Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân

Dân Quốc năm thứ 8, 80 tuổi. (1919/20)

Mùa xuân, tại Côn Minh tôi lập đàn tràng Thủy Lục Không nơi chùa Trung Liệt Từ. Khi pháp hội vừa khai mở thì chánh quyền ân xá tù tội, cấm nhân dân giết hại loài vật. Trong kỳ hội lễ, họ Đường phái tùy viên đến gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương để bàn việc hòa giải. Sau đó, họ Đường ủy nhiệm cho hai họ Ngô và Dương làm trại trưởng. Từ đó, dân vùng địa phương được sống an ổn. Hai vị họ Ngô và Dương, trung thành trước sau không đổi. Có điều lạ kỳ là khi pháp hội vừa khai mở thì tất cả ánh lửa đèn đuốc đột nhiên biến dạng như hoa sen, màu sắc thay đổi rất nhiều. Chư thiện nam tín nữ, tùy duyên đến xem. Ngày bốn mươi chín, khi pháp hội vừa xong, lúc làm lễ tiển chư Thánh chúng, thì trên trời hiện ra tràng phang bảo cái, bay lẫn trong mây. Nhân dân trong thành thấy rõ, nên quỳ xuống lễ bái. Xong lễ cầu nguyện, họ Đường thỉnh tôi đến nhà tụng kinh cho thân nhân đã mất. Chính ông cũng thấy những điềm lành khác, nên tín tâm càng tăng. Tất cả người trong gia phủ đều thọ giới quy y.

Tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn đổi tên đảng cách mạng Trung Hoa thành Trung Hoa Quốc Dân Đảng.)

Dân Quốc năm thứ 9, 81 tuổi. (1920/21)

Họ Đường vẫn thỉnh tôi làm lễ Thủy Lục Không. Lễ xong, tôi tiếp tục giảng kinh. Chùa Hoa Đình ở Tây Sơn, Côn Minh là một ngôi chùa cổ xưa trong nước. Phong cảnh nơi đây rất đẹp. Trong chùa, không có vị thầy nào trụ trì cả. Bấy giờ, có các thầy trong vùng lại muốn bán chùa cho người Tây Phương để làm câu lạc bộ. Chánh quyền địa phương đã đồng ý phê chuẩn. Tôi rất lấy làm tiếc, nên nói với họ Đường rằng hãy nên cố bảo tồn ngôi chùa cổ kính, thuộc hàng danh lam thắng cảnh trong nước. Họ Đường chấp thuận lời yêu cầu của tôi. Ông bí mật bàn với các vị niên trưởng trong vùng như Vương Cửu Linh, Trương Chuyết Tiên. Họ làm một buổi cơm chay, mời tôi đến dự. Trong lúc dùng cơm, họ dâng lên một thiệp hồng, thỉnh mời tôi làm trụ trì chùa Hoa Đình để trùng hưng lại ngôi chùa này. Họ xưng thỉnh như thế ba lần. Tôi liền chấp nhận.

Cuối mùa đông, họ Đường được thuyên chuyển qua nhậm chức tại Hồng Kông.

(Lời thêm của người biên: Lão hòa thượng Hư Vân đầu tiên trụ trì chùa Ngưỡng Dương, Tây Trúc, tức Hộ Quốc, Chúc Thánh thiền tự. Kế đến, Ngài kiến lập chùa Nhân Thắng ở Côn Minh, chùa Lâu Thiền, chùa Tùng-ẩn ở tỉnh Viên Vân, núi Bích Kê.

Phụ chú: Mùa thu năm đó, tướng Cố Phẩm Trân cùng một số tướng lãnh khác tính đoạt quyền của Đường Kế Nghiêu. Họ Đường có hơn hai mươi sư đoàn, định giao chiến. Ông ta vì cung kính tin tưởng nơi Vân Công nên nửa đêm, thay đồ đổi dạng, đến chùa gặp và cung thỉnh Ngài bàn kế hoạch. Vân Công nói: “Ngài thâu phục được lòng dân tỉnh Vân Nam mà chưa được lòng hết tất cả tướng sĩ. Nếu dùng vũ lực thì khó phân thắng bại giữa hai quân đội, mà người ngoại quốc có thể lợi dụng cơ hội này để xâm chiếm Vân Nam. Tốt nhất là Ngài hãy nên tạm bỏ hư danh để bảo tồn lực lượng, chờ duyên lành ngày sau.”

Họ Đường chấp nhận, nên sau đó giả bộ nhường chức cho Cố Phẩm Trân. Đêm ba mươi tháng chạp, ông bỏ Vân Nam đi qua Việt Nam rồi quay về Hồng Kông. Việc này, khi lược thuật trong quyển biên niên, Vân Công không nói rõ chi tiết. Kẻ biên chép lại quyển biên niên, mười năm trước lúc theo hầu, Ngài đã từng kể chuyện này.)

Năm đó, cư sĩ Trương Chuyết Tiên đem hai con ngỗng đến chùa Vân Lâu để phóng sanh, và thỉnh tôi thuyết giới cho chúng. Trong lúc thuyết giới, hai con ngỗng cúi đầu xuống, im lặng, giống như đang thọ nhận giới pháp. Thuyết giới xong, chúng ngẫng đầu lên, tỏ vẻ vui mừng. Từ đó, chúng thường theo đại chúng đồng lên chánh điện. Đại chúng niệm Phật; chúng lắng nghe. Đại chúng đi nhiễu Phật; chúng cũng đi theo sau nhiễu Phật. Cứ như thế mà không đổi. Người người đều mến thích chúng. Qua ba năm, ngày nọ, con ngỗng cái lên trước chánh điện, vỗ cánh ba lần, ngưỡng đầu lên ngắm nhìn tượng Phật rồi chết, nhưng dạng trạng vây lông vẫn không biến đổi. Sau đó đại chúng đặt nó vào thùng gỗ rồi thiêu. Con ngỗng đực còn lại, kêu rống không ngừng, dạng như không muốn rời xa bạn nó. Nó không ăn uống cả vài ngày, rồi cũng lên chánh điện, đứng ngắm nhìn tượng Phật, trương hai đôi cánh ra, vỗ một lần rồi chết. Đại chúng cũng đặt xác nó vào một thùng gỗ nhỏ để thiêu, cùng đặt tro của hai con ngỗng này chung một chỗ.

Dân Quốc năm thứ 10, 82 tuổi. (1921/22)

Mùa xuân, Cố Phẩm Trân lên làm đô đốc tỉnh Vân Nam. Tháng hai, trời đổ mưa to không ngớt. Trong thành, phải dùng thuyền mà đi. Mỗi ngày, trên lầu các cửa thành, quân lính dùng súng thần công để bắn tan đi những đám mây lớn, nhưng không hiệu quả. Đến cuối tháng bảy, trời lại hạn hán cả vài tháng. Đến mùa đông, nước sông cạn dần cho đến đáy. Nạn hạn hán như vầy, chưa từng xảy ra ở tỉnh Vân Nam. Trong mùa thu, bịnh bạch hầu lan tràn khắp tỉnh, khiến bịnh chết cả ngàn người. Khi ấy, tôi đang trú ngụ tại chùa Hoa Đình (sau đổi tên là Vân Lâu), cùng thượng nhân Câu Hành đồng trụ, gặp năm xấu này, mọi công việc Phật sự đều tạm đình chỉ. Sáng nọ, chúng tôi đồng đi vào thành, đến trưa mới về. Trên đường, lúc tạm dừng chân nghỉ ngơi bên dưới một tàng cây, chúng tôi phát hiện một gói đồ lớn. Mở ra xem thì thấy các đồ vật nữ trang quý báu như vòng xuyến, vàng ngọc, trâm vàng, chuỗi vàng, đồng hồ, tám ngàn đồng tiền tỉnh Vân Nam, hơn chục ngàn tiền nước Pháp. Xem xong, chúng tôi gói lại, ngồi chờ chủ nhân đến nhận. Trời đã chập tối, đường về chùa lại quá xa, nên chúng tôi mang gói đồ này trở về, định hôm sau sẽ trở lại, và đăng báo tìm chủ nhân.

Lúc băng qua sông, sắp đến chân núi, chúng tôi chợt thấy một cô gái vừa nhảy xuống sông, rồi từ từ chìm xuống. Tôi liền nhảy xuống cứu cô ta lên bờ, biết được rằng cô ta muốn tự tử. Chúng tôi dẫn cô ta về chùa, cho y phục cùng thức ăn, nhưng không chịu ăn, chỉ lấy y phục thôi. Chúng tôi ân cần an ủi khuyên nhủ; hồi lâu, cô ta nói rằng cô vốn họ Chu, người Trường Sa, sanh trưởng ở Vân Nam. Mười tám năm về trước, cha bán thuốc tại đường Phúc Xuân trong thành, chỉ sanh được cô. Lớn lên, được viên tướng vùng địa phương họ Tôn, đến nhà cầu hôn với cô, tự nói là chưa vợ, nên cha mẹ cô đều tin tưởng. Hôn lễ xong, đi về nhà chồng thì mới biết được là ông ta đã có vợ. Biết mình bị lừa, thì đã quá trể. Vợ ông tánh khí hung dữ, thường đánh đập cô rất tàn nhẫn. Cha chồng cố hòa giải nhưng vẫn không được. Cha mẹ cô lại sợ thế lực của tướng họ Tôn nên không làm gì được. Cho đến hôm nay, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong. Vì vậy, cô bỏ nhà trốn đi, đem theo một ít tư trang tài vật, muốn đến núi Kê Túc cầu xuất gia với tôi. Do không biết đường đến núi, nên cô ta đi lạc cả hai ngày. Lại bị mất gói đồ, nên cô ta chỉ còn chọn con đường chết. Do đó mới nhảy xuống sông tự tử. Tôi bảo cô ta miêu tả lại những vật dụng đã bị mất. Cô ta kể rõ những vật dụng bị mất, thật đúng như những vật mà chúng tôi đã nhặt được bên tàng cây lớn. Tôi trả lại gói đồ và bảo các thầy trong chùa thuyết đại ý quy y Tam Bảo cho cô nghe. Hôm kế, báo tin cho họ Chu biết. Hai nhà họ Tôn và họ Chu cùng với gia quyến cha mẹ thân thích, cả thảy hơn ba mươi người, đồng đến chùa hòa giải.

Khi ấy, tôi thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó, họ Tôn, chồng lẫn vợ đồng quỳ trước chánh điện, lập thệ sám hối những tội lỗi trước, rồi ôm nhau mà khóc. Người đến thăm chùa rất cảm động. Cả hai họ đều ở lại chùa ba ngày. Trai gái, già trẻ, đều phát tâm quy y Tam Bảo, thọ giới, rồi trở về nhà.

Dân Quốc năm thứ 11, 83 tuổi. (1922/23)

Năm đó, tôi sửa sang lại chùa Hoa Đình (tức chùa Vân Lâu). Phía tây hồ Côn Minh có núi Bích Kê, là nơi vị thái tử thứ hai của vua A Dục ở Ần Độ có ghé qua. Ông thấy một đàn chim phượng hoàng bay ngang qua, nên quyết định ở lại tu hành cần mẫn, rồi đạt đạo, lấy hiệu là Thần Bích Kê, nay cũng chính là tên núi. Các đỉnh núi giống như mái che, sau này được gọi là chùa Hoa Đình. Đời nhà Nguyên có thiền sư Huyền Phong đắc pháp dưới tòa của quốc sư Trung Phong tại Tây Thiên Mục, đến đây khai sáng núi, lấy hiệu là Viên Giác. Người sau lại đổi tên núi là Hoa Đình.

Năm trước, khi ngôi chùa cổ này sắp bán cho người ngoại quốc, tôi liền nói với họ Đường chuộc lại. Sau đó ông thỉnh tôi làm trụ trì, thúc đẩy việc sửa chữa. Dưới lòng đất chùa, đào lên, nhặt được một viên đá cẩm thạch, có khắc chữ “Vân Lâu”, niên đại Nhân Diệt. Đá cẩm thạch được đặt trên tháp Hải Hội của chúng xuất gia. Thái sử họ Trần cúng dường vườn hoa của trường nông lâm nghiệp, mà khi trước, thuộc về khu đất của chùa Thắng Nhân.

Tôi xây hạ viện chùa Vân Lâu nơi đó, lại kiến lập điện đường phòng ốc, cùng sửa chữa chùa Thái Hoa, chùa Tùng-ẩn. Dưới chân núi, xây chùa Chiêu Đề, đổi tên thôn thành thôn Chiên Đề. Sau lưng núi, có một khu rừng rậm, nơi chúng tôi thường đến đốn củi để mang về chùa. Hôm nọ, chợt có người nhặt được một gói đồ lớn, mà trong đó có vàng bạc, cùng hơn hai trăm ngàn đồng. Tôi định đem giao cho chánh phủ để dùng vào việc cứu tế dân nghèo, nhưng đại chúng ngăn cản, bảo là hiện tại chùa đang thiếu thốn, nên giữ lại cho chùa. Tôi bảo: “Theo luật Phật chế thì người xuất gia không được giữ đồ vật rơi rớt. Nay nhặt được mà muốn giữ, tức là phạm giới. Đồ này là vật phi nghĩa, không thể giữ lại cho chùa được. Chư vị có thể đem tiền của mình mà cúng dường Tam Bảo, để trồng vào ruộng phước. Người xuất gia có thể đi hóa duyên nếu cần. Tôi không dám lấy vật nhặt được mà đem vào làm của cho chùa.”

Đại chúng nghe thế, liền đồng ý đem gói đồ này cho chính phủ để cứu giúp dân nghèo.

Hai năm liền, tỉnh Vân Nam liên tiếp bị nạn hạn hán, dân chúng đói rách bịnh khổ. Bịnh bạch hầu lan tràn, khiến vô số người chết. Từ tướng sĩ đến dân chúng, không ai không nghĩ đến ân đức họ Đường, nên cùng nhau bàn luận, thỉnh mời họ Đường trở về Vân Nam nhậm chức đô đốc.

Sau khi trở về nhậm chức, họ Đường đi thẳng đến chùa, thỉnh tôi lập đàn tràng cầu mưa. Tôi thiết lập đàn tràng cầu nguyện. Trong ba ngày, trời đổ mưa to, (lúc ấy là tháng năm, không phải mùa mưa), nhưng bịnh bạch hầu vẫn lan tràn. Họ Đường nói: “Con nghe rằng nếu trời đổ tuyết thì bịnh bạch hầu này sẽ hết, nhưng nay mùa xuân sắp hết, làm thế nào để có tuyết rơi?”

Tôi nói: “Tôi sẽ thiết lập đàn tràng nữa. Ngài hãy thành tâm cầu nguyện!”

Họ Đường ăn chay giữ giới. Tôi tụng kinh lễ sám. Qua hôm sau, tuyết rơi dầy cả thước. Bịnh bạch hầu đột nhiên chấm dứt. Ai ai cũng đều tán thán Phật pháp thật không thể nghĩ bàn.

Dân Quốc năm thứ 12, 84 tuổi. (1923/24)

Trong năm, lúc sửa chữa tháp Hải Hội cho bảy chúng xuất gia, vừa đào nền móng sâu xuống vài tấc thì phát hiện ra một cái hòm, trên có ghi: “Phu nhân họ Lý, người Phiên Dương, đời Gia Tỉnh thứ tư (1525-26).” Mở nắp hòm ra, thấy gương mặt bà hồng hào như còn sống. Lúc hỏa táng, ngọn lửa biến thành hình hoa sen. Sau đó, tro của bà được đặt vào tháp Uu Bà Di. Tất cả ngôi mộ bên phải của chùa đều được hỏa táng. Tro được đặt hết vào trong tháp Hải Hội. Giữa những ngôi mộ, có một bia tháp của tỳ kheo Đạo Minh, niên hiệu Đạo Quang đời Thanh (1821-50). Tỳ kheo Đạo Minh lúc nhỏ hai chân bị tàn tật, cha mẹ gởi vào chùa tu. Sau khi thọ giới cụ túc, thầy phát tâm lạy Đại Bi Sám Pháp, trì niệm thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Đêm nọ, mơ thấy Bồ Tát Quán Ấm hiện ra bảo hãy đi tắm. Tắm xong, không thấy Bồ Tát đâu hết, mà hai chân cảm thấy rất khỏe khoắn. Hôm sau, khi bước xuống giường, hai chân đi được như bình thường. Từ đó, trí huệ Thầy ngày một tăng trưởng, nên cả đời luôn trì thánh hiệu Bồ Tát Quán Ấm. Trên nắp hòm, kiến cắn nhặm thành một tháp nhỏ hình tám cạnh, có bảy từng. Như thế, chứng minh sự tu trì cẩn mật của Thầy.

Dân Quốc năm thứ 13, 85 tuổi. (1924/25)

Năm ấy, tôi sửa sang lại tất cả tháp chư tổ sư toàn núi cùng tháp bảy vị Phật. Tổng cộng là mười sáu ngôi tháp. Lại sơn phết các tôn tượng Phật, Bồ Tát, năm trăm vị A La Hán trong tất cả chùa chiền. Nơi đại hùng bảo điện chùa Thắnh Nhân, đúc ba tượng Phật bằng đồng, và sửa lại chánh điện Tây Phương, cùng vẽ ba ngôi thánh tượng v.v…

Mùa xuân, kỳ truyền giới chấm dứt. Thiền sư Cụ Hành tự thiêu mà vãng sanh. Tôi có ghi lại sự việc như sau:

“Ký thuật về hạnh nghiệp của thiền sư Cụ Hành:

Thầy tên Nhật Biện, tự Cụ Hành, người tỉnh Hội Lý. Lúc nhỏ, cha mẹ mất sớm. Có người họ Tăng thương tình đem về nuôi nấng. Lớn lên, lại gả con gái cho. Sau đó, sanh ra hai đứa con. Gia đình luôn nghèo cùng túng thiếu. Tám người trong gia đình thường đến chùa làm công quả. Năm Tuyên Thống nguyên niên, lúc tôi vận chuyển Đại Tạng kinh về núi, liền truyền giới. Khi ấy, Thầy được hai mươi tuổi, hướng dẫn toàn gia đình đến chùa cầu xin xuất gia. Mặt Thầy xấu, lại không biết chữ, nhưng ban ngày khổ hạnh trồng rau quả, tối đến lễ lạy sám hối, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Ấm, tập tu thiền, tự học tụng kinh, không nhờ người chỉ dạy, chỉ tự lực tinh tấn. Năm Dân Quốc thứ tư, Thầy xin ra ngoài tham học.

Đến năm Dân Quốc thứ chín, lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu ở Côn Minh, Thầy trở lại nhận chức trồng rau sau chùa. Thầy thường lên chánh điện tụng kinh, may vá y áo cùng đệm giường gối cho tăng chúng, không từ gian lao khổ nhọc. Ngày ngày trồng rau. Nếu có dư thừa rau cải thì đem cho người khác để gieo duyên, không giữ thực phẩm riêng cho mình. Thầy rất ít nói chuyện vãn. Khi tôi trú tại hạ viện chùa Thắng Nhân, nhận thấy mật hạnh của Thầy, thật khó ai bì kịp.

Kỳ truyền giới trong năm, Thầy cầu xin thọ giới tỳ kheo, rồi trở lại hạ viện tu hành. Đến ngày hai mươi chín tháng ba, dùng cơm trưa xong, Thầy qua chùa Thắng Nhân, ra sân sau chánh điện, tự lấy rơm rạ lót chung quanh, đắp y ca sa, ngồi xếp bằng trên đó, tay trái cầm khánh dẫn lễ, tay phải cầm dùi gõ mõ, mặt hướng về phía tây niệm Phật, rồi tự đốt rơm. Vài chục người trong chùa, không biết Thầy đi đâu, liền chạy ra ngoài, thấy lửa cháy rần rần. Họ đến gần, thấy Thầy đang ngồi bất động trong đóm lửa, mà y ca sa vẫn y như cũ, chỉ có mõ là bị cháy. Người trong chùa chạy đến báo tin cho tôi hay. Vì đang bận chuẩn bị cho kỳ truyền giới Bồ Tát vào mồng tám tháng tới, nên không thể xuống núi được, liền viết thơ mời Vương Trúc Thôn, trưởng ban tài chánh tỉnh lỵ, và Trương Chuyết Tiên, trưởng cục thủy lợi, thay mặt tôi làm lễ an táng cho Thầy. Họ Vương và họ Trương thấy việc kỳ lạ này, liền thuật lại với đề đốc họ Đường. Họ Đường dẫn toàn gia quyến đến xem. Họ thấy thân Thầy ngồi nghiễm nhiên bất động, tay vẫn còn cầm khánh. Khi vừa lấy chiếc khánh ra khỏi tay thì toàn thân Thầy bỗng tan rụi thành tro bụi. Tất cả đại chúng đều sanh thâm thâm tín. Họ Đường đề nghị rằng lễ an táng thầy Cụ Hành phải do chánh phủ đảm trách trong ba ngày. Người đến chiêm lễ cả hàng chục ngàn người. Họ Đường đem chiếc khánh đó cùng một bản văn sơ lược tiểu sử thầy Cụ Hành, giao cho thư viện tỉnh bảo quản.

(Đại sụ trong năm: Tháng giêng, Quốc Dân Đảng tuyên bố là đảng trị quốc. Tháng năm, khai mở trường quân giáo tại Hoàng Bộ. Tháng mười, chiến tranh giữa hai tỉnh Giang-Triết. Tháng mười một, họ Tào từ chức, họ Ấn lên chấp chánh chính phủ lâm thời. Tiên sinh Tôn Trung Sơn trở về Bắc Kinh.)

Dân Quốc năm thứ 14, 86 tuổi. (1925/26)

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi ở lại chùa giảng kinh. Giảng xong, nơi thiền đường, khai mở một tuần thiền thất. Vùng núi của chùa, rất rộng lớn, cây cối um tùm, cần phải đốn bớt. Tôi nhờ người trong thôn đến cùng với đại chúng đốn củi, rồi phân làm nhiều loại, chia cho họ nửa phần. Họ đều vui vẻ.

Năm đó, tỉnh Vân Nam cải đổi, bỏ chức đề đốc tỉnh trưởng. Họ Đường từ chức, trở về ở ẩn, thường lui tới núi đàm đạo.

(Đại sự trong năm: Tiên sinh Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh. Tháng sáu, thành lập chánh phủ Dân Qụốc tại Quảng Châu.)

Dân Quốc năm thứ 15, 87 tuổi. (1926/27)

Nhiều biến cố xảy ra trong năm. Binh lính trú tại nhà dân. Dân chúng không ai sống được an ổn, lại không dám ra ngoài đồng gặt hái trong mùa lúa chín vì sợ binh lính. Tôi đến doanh trại lính, bàn thảo với các tướng chỉ huy. Sau đó, họ ra lịnh cho quân lính là không được cản trở khi có tăng chúng cùng nông dân ra đồng gặt lúa. Vì thế, vài ngàn nông dân cùng đến chùa ở. Lúc đầu, cùng đồng ăn cơm. Kế đến, phải ăn cháo. Cuối cùng, hết gạo, chỉ uống nước thôi. Dân chúng thấy tăng chúng đồng cam cộng khổ như thế, nên rất cảm động. Khi hiện tình quân binh được an ổn thì dân chúng đồng trở về nhà. Kể từ đó, dân chúng hết lòng giúp đỡ, bảo hộ chùa chiền, thật rất thành tâm.

Từ lúc tôi trụ trì chùa Vân Lâu, mỗi năm đều mở kỳ truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Năm nay, trong kỳ truyền giới, trước chánh điện, có những cây mai khô đột nhiên nở trăm chùm hoa, dạng trạng như hoa sen. Tất cả cây cỏ trong vườn trước và sau chùa, tự nhiên nở hoa sen màu xanh. Trong mỗi hoa sen, có nhụy hoa giống như một tượng Phật đứng. Trương Chuyết Tiên có ghi khắc lại việc lạ lùng, hiếm có này trên đá, bằng một bài thơ.

(Đại sự trong năm: Tháng bảy, tiên sinh Tưởng Trung Chánh nhận chức tổng tư lệnh đảng Cách Mạng Dân Quốc, dẫn binh ra bắc chinh phạt. Tháng chín, chiếm Võ Xương. Tháng mười một, chiếm Cửu Giang. Tháng chạp, chánh phủ Dân Quốc dời về Vũ Hán.)

Dân Quốc năm thứ 16, 88 tuổi. (1927/28)

Trong năm, tôi vẫn truyền giới, giảng kinh, khai thiền thất. Đồng thời, tôi cho xây cất thêm các điện, mái ngói, phòng ốc, cùng đúc đại hồng chung U Minh.

(Đại sụ trong năm: Tháng tư, chính phủ Dân Quốc kiến lập thủ đô tại Nam Kinh. Tháng sáu, Trương Tác Lâm xưng Đại Nguyên Soái tại Bắc Kinh. Tháng chạp, chính phủ Dân Quốc cùng quân Cộng Sản tuyệt giao.)

Dân Quốc năm thứ 17, 89 tuổi. (1928/29)

Vì muốn đúc thêm tượng Phật, nên tôi cùng với cư sĩ Vương Cửu Linh đi Hồng Kông để quyên góp tịnh tài. Khi ấy, tướng Trần Chân Như phái tùy viên đến Hồng Kông đón chúng tôi về Quảng Châu. Chúng tôi trú tại viện Gi Dưỡng, rồi cùng đến chùa Năng Nhân, núi Bạch Vân. Họ Trần thỉnh tôi trụ trì chùa Nam Hoa, Tào Khê, nhưng tôi khước từ. Tôi đến Hạ Môn, qua Phước Châu, rồi trở về núi Cổ Sơn giảng kinh. Xong, tôi tới chùa A Dục Vương, lạy xá lợi Phật, rồi trở lại núi Phổ Đà. Hòa thượng Văn Chất đưa tôi đi Thượng Hải, trú tại am Hương Sơn, chùa Long Quang. Cuối thu, hòa thượng Đạt Công tại Cổ Sơn viên tịch. Đại chúng cử người đến Thượng Hải gặp tôi. Vì gần cuối năm, nên tôi ở lại Thượng Hải qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Trương Tác Lâm trở về Phụng Sơn, nhưng trên đường đi, bị phục kích chết. Tháng chạp, ba tỉnh miền đông khởi cờ hiệu. Chính phủ Dân Quốc thống nhất Trung Quốc.)

Dân Quốc năm thứ 18, 90 tuổi. (1929/30)

Tháng giêng, tôi từ Thượng Hải trở về Cổ Sơn. Đô đốc hải quân Dương Huyền Kinh, chủ tịch và cựu chủ tịch tỉnh Phước Kiến đồng dẫn quan dân sĩ thứ đến thỉnh mời tôi ở lại trụ trì chùa Cổ Sơn. Nghĩ lại, đây là nơi tôi xuống tóc xuất gia, thừa thọ ân Thầy Tổ, khó mà từ chối, nên tôi phải chấp nhận chức trụ trì.

Dân Quốc năm thứ 19, 91 tuổi. (1930/31)

Qua một năm ở tại Cổ Sơn, những việc khó khăn rắc rối từ từ được giải quyết. Mùa xuân, trong kỳ truyền giới, tôi thỉnh hòa thượng Văn Chất làm Yết Ma Giới Sư. Tháng giêng, tôi giảng kinh Phạm Võng. Trong vườn Phương Trượng, có hai cây phượng vĩ lớn. Theo lời kể của các vị cổ đức thì một cây do chính tay thái tử Mân Vương trồng, còn một cây thì do tổ sư Thánh Triết trồng, vào đời Đường, đã hơn một ngàn năm. Hai cây phượng vĩ này mọc rất chậm. Mỗi năm chỉ sanh ra một hoặc hai lá thôi. Cả hai cây cao khoảng mười thước, chưa từng nở hoa. Tương truyền, một ngàn năm mới nở hoa một lần. Trong kỳ truyền giới, hai cây phượng vĩ này đột nhiên nở hoa rộ khắp. Dân chúng xa gần đến xem, lưu luyến đạo tình. Hòa thượng Văn Chất có viết một bài kệ ngắn về việc kỳ lạ này. Tôi cũng có đề một bài kệ như sau:

“Ưu đàm bát la phi phàm phẩm,
Tùy Phật thị hiện kim hoa,
Thế gian thải phượng xưng dương thụy,
Hiện đáo kiết tường hỷ khả gia,
Huyền sơn trượng thất lưỡng thiết thọ,
Nhân ngôn thử hủy hướng vô ba,
Định thị chủ lâm thần ủng hộ,
Cố tương nhân thọ phóng lưu hà.

Dịch:

Hoa Ưu Đàm Bát, vật phi phàm,
Y theo Phật thị hiện hoa vàng,
Chiếu soi điềm lành khắp thế gian,
Hiện việc tốt lành vui vẻ thay,
Hai cây phượng nơi thất núi huyền,
Người bảo cây chưa từng nỏ hoa,
Chắc là do thần cây ủng hộ,
Cố phóng ánh quang vì nhân thọ.”

Dân Quốc năm thứ 20, 92 tuổi. (1931/32)

Tôi vẫn ở Cổ Sơn tu sửa chùa viện, truyền giới giảng kinh, lập Phật học viện giới luật, xây am Bình Sở, am Vân Ngọa và các tự viện.

Dân Quốc năm thứ 21, 93 tuổi. (1932/33)

Mùa xuân năm ấy, trong kỳ truyền giới tại Cổ Sơn, đột nhiên có một ông lão, tóc trắng như tuyết, dung mạo thanh cao, kỳ dị, đi thẳng vào thất phương trượng, quỳ xuống cầu giới. Tôi hỏi ông tên gì. Ông đáp rằng họ Dương, người Mân Nam, Đài Kiều. Có một vị mới vừa thọ giới, tên Diệu Tông, cũng là người Đài Kiều, nói rằng chưa từng gặp qua ông lão đó. Sau khi truyền giới Bồ Tát, lúc cấp giới điệp xong, thì không thấy tông tích ông lão đâu cả. Lúc Diệu Tông trở về Đài Kiều, đến am Long Vương, thấy một bức tượng ngồi nghiễm nhiên, giống như ông lão, lại thấy giới điệp trong tay của tượng thần. Nam Đài chấn động, truyền nhau rằng Long Vương cầu thọ giới. Cũng trong kỳ truyền giới đó, có lão cư sĩ người Quảng Đông, là học giả triều Thanh, tên Trương Ngọc Đào, sáu mươi sáu tuổi, đến núi cầu giới. Tôi mời ông quản lý trông coi kinh tạng ở Cổ Sơn. Kỳ truyền giới chấm dứt, tôi thỉnh lão pháp sư Từ Chu tại pháp đường giảng giới Căn Bản của Bốn Phần Luật, cùng thỉnh hai vị pháp sư Tâm Đạo, Ần Thuận làm giáo thọ.

(Đại sụ trong năm: Tháng giêng, quân Nhật chiếm Cẩm Châu, tấn công Ầp Bắc nơi Thượng Hải. Quốc dân kháng chiến. Tháng ba, Đoàn Nghị tại Trường Xuân tức nước Mãn Châu, chính thức lên cầm quyền.)

Dân Quốc năm thứ 22, 94 tuổi. (1933/34)

Trong kỳ truyền giới, vào mùa xuân, tôi thỉnh lão pháp sư Ứng Từ giảng kinh Phạm Võng. Tháng giêng, quân Nhật chiếm cửa ải Sơn Hải, làm nhân tâm lo sọ, kinh hãi. Đạo quân thứ mười chín tại Phước Kiến đặt trong tình trạng báo động. Các chùa miếu tự viện trong toàn tỉnh, đình chỉ việc cho khách tăng tạm trú tại chùa, chỉ có Cổ Sơn là nơi vẫn còn tiếp đãi khách tăng. Khoảng năm sáu trăm tăng chúng cư ngụ tại núi. Việc phân phát lương thực thật khó khăn, nhưng mỗi người vẫn được một phần cháo vào buổi sáng và một phần cơm vào buổi trưa.

Tháng sáu, xây xong công viên phóng sanh. Trong các con ngỗng do cư sĩ Trịnh Cầm Tiều mang tới phóng sanh, có một con rất kỳ lạ. Nó nặng hơn mười sáu ký. Khi nghe tiếng mõ khánh đánh, nó trương hai đôi cánh và ngưỡng cổ ra. Khi vào chánh điện, nó giương mắt nhìn tượng Phật suốt cả ngày. Một tháng sau, nơi chánh điện, trước tượng Phật, nó đứng thẳng mà chết, nhưng không ngã xuống đất. Trịnh cư sĩ rất kinh ngạc, liền thỉnh chư tăng đem nó đi thiêu đốt. Tháng bảy, khi thiêu thì xác nó không bốc ra mùi gì hết. Một ngôi mộ được đào để chứa tro cốt của các động vật.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, quân Nhật xâm nhập cửa ải Sơn Hải. Tháng ba, chúng chiếm Nhiệt Hà, tấn công Hoa Bắc.)

Dân Quốc năm thứ 23, 95 tuổi. (1934/35)

Mùa xuân, một bước tiến nữa để hoàn hảo chương trình giáo dục nơi Phật học viện tại Cổ Sơn là thỉnh lão pháp sư Từ Chu làm viện chủ. Tháng hai, vào đêm nọ, trong lúc tọa thiền, tâm tôi dường như đang mộng mà cũng chẳng phải mộng, thấy Lục Tổ đại sư đến bảo: “Đã đến lúc rồi, Thầy hãy trở về!”

Hôm sau, tôi bảo đệ tử là Quán Tâm: “Duyên đời của Thầy chắc không còn lâu đâu. Hôm qua Lục Tổ đại sư gọi Thầy trở về!”

Thấy Quán Tâm buồn bả, tôi an ủi. Đến giữa tháng tư, đêm nọ, mộng ba lần, thấy Lục Tổ thúc giục tôi trở về. Thật là việc lạ kỳ. Chẳng bao lâu, tôi nhận điện tín từ chính quyền tỉnh Quảng Đông. Họ muốn thỉnh tôi về sửa chữa đạo tràng Lục Tổ. Tôi nghĩ đến thánh địa đó, hiện tại rất cần tu bổ sửa sang. Trước kia, lần sửa chữa cuối cùng là do ngài Hám Sơn (1546-1623) đảm trách. Thế nên, tôi mang hành lý đi về Lĩnh Nam.

Khi xưa, tướng quân Lý Hán Hồn lúc đóng quân tại vùng phía bắc tỉnh Quảng Đông, tận mắt thấy chùa Nam Hoa bị hư hoại nặng nề, nên tự sửa sang đôi chút, từ tháng chín năm 1933 đến tháng tám năm 1934. Mùa đông, tại chùa Nam Hoa, chư hộ pháp cố thỉnh tôi truyền giới. Vì phòng ốc, điện đường bị hư hoại, sụp đổ, nên chúng tôi tạm cất những mái chòi tre để cho cả trăm tăng chúng cư ngụ. Quan thân sĩ thứ vùng Quảng Châu và Triều Châu cùng quyến thuộc đến thọ giới quy y. Mười bảy tháng chạp, kết đàn tràng tại chánh điện. Tối đến, đang khi truyền giới Bồ Tát, có một con hổ đến, như thể muốn thọ giới quy y, khiến toàn thể đại chúng đều hoảng sợ. Tôi truyền tam quy y và thuyết giới cho hổ. Nó có vẻ như hiểu biết mà thọ nhận, rất thuần thục. Thọ giới xong, nó liền bỏ đi.

(Phụ chú: Mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, kiến lập đạo tràng xong. Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan dân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện, thì Giang Khổng Ấn, lúc đang đứng trên lầu các, phát hiện ra trước cửa chùa Nam Hoa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Đến gần, thấy rõ đó là hổ, nên ông ta liền la lên. Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Vân Công bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống. Vân Công thuyết tam quy y, cùng dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẩm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi trở vào rừng, nhưng với điệu dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần. Vài lúc, núi rừng tuyệt không dấu tích các loài cầm thú khác vì nghe tiếng rống của hổ. Vân Công đôi khi đi ra gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc hổ già quy y Tam Bảo thật rất kỳ lạ. Được nghe Vân Công trong lúc thuyết giới có nói bài kệ:

“Hổ biết quy y Phật,
Tánh chánh không hai,
Tâm người, tâm thú,
Đồng tạng quang minh.”

(Đại sự trong năm: Phổ Nghị tại Trường Xuân, Mãn Châu xưng đế, cải hiệu là Đại Đồng.)

Dân Quốc năm thứ 24, 96 tuổi. (1935/36)

Mùa xuân, tướng Lý Hán Hồn được thuyên chuyển về vùng phía đông tỉnh Quảng Đông. Thế nên chúng tôi mất đi một vị đại hộ pháp. Việc kiến lập tự viện ngày một khó khăn. Sau kỳ truyền giới, theo lời thỉnh mời của Đông Hoa Tam Viện, tôi qua Hồng Kông, kiến lập đàn tràng Thủy Lục Không tại vườn Đông Liên Giác Uyển. Phật sự xong, tôi trở về Cổ Sơn, từ chức trụ trì. Tôi thỉnh lão hòa thượng Thạnh Huệ kế nhậm chức trụ trì. Sau đó, tôi liền trở lại chùa Nam Hoa. Việc đầu tiên là tôi cho tu bổ lại chánh điện thờ chư Tổ Sư, xây điện thờ Bồ Tát Quán Ấm, và cất phòng xá. Tháng chạp, nơi phía bắc đình Phục Hổ, thuộc phía nam suối Trác Tích, có ba cây tùng cổ xưa, trồng từ đời Tống (960-1279), đã khô héo trong vài trăm năm, nay đột nhiên ra lá. Thủ tọa Quán Bổn có ghi lại việc lạ kỳ này. Bài ký sự được cư sĩ Sầm Học Lữ khắc trên đá tại chùa.

Dân Quốc năm thứ 25, 97 tuổi. (1936/37)

Mùa xuân, việc tu sửa điện đường phòng xá từ từ được hoàn tất. Tổng thống Dân Quốc, ông Lâm Tử Siêu, bộ trưởng, ông Cư Chánh, tướng Tưởng Trung Chánh v.v…, lần lượt đến chùa Nam Hoa. Hai ông, Lâm Tử Siêu và Cư Chánh, hộ trợ việc xây cất trùng tu đại điện. Tướng Tưởng Trung Chánh cúng dường tiền để mướn nhân công đào sửa lại con suối chạy ngang qua chùa. Tuy nhiên, vào lúc cuối, không cần nhân lực, nhưng vẫn hoàn thành. Thật biết ơn chư long thần hộ pháp đã gia hộ.

(Phụ chú: Con suối chảy ngang chùa Nam Hoa, xưa vốn cách xa khoảng một trăm bốn mươi thước. Vì lâu năm không đào vét, nên cát đá lấp đi, khiến nước chảy về hướng bắc, thẳng đến cửa chùa. Để đưa con suối trở lại hướng cũ, phải cần mướn khoảng ba ngàn nhân công, tốn kém rất nhiều. Ngày hai mươi tháng bảy, chuẩn bị khởi công thì tối hôm đó, trời đổ mưa to, rơi xuống như muôn ngàn con ngựa đang chạy đua. Sáng hôm sau, dứt mưa, nước tràn ra bờ suối, chảy dài theo hướng mà chúng tôi ước muốn. Đất đá của con suối trước, đắp thành bờ đê cho con suối sau này, cao cả vài thước. Dường như long thần hộ pháp đã giúp đỡ chúng tôi sửa lại hướng của con suối này.)

Dân Quốc năm thứ 26, 98 tuổi. (1937/38)

Sau kỳ truyền giới vào mùa xuân, thể theo lời thỉnh cầu của hội cư sĩ Tuệ Viên, tôi đi giảng kinh tại Quảng Châu. Khi ấy, có các vị Lạt Ma người Tây Tạng cùng vài mươi người đến gặp tôi. Tăng chúng ở vùng Phật Sơn, thỉnh tôi đến đó làm lễ khai quang cho bảo tháp tại chùa Nhân Thọ. Kế đến, tôi lại trở về chùa Nam Hoa lo coi sóc công trình xây dựng các tự viện.

(Đại sự trong năm: Ngày bảy tháng bảy, quân Nhật vây cầu Lô Giang. Quân dân thối lui về Bắc Bình. Chiến tranh Trung-Nhật lan tràn khắp nơi. Tháng chạp, Nam Kinh bị vây hãm. Chánh phủ Dân Quốc tuyên bố dời đô về Trùng Khánh.)

Dân Quốc năm thứ 27, 99 tuổi. (1938/39)

Kỳ truyền giới vào mùa xuân xong, tôi đến Tuệ Viên giảng kinh. Giảng xong, tôi đi Hồng Kông, đến vườn Đông Liên Giác Uyển, kiến lập pháp hội Đại Bi Sám Pháp. Qua mùa thu, tôi trở lại chùa Nam Hoa.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.