười cho thiên hạ hay sợ người ta coi thường mình. Tôi khám phá ra rằng một động lực chân chính là phản đề giúp chúng ta vơi bớt lo âu và sợ hãi.

“Nhưng đôi khi, cảm giác lo âu không chỉ đơn giản là sợ làm trò cười trước mặt người khác. Nó còn bao gồm cả ý tưởng sợ thất bại, cảm tưởng vô năng …” Tôi ngưng lại và cố tìm cách trình bày những ý tưởng cá nhân của mình. Đức Đạt Lai Lạt Ma nghe tôi với vẻ chăm chú và yên lặng gật đầu trong khi tôi nói. Tôi không chắc rằng thái độ này có nghĩa gì, có thể là thói quen thông cảm với người khác của Ngài; nhưng trước khi tôi hiểu ra thì câu chuyện đã chuyển hướng từ những bàn luận tổng quát đến cảm giác lo âu và sợ hãi của riêng tôi:

“Tôi không biết nữa … thí dụ như đôi khi, một vài bệnh nhân của tôi … rất khó mà chữa trị cho họ vì không đơn thuần và giản dị là một trường hợp trầm uất hay những bịnh lý thông thường mà dược phẩm có thể được sử dụng một cách dễ dàng. Nhiều người bị mất quân bình trầm trọng về bản năng đến nỗi thuốc men trở thành hoàn toàn vô hiệu quả, hoặc không mảy may phản ứng dù tôi đã áp dụng tất cả các phương thức của ngành tâm lý trị liệu. Nhiều lúc tôi chẳng biết phải làm sao đối với những người này, không biết làm sao để giúp họ. Hình như tôi không động chạm được đến những gì đang hành hạ họ, và cảm tưởng này làm tôi trở nên bất động, vô năng … Đây là nguyên nhân đã gây tạo ra cảm giác lo âu và sợ hãi trong tôi.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma nghe tôi với tất cả sự chú tâm rồi hỏi lại bằng một giọng rất ưu ái: “Liệu anh có cho rằng anh đã giúp được khoảng 70% những người đã đến với anh không?”

Tôi đáp: “Vâng, ít nhất là khoảng đó”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhẹ nhàng vỗ lên tay tôi và nói: “Vậy thì không có vấn đề gì ở đây cả. Nếu chỉ chữa trị được độ 30% số bệnh nhân thì anh mới nên tìm cách sửa đổi phương pháp làm việc. Trường hợp anh như vậy là hay lắm rồi. Người ta cũng tìm đến tôi với ước vọng được cứu giúp. Nhiều người nghĩ rằng tôi có phép lạ, trị được những bệnh nan y … và dĩ nhiên là tôi đâu có làm được những chuyện đó? Nhưng vấn đề là có được một động lực chân chính và nếu động lực này là nguyên nhân đã thúc đẩy chúng ta hành động thì hãy cố hết sức mình chứ chẳng quan tâm đến thành hay bại.

“Nhiều khi tôi gặp những trường hợp vô cùng tế nhị hay nghiêm túc với trách nhiệm quá tầm cỡ. Khi mọi người đặt quá nhiều kỳ vọng và tin tưởng vào tôi, tôi cảm thấy có nhiều chuyện vượt quá tầm tay và đây là những trường hợp mà tôi cảm thấy lo lắng; và tôi chỉ còn cách là trở lại với động lực của chính tôi rồi cố thực hiện với tất cả khả năng và lòng thành. Làm việc với một động lực chân chính, với từ tâm thì dù có thất bại hay lầm lỗi, người ta cũng không có lý do để hối hận. Vì rằng nếu đã tận lực mà vẫn không thành công thì đấy là vì hoàn cảnh đã quá tầm tay, quá giới hạn của mình. Cho nên động lực chân chính làm chúng ta vơi đi nỗi lo âu đồng thời gây tạo lòng tự tin. Ngược lại, nếu động lực là để lừa gạt người khác thì khi thất bại, chúng ta sẽ rất sợ hãi, lo âu và ân hận.

“Cho nên một động lực chân chính có khả năng che chở chúng ta khỏi cảm giác lo âu và sợ hãi. Trên một bình diện nào đó, tất cả mọi hành động của con người đều nhắm đến một xu hướng và sức bật phía sau những hành động này là động lực của mỗi người. Nếu khai triển được một động lực chân chính và thuần khiết, nếu được thúc đẩy bởi ước vọng giúp đỡ tha nhân trên căn bản từ ái, vị tha, tôn kính thì dù bất cứ công việc gì và thuộc bất cứ lãnh vực nào, chúng ta cũng hành động hữu hiệu hơn, không bị cảm giác lo âu hay sợ hãi xâm chiếm, cũng không ngại thiên hạ khen chê và ngay cả việc có đạt được mục tiêu tối hậu hay không cũng chẳng làm chúng ta quan ngại. Rất nhiều người không đạt được ước vọng nhưng vẫn vui vẻ hân hoan vì đã hết lòng cố sức và ngược lại, với ý đồ bất chính, nhiều khi đã đạt được mục tiêu, được thiên hạ tán dương ca ngợi, người ta vẫn không yên ổn trong lòng”.

Khi bàn luận đến đối lực của lo âu, đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra hai phương thức, mỗi phương thức có hiệu lực trên một bình diện khác nhau. Phương thức thứ nhất nhằm chống lại ưu tư và lo sợ mãn tính một cách hữu hiệu bằng cách áp dụng một tư tưởng phản đề: Tự nhắc nhở mình rằng nếu có một giải pháp cho vấn nạn thì chẳng cần phải ưu tư, còn nếu không có cách nào giải quyết thì ưu tư cũng chẳng ích lợi gì!

Phản đề thứ hai có một hiệu lực bao quát hơn, nó chuyển hóa động lực căn để của chúng ta. Có một sự tương phản thích thú giữa quan điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma và quan điểm của khoa học cũng như môn tâm lý Tây phương. Như chúng ta đã đề cập trước đây, những nhà nghiên cứu về động lực thúc đẩy hành động của con người đã tìm hiểu những động lực và nhu cầu thông dụng vừa do bẩm sinh vừa bởi kinh nghiệm. Ở mức độ này, đức Đạt Lai Lạt Ma đã chú tâm vào sự phát triển và sử dụng những động lực do học hỏi mà có để phát huy nhiệt tình và quyết tâm của mỗi người. Về nhiều phương diện, khuynh hướng này có điểm tương đồng với quan niệm của rất nhiều chuyên gia Tây phương cho rằng muốn đạt được ước vọng, quyết tâm và nhiệt huyết là những điều không thể thiếu. Điểm khác biệt là quan niệm của đức Đạt Lai Lạt Ma về việc phát huy nhiệt tình và quyết chí nhắm vào những mục tiêu cao đẹp hơn, đồng thời nhằm hủy diệt những ấn chứng tâm lý tiêu cực chứ không phải để đạt được những thành tựu thế tục như tiền tài hay quyền lực. Và điểm khác biệt trọng đại nhất là trong khi các ‘phát ngôn viên của động lực tâm lý nhân loại’ đang bận rộn để làm nguội bớt cường độ của những động lực vốn đã có sẵn về lợi lộc vật chất và các lý thuyết gia Tây phương đang bù đầu trong việc xếp loại những động lực này thì đức Đạt Lai Lạt Ma lại chú tâm vào việc cải biến và tái tạo những động lực căn để này nhằm vào từ tâm và thân ái.

Trong hệ thống huấn luyện tâm thức để đạt được hạnh phúc của đức Đạt Lai Lạt Ma, càng đến gần những động lực vị tha xả kỷ, người tà càng bớt đi lo âu sợ hãi ngay cả trong những hoàn cảnh kích động nhất. Nhưng nguyên tắc này cũng có thể được áp dụng vào các lãnh vực nhỏ bé hơn, ngay khi động lực của chúng ta không hoàn toàn vì từ ái. Chỉ cần lui lại để nhìn cho rõ, rồi cầm chắc là chúng ta không gây tạo thương tổn cho ai, rằng động lực của chúng ta là chân thật thì cũng đủ để giúp con người vơi bớt những lo âu trong cuộc sống thường ngày.

Sau buổi đàm luận này với đức Đạt Lai Lạt Ma không bao lâu, tôi có dịp ăn trưa với một nhóm người trong đó có một người trẻ mà tôi chưa từng gặp mặt, anh ta là một sinh viên đại học tại địa phương. Trong buổi ăn, một người bạn hỏi tôi về những buổi gặp gỡ với đức Đạt Lai Lạt Ma, và tôi nhắc lại những điều đã được đề cập đến việc khống chế cảm giác băn khoăn lo lắng. Sau khi yên lặng nghe tôi trình bày ý niệm ‘động lực chân chính là phản đề của lo âu’, cậu sinh viên đã thú nhận rằng anh ta đã khốn đốn rất nhiều về cảm giác này trong những dịp gặp gỡ công cộng … Trong khi nghĩ cách làm sao để ứng dụng kỹ thuật này nhằm chế ngự cảm giác lo sợ của mình, cậu sinh viên nói như thì thầm: “Vâng, thật là rất thú vị. Nhưng điểm khó là làm sao để lúc nào cũng giữ được cái động lực cao quý đầy vị tha và từ ái này.”

Tôi chấp nhận: “Tôi cho rằng điều đó rất đúng”.

Chúng tôi nói qua những đề tài khác và kết thúc buổi ăn trưa. Một tuần sau tôi tình cờ gặp lại anh sinh viên này tại tiệm ăn cũ. Anh ta chào hỏi tôi rất niềm nở và nói: “Bác sĩ có nhớ buổi ăn trước đây mà chúng ta đã nói chuyện về động lực tinh thần và cảm giác lo sợ? Tôi đã cố gắng tập luyện và đã thành công! Có một cô gái làm việc cho cửa hàng bách hóa trong khu buôn bán. Tôi thấy cô ta nhiều lần và muốn mời cô ấy đi chơi. Nhưng tôi không quen cô ta và vì nhút nhát nên không làm sao gợi chuyện được. Tuần rồi tôi lại đi vào cửa hiệu, nhưng lần này tôi nghĩ đến động lực chính đáng trong việc mời cô ấy đi chơi. Động lực ấy dĩ nhiên là một cuộc hẹn hò nhưng hơn thế nữa, tôi muốn có một người để yêu và yêu lại tôi. Khi nghĩ đến chuyện ấy tôi thấy không có gì sai trái cả, động cơ thúc đẩy tôi làm quen với cô ấy là đúng đắn và thành thật. Tôi không có ý định gây thương tổn cho cô ấy hoặc chính tôi; chỉ toàn là hảo ý! Giữ vững ý tưởng đó trong lòng, tự nhắc nhở và trấn tĩnh mình đã khiến tôi có đủ can đảm nói những lời đầu tiên với cô ấy. Tim tôi cũng đập loạn xạ cả lên nhưng tôi cảm thấy hân hoan vì đã trấn áp được cảm giác e thẹn ngượng ngùng để gợi chuyện. “

“Rất mừng cho anh! Thế rồi sau đó ra sao? ” Tôi hỏi.

“Sau khi nói chuyện, tôi được biết là cô ấy đã có bạn trai. Tôi thất vọng một chút nhưng cũng xong. Tôi hãnh diện vì đã chế ngự được tính nhút nhát của mình. Tôi nhận ra rằng nếu mình không có tâm địa xấu xa sai quấy thì lần tới, tôi có thể may mắn hơn trong hoàn cảnh tương tự”.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.