Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân

Tên tục của tôi là Trai. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Lương. Cha tên Ngọc Đường, mẹ tên Nhan Thị. Năm đầu đời nhà Thanh, cha làm quan tại tỉnh Phú Kiến. Năm mậu tuất và kỷ hợi làm quan tại châu Vĩnh Xuân.

Cha mẹ đã ngoài bốn mươi mà chưa có mụn con. Mẹ ra ngoài thành nơi chùa Quán Ấm mà cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan nơi thành không ai sửa chữa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả cha lẫn mẹ đều nằm mơ thấy một vị mặc áo xanh, tóc dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Ấm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên trên giường. Mẹ kinh sợ, giật mình thức dậy, liền thọ thai. Cuối năm đó cha đi nhậm chức tại phủ Nguyên Châu.

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 20, 1 tuổi. (1840/41)

Tháng bảy ngày hai mươi, giờ dần, tôi ra đời tại phủ Tuyền Châu. Lúc ấy thân được bao bọc bởi một bọc thịt. Mẹ thấy vậy, kinh hãi vô cùng, nghĩ từ đây về sau chắc sẽ không còn hy vọng sanh con được nữa, nên buồn uất khí mà chết. Hôm sau, có ông lão bán thuốc đến cắt bọc thịt, bồng tôi ra. Kể từ đó được bà kế mẫu, Vương Thị, chăm sóc nuôi nấng.

(Đại sự trong năm: Chiến tranh nha phiến bùng nổ. Đề Đốc Tùng Đáo Từ cấm nha phiến. Đốt cháy kho nha phiến của người Anh. Nước Anh đem quân vào Quảng Đông)

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ hai 22, 3 tuổi. (1842/43)

(Đại sự trong năm: Hòa ước Giang Kinh, mở năm cửa khẩu để thông thương cùng nước ngoài. Cắt Hồng Kông cho nước Anh.)

Đời nhà Thanh, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 30, 11 tuổi. (1850/51)

Cha trở về Tuyền Châu. Được chú nhận làm con nuôi, nên bà nội, Châu Thị, định cưới hai cô vợ cho tôi, tức Điền Thị, và Đàm Thị. Cả hai đều là người tỉnh Hồ Nam, dòng dõi quan liêu tại Phúc Kiến, đời đời đã từng làm bạn thông giao với dòng họ tôi.

Đông năm ấy bà nội tôi qua đời. Cha thọ tang.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn khởi nghĩa tại Kim Điền)

Hàm Phong nguyên niên, 12 tuổi. (1851/52)

Tháng hai, tôi cùng cha đi Đài Loan. Lên thuyền nhỏ ra biển, từ cửa Hạ Môn xuất phát. Lúc đang lênh đênh trên biển cả, bỗng đâu hiện ra một quái vật, lớn như núi, cao hơn mặt biển cả vài chục thước. Tất cả người trên thuyền thảy đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm. Thuyền chạy khoảng nửa giờ sau thì thấy đuôi cá khổng lồ, dài không biết cả mấy trăm thước.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn vây hãm Vĩnh An, xưng Thái Bình Thiên Quốc Thiên Vương)

Hàm Phong năm thứ 2, 13 tuổi. (1852/53)

Tôi theo cha đưa linh cữu bà nội trở về huyện Tương Lương an táng. Thỉnh chư tăng đến nhà làm Phật sự. Được thấy pháp khí Tam Bảo, tâm sanh vui mừng. Tạng sách trong nhà có kinh Phật. Lúc đầu xem truyện Hương Sơn, sự tích thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Ấm, liền thâm nhiễm vào tâm. Tháng tám, theo chú đi Bồ Đường, hành hương ở Nam Ngạc. Đi lễ khắp các chùa, dường như có duyên xưa nên không muốn trở về nhà. Nhưng vì chú quá nghiêm nghị, nên không dám nói.

Hàm Phong năm thứ 3, 14 tuổi. (1853/54)

Cha biết tôi có chí xuất trần nên muốn dùng lợi lạc thế gian mà lưu giữ ở lại, bằng cách mời một vị tiên thiên đại đạo, Vương tiên sinh, đến dạy cách tu hành tại nhà. Vị này dạy đọc các sách đạo lão cùng luyện nội ngoại khí công. Tuy tâm tôi không muốn học, nhưng lại không dám nói. Mùa đông, cha giải tang bà nội xong, giao tôi cho chú dạy dỗ, coi sóc, rồi một mình đi Phúc Kiến để nhận chức tại Hạ Môn.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn đóng đô tại Nam Kinh. Tăng Quốc Phiên làm tướng quân.)

Hàm Phong năm thứ 6, 17 tuổi. (1856/57)

Tôi học sách đạo giáo tại nhà trong ba năm, chịu nhẫn hết sức, như ngồi trên bàn đinh. Lại giả vờ làm cho chú vui, nên giúp việc nấu nướng trong nhà, nhưng rất biếng nhác. Ngày nọ, thừa lúc chú đi ra ngoài, tôi nghĩ thời điểm rời nhà đã đến nên xách bị trốn đi Nam Ngạc. Có rất nhiều đường lớn nhỏ, khó đi. Giữa đường, bị người nhà bắt đưa trở về Tuyền Châu. Cùng đi có người em họ tên là Phú Quốc. Chẳng bao lâu, cha cho tiếp rước hai cô họ Điền và Đàm để cử hành hôn lễ. Thế là tôi bị cấm cố tại nhà. Tuy cùng hai cô vợ ở chung nhà nhưng không nhiễm tình dục. Tôi giảng Phật Pháp cho hai cô vợ nghe. Họ cũng hiểu rõ. Thấy người em họ Phú Quốc cũng có chí xuất tục nên đồng học Phật pháp. Nơi phòng riêng hay nhà khách, chúng tôi đều là bạn đạo thanh tịnh. 

Hàm Phong năm thứ 8, 19 tuổi. (1858/59)

Tôi quyết chí ly tục. Phú Quốc cũng đồng chung chí hướng. Chúng tôi bí mật xem lộ trình đến Cổ Sơn ở Phước Châu. Tôi làm bài ca Túi Da để lưu biệt hai cô họ Điền và họ Đàm. Sau đó cùng Phú Quốc trốn đi đến chùa Dõng Tuyền, Cổ Sơn, Phước Châu. Lễ lão hòa thượng Thường Khai làm thầy xuống tóc.

(Đại sự trong năm: Liên quân Anh Pháp vây hãm Đại Cô. Ký kết hòa ước Thiên Tân.)

Hàm Phong năm thứ 9, 20 tuổi. (1859/60)

Tôi theo hòa thượng Diệu Liên ở Cổ Sơn thọ giới cụ túc, pháp danh là Cổ Nham, cùng Diễn Triệt tự Đức Thanh. Lúc ấy, cha tại Tuyền Châu sai người đi khắp nơi để tìm tôi. Sau khi thọ giới cụ túc xong, Phú Quốc hành cước tham phương tầm thầy học đạo. Từ đó, không còn biết tông tích chi nữa. Tôi ẩn tại một hang động sau núi, lễ sám vạn Phật, không dám lộ diện. Lúc ấy thường gặp hổ sói, nhưng tâm không sợ sệt.

Đồng Trị nguyên niên, 23 tuổi. (1862/63)

Tại hang núi tôi lễ sám, đã mãn ba năm. Ngày nọ, vị chức sư ở Cổ Sơn lên cho hay rằng cha tôi nơi Tuyền Châu đã từ quan về hưu. Tôi không cần phải trốn lánh nữa. Lão hòa thượng Diệu Liên rất khen tôi hằng tâm tu khổ hạnh. Nhưng tu huệ cũng cần phải tu phước, phải nên trở về núi nhậm chức, làm việc. Sau đó, tôi liền trở về núi, nhận công việc.

(Đại sự trong năm: Quân Thường Thắng đánh bại quân Thái Bình. Việt Nam cắt miền Nam cho Pháp.)

Đồng Trị năm thứ 3, 25 tuổi. (1864/65)

Nhậm chức tại Cổ Sơn. Mùa đông, tháng mười hai, nghe tin cha vì bịnh nên đã qua đời tại huyện Tương Lương. Từ đó, không còn hỏi thăm tin tức gia đình, thư từ cũng không liên lạc.

(Đại sự trong năm: Hồng Tú Toàn uống thuốc độc tự tử. Thái Bình Thiên Quốc tan rã.)

Đồng Trị năm thứ 5, 27 tuổi. (1866/67)

Có người đồng hương đến cho hay rằng sau khi cha tôi mất, kế mẫu Vương Thị dẫn hai cô con dâu đi xuất gia làm ni sư. Bà Vương Thị với pháp danh là Diệu Tịnh. Cô Điền Thị pháp danh là Chân Khiết. Cô Đàm Thị pháp danh là Thanh Tiết.

Tôi nhậm chức tại Cổ Sơn đã mãn bốn năm. Công việc của tôi lúc ấy là nấu cơm, làm vườn, hành đường, điển tọa. Tất cả việc đều cực nhọc, nhưng không phiền lòng. Trong chùa, những khi phân phát đồ cúng dường cho chư Tăng, tôi đều không nhận lấy. Mỗi ngày chỉ ăn một bát cơm mà sức khoẻ vẫn tráng kiện. Lúc đó, trên núi có thiền sư Cổ Nguyệt, là vị tu khổ hạnh bậc nhất trong chúng. Tôi thường đàm đạo với Ngài. Nghĩ lại, đã nhậm chức mấy năm mà việc tu trì không có chút phần tiến bộ. Lại nhớ xưa kia, pháp sư Huyền Trang, mười năm trước khi qua Ần Độ thỉnh kinh, tự học ngôn ngữ Ần Độ, tập mỗi ngày đi trăm dặm, và nhịn ăn. Mới đầu một ngày rồi lần lần lên đến mười ngày, để chuẩn bị cho sau này phải đi qua những bãi sa mạc hoang vu, tuyệt không cỏ nước. Việc khổ hạnh của các bậc cổ đức là như thế. Tôi là người gì, sao lại không hành theo gương người xưa? Thế nên, tôi xin từ chức các công việc trong chùa, chia hết các vật dụng tư nhân, chỉ mang theo một y, một bát, một đôi vớ, một tấm bồ đoàn, một cái nón lá, rồi trở lại hang động trong núi mà tu hành.

Đồng Trị năm thứ 8, 30 tuổi. (1869/70)

Ba năm ở hang núi. Khi ấy, tôi sống rất đơn giản. Đói ăn đọt tùng lá dại, khát uống nước suối. Giày vớ ngày càng rách nát, chỉ còn lại một chiếc áo tràng che thân. Đầu quấn theo quyền Kim Cang, tóc dài cả mấy thước, đôi mắt sáng rực. Người ở xa nhìn thấy tưởng là yêu quái, đều bỏ chạy cả. Tôi cũng chẳng cùng người nói chuyện.

Ba năm đầu, lắm khi thấy cảnh giới tốt, mà không tự cho là kỳ lạ. Một lòng quán chiếu cùng niệm Phật. Trong hang sâu núi thẳm, hổ sói rắn trùng không hại. Không nhận sự thương hại, không ăn thức ăn nấu chín của người thế gian. Ngữa mặt nhìn trời, muôn sự đều nằm trong thân. Tâm rất an lạc, như vị trời ở cõi tứ thiền. Nghiệm biết, tai hoạn của thế nhân đều do thân miệng ý gây ra.

Cổ nhân nói rằng âm thanh của một bình bát vang xa hơn cả muôn ngàn tiếng chuông. Nay, tôi một bình bát cũng chẳng có, nên tự tại không ngại. Sức khỏe ngày càng tráng kiện. Tai mắt ngày càng tinh thông linh lợi. Đi nhanh như bay. Tự hỏi mình không biết sao được như thế! Tùy ý thích, có núi thì ở, có lá dại thì ăn. Đi từ nơi này sang nơi khác, như thế một năm trôi qua mà chẳng biết.

Đồng Trị năm thứ 9, 31 tuổi. (1870/71)

Ngày nọ, khi dừng chân nơi một ngọn núi ở Ôn Châu, thì bỗng đâu từ xa một thiền sư đi đến, đảnh lễ và hỏi: “Lâu nghe hạnh cao của Thầy, nên nay đến cầu xin chỉ dạy.”

Nghe thế, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ, liền đáp: “Tri thức ngu muội, thiếu sự tham học; ngưỡng vọng Thượng Tọa từ bi chỉ dạy.”

Hỏi: “Thầy hành hạnh này, đã bao nhiêu năm rồi?”

Tôi liền thuật lại những việc đã xảy ra trong những năm sống trong rừng núi.

Vị ấy bảo: “Tôi cũng chỉ tham học đôi chút, không thể chỉ dẫn gì được. Thầy nên đến núi Thiên Thai, Hoa Đảnh, am Long Tuyền, thỉnh vấn lão pháp sư Dung Cảnh. Vị ấy là người có đạo đức nhất ở núi Thiên Thai. Tất nhiên, sẽ chỉ những điều ích lợi cho Thầy.”

Nghe thế, tôi đi thẳng đến Hoa Đảnh ở núi Thiên Thai. Vừa đến một am tranh liền gặp một vị tăng, nên tiện dịp hỏi thăm chỗ của lão pháp sư Dung Cảnh.

Đáp: “Vị tăng mặc áo vá đằng kia là Ngài đó.”

Tôi liền đi thẳng đến và đảnh lễ. Lão pháp sư chẳng màng quay đầu lại. Tôi liền bạch: “Con nay đến đây hầu mong thân cận lão Pháp Sư. Vọng cầu vì lòng từ bi mà chiếu cố đến con.”

Pháp Sư xoay mình lại, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi: “Ông là Tăng, là đạo sĩ, hay là người thế tục?”

Đáp: “Con là Tăng.”

Hỏi: “Thọ giới cụ túc chưa?”

Đáp: “Bạch Pháp Sư! Con đã thọ giới rồi.”

Hỏi: “Ông tu hành với hình dạng như thế này lâu mau rồi?”

Tôi liền lược thuật lại sự tu hành của mình trong những năm vừa qua.

Hỏi: “Ai dạy ông tu như thế?”

Đáp: “Bạch Pháp Sư! Nhân thấy người xưa, ai nấy đều tu hành khổ hạnh mới đắc đạo, nên con cố học theo.”

Đáp: “Ông chỉ biết người xưa tu thân. Vậy ông có biết người xưa tu tâm như thế nào không? Thấy hình thể tu hành của ông như vầy, thật gần với ngoại đạo, chẳng phải là chánh đạo, uổng phí công phu tu hành cả mười năm. Ở rừng sâu núi thẳm, ăn đọt tùng uống nước suối, thọ mạng được trăm ngàn năm, bất quá chỉ là một trong mười loại tiên nhân như trong kinh Lăng Nghiêm thôi, cách đạo rất xa. Tiến lên một bước nữa là chỉ chứng được sơ quả, tự giải thoát. Nếu có tâm Bồ Tát, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, tự độ cùng độ người, tu đạo xuất thế gian nhưng không rời pháp thế gian. Ông miễn cưỡng không ăn cơm, mặc quần không đáy, chưa nói là làm bộ khác thường kỳ dị; công phu quái dị như vầy mà năng thành phiến sao?”

Tôi bị lão Pháp Sư đánh một dùi như thế, đau nhức xương, nên đảnh lễ Ngài cầu chỉ dạy.

Pháp Sư nói: “Tôi dạy ông, nếu nghe thì ở lại, còn không nghe thì nên đi nơi khác.”

Đáp: “Bạch Pháp Sư! Con đến đây mong được thân cận gần gũi Ngài. Sao lại dám không nghe lời chỉ dạy!”

Lão Pháp Sư liền cho áo quần, rồi bảo đi cạo đầu, tắm gội sạch sẽ, phân công làm việc trong chùa. Lại dạy khán câu thoại đầu: ‘Ai là người đang mang thây chết này?’

Từ đó, tôi ăn cơm cháo lại, cũng học giáo quán của tông Thiên Thai. Siêng năng tu học làm việc nên được Pháp Sư khen ngợi.

Đồng Trị năm thứ 10, 32 tuổi. (1871/72)

Tại am Long Tuyền, hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh, tâm được khai mở nhiều. Pháp Sư tuổi ngoài tám mươi, giới luật tinh nghiêm, tông giáo đều thông. Nhiều lần, Pháp Sư bảo tôi lên tòa giảng kinh cho những vị khách tăng đến am tham học.

Đồng Trị năm thứ 11, 33 tuổi. (1872/73)

Nghe theo lời dạy của Pháp Sư, tôi đến chùa Quốc Thanh tham học quy chế thiền môn và cũng đến chùa Phương Quảng học kinh Pháp Hoa.

Đồng Trị năm thứ 13, 35 tuổi. (1874/75)

Trên hai năm, học kinh giáo tại chùa Quốc Thanh, đôi khi cũng trở về am tranh, tham vấn hầu cận lão pháp sư Dung Cảnh.

Quang Tự nguyên niên, 36 tuổi. (1875/76)

Đến chùa Cao Minh nghe pháp sư Mẫn Hi giảng kinh Pháp Hoa. Xong, liền từ biệt lão pháp sư Dung Cảnh, không thể không lưu luyến. Đàm thoại cùng Ngài suốt cả mấy đêm. Sau đó trân trọng cáo biệt.

Xuống núi, đi ngang qua Tuyết Đậu, đến chùa Nhạc Lâm nghe giảng kinh A Di Đà. Xong, liền vượt biển đi tham bái núi Phổ Đà. Nương ở sau chùa qua năm mới. Lúc ở tại núi Phổ Đà, thường đi tham bái các chùa am tự viện.

Tháng mười, sóng triều đẩy dạt xác một con cá voi đến bãi cát Thiên Bộ. Thân cá dài cả trăm thước; mắt lớn như chậu kiểng. Ngư dân xẻ bụng ra thì thấy bên trong có một chiếc thuyền nhỏ, lại có tóc người cùng vòng xuyến v.v… Lại nữa, lúc sóng triều lên, tại động Triều Dương, hiện ra một con rồng, thân vàng sáng chói. Đuôi rồng cũng dài như đuôi cá voi. Rồng hiện ra như thế hồi sau thì biến mất.

Quang Tự năm thứ 2, 37 tuổi. (1876/77)

Từ núi Phổ Đà, tôi trở lại huyện Ninh Ba, đến chùa A Dục Vương, trả một tháng ba đồng tiền lệ phí ăn uống ngủ nghỉ. Tôi lạy xá lợi Phật hai năm để báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Sau đó, tôi đến chùa Thiên Đồng nghe giảng tông thông kinh Thủ Lăng Nghiêm. Từ Ninh Ba, tôi đi Hàng Châu, triều bái Tam Thiên Trúc cùng các thánh cảnh khác. Nơi Bán Sơn, tôi đến lễ hòa thượng Thiên Lãng cùng vị tăng tri khách Trương Tùng. Tôi ở tại chùa Tây Thiên Mục qua mùa đông. Trên đường từ Ninh Ba đến Hàng Châu thời tiết rất nóng nực. Vì thuyền nhỏ mà người đông, nên thanh niên cùng phụ nữ đều nằm la liệt. Nửa đêm, khi mọi người đang say giấc, tôi cảm giác như có ai đụng đậy thân mình, nên liền tỉnh dậy, thấy bên cạnh mình, một cô gái trần truồng. Tôi không dám nói, vội ngồi dậy, kiết già, trì chú. Cô ấy cũng chẳng dám động đậy. Nếu lúc ấy ngu muội, thì chắc hư bại rồi. Vì việc này, tôi có lời khuyên các vị tu hành rằng không thể không cẩn trọng trong những trường hợp như trên.

Quang Tự năm thứ 4, 39 tuổi. (1878/79)

Tôi đến chùa Thiên Ba, lễ hòa thượng Thanh Quang, rồi ở lại chùa qua đông.

Quang Tự năm thứ 5, 40 tuổi. (1878/79)

Tôi đến Tiêu Sơn lễ hòa Thượng Đại Thủy. Lúc ấy có đề đốc Cung Bảo, Bành Ngọc Đường trú ngụ tại chùa. Ông ta vì mến thích nên thường mời tôi đàm luận Phật Pháp cùng những cách tu hành vài ngày. Càng đàm luận, ông càng sanh thâm tâm cung kính.

Quang Tự năm thứ 6, 41 tuổi. (1880/81)

Tôi đến chùa Kim Sơn để thân cận hòa thượng Quán Tâm, Tân Lâm, Đại Định, v.v… Tọa thiền nơi chùa qua đông.

Quang Tự năm thứ 7, 42 tuổi. (1881/82)

Tôi đến chùa Cao Mân tại Dương Châu, lễ hòa thượng Lãng Huy. Tôi ở lại chùa qua đông. Thiền công rất tiến bộ.

Quang Tự năm thứ 8, 43 tuổi. (1882/83)

Hơn hai mươi năm cắt ái từ thân, xuất gia tu đạo, nhưng đạo nghiệp vẫn chưa thành, mãi phiêu du theo gió nghiệp. Tâm rất xấu hổ. Nay muốn báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, nên định trở lại biển Nam Hải, núi Phổ Đà nơi hướng đông, rồi từ đó đi về hướng bắc núi Ngũ Đài mà lễ bái. Thế nên, tôi đến núi Phổ Đà, ở nơi đấy vài tháng, tu thiền tĩnh tọa; đôi khi thấy vài cảnh giới. Sau đó, tôi phát tâm hành hương triều bái đến núi Ngũ Đài, miền bắc.

Ngày đầu tháng bảy, từ am Pháp Hoa nơi núi Phổ Đà, tôi khởi hương, hành đi ba bước lạy một lạy. Triều bái trực chỉ thẳng đến núi Ngũ Đài. Lúc đó, phụ hương có bốn thiền sư: Biến Chân, Thu Nghi, Sơn Hà, và Giác Thừa. Sau khi qua biển, mỗi ngày hành bộ không nhiều. Giữa đường chúng tôi ngừng tại Hồ Châu. Sau khi đến Tô Châu, Thường Châu, bốn vị tăng đều từ từ thối lui, còn tôi vẫn lễ bái, hành ba bước một lạy. Khi đến Nam Kinh, tôi lễ tháp tổ Pháp Dung Ngưu Đầu. Sau đó, vượt sông, nghỉ tại chùa Sư Tử ỏ Phổ Khẩu qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Pháp chiếm kinh thành Huế, Việt Nam.)

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.