Năm Lời Khuyên Dạy Về Thiền Định Bằng Hành Động

Phép “thiền định” bằng tư thế ngồi yên tương đối được nhiều người biết đến. Đấy là phương cách thích hợp nhất giúp người tu tập phát huy các phẩm tính của tâm thức: đấy là cách ngồi, giữ yên lặng, chọn một nơi kín đáo… Thế nhưng ngoài những lúc thiền định ra thì người tu tập lại phải hội nhập với cuộc sống bình thường, trở về với các sinh hoạt thường nhật, tất nhiên là không tránh khỏi phải hành động… Vậy phải làm thế nào bây giờ?

Một bản kinh thật chủ yếu là Tứ Niệm Xứ (Satipattana-sutta) khuyên phải tập trung sự chú tâm và quán thấy vào từng cử chỉ “thông thường”: chẳng hạn như “khi đi tới hay đi lui…, khi nhìn thẳng hay nhìn chung quanh…, khi co hay duỗi thẳng chân tay…, khi ăn, khi uống, khi nhai hay đang lúc tận hưởng thức ăn…, khi đại tiện hay tiểu tiện…, khi đang bước hay đứng lại, khi đang ngồi, đang chìm vào giấc ngủ, hay lúc vừa thức giấc, khi mở lời để nói hay giữ sự câm nín…, thì người tu tập cũng đều phải thực thi với tất cả sự chú tâm và quán thấy”. Tuy nhiên cách tu tập như vừa kể gần như chỉ có thể thực hiện được trong khi tham gia các khóa tu học thật tích cực! Vậy thì ta phải làm gì đây trong cuộc sống thường nhật, nhất là đối với những người thế tục, “một người chủ gia đình” chẳng hạn, họ còn phải lo toan đủ mọi trọng trách và đảm đang bổn phận đối với xã hội, gia đình, nghề nghiệp…? Đức Phật không phải là không nhìn thấy những khó khăn ấy và Ngài đã đưa ra một số lời khuyên dạy – tùy theo kinh sách sẽ gồm có bốn hay năm lời khuyên dạy khác nhau – nhằm đưa ra một “căn bản thiết yếu cho việc luyện tập”, căn bản này còn được gọi là “con đường luyện tập” (sikkha-pada). Những lời khuyên dạy đó hoàn toàn thuộc vào nền giáo huấn đặc thù của Phật Giáo, và trong số này có thể nêu lên “ba điều khuyên dạy” mà nhiều người biết đến, đấy là những gì được nêu lên trong một tiết thơ trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada): “Không làm điều xấu, thực hiện điều thiện, tinh khiết hóa tâm thức của chính mình, đấy là giáo huấn của Đức Phật”.

Vậy “thiền định” là gì?

“Thiền định”, nếu hiểu theo quan niệm “dịch thuật tức phản bội”, thì quả thật là một món quà vô cùng khó nuốt mà nền giáo huấn cửa Đức Phật đã mang tặng cho thế giới Tây phương! Các chữ bhavanâsamâdhi hay dhyâna trong ngôn ngữ Ấn Độ (dù đấy là tiếng Phạn hay tiếng Pa-li) đều được người Tây phương dịch là “meditation” (“suy ngẫm”). Quả thật không có gì sai lầm hơn vì chữ “suy ngẫm” (meditation) gần như hoàn toàn không mang ý nghĩa nào của các chữ Phạn và Pa-li vừa nêu lên. Các chữ Phạn và Pa-li này dùng để chỉ định các thể dạng của tâm thức, và các thể dạng này thì lại không hề phản ảnh ý nghĩa của chữ “suy ngẫm” (meditation) trong ngôn ngữ Tây phương, vì chữ này (suy ngẫm – meditation) chỉ có nghĩa là “suy tư về một thứ gì đó để đem ra áp dụng vào cuộc sống của mình” – và đấy cũng là cách định nghĩa của chữ “meditation” theo truyền thống của Thiên Chúa Giáo!

Chữ Bhavanâ (Quán tưởng) nêu lên sự “phát huy” các phẩm tính của tâm thức, tức những gì thường bị Vô minh và Ảo giác che lấp. Samâdhi (Định) là khả năng “chú tâm” của tâm thức không bị các tư duy đối kháng thông thường (dưới hình thức xúc cảm và khái niệm) làm cho nó bị “xao lãng”. Sự chú tâm đó giúp cho tâm thức hướng thẳng vào một hiện tượng duy nhất trong khi tập luyện về sự “tĩnh lặng” (samatha) – đấy là hiện tượng duy nhất thường xuyên “hiển hiện trở lại” – hoặc là chú tâm vào tất cả các hiện tượng hiển hiện liên tiếp nhau qua phép tập luyện về “sự quán thấy sâu xa” (vipassana). Chữ Dhyanâ (Thiền-na) là một thuật ngữ mà trên phương diện kỹ thuật được dùng để chỉ định một hình thức “lắng sâu” phát sinh từ phép tập luyện về sự “tĩnh lặng”(samatha), thế nhưng sau đó thì lại được dùng với một ý nghĩa tổng quát hơn – nhất là tại Trung Quốc và Đông Nam Á và gọi đấy là “chan’ na“, sau đó thì biến dạng thành “chan” hay “zen” – và được xem là đồng nghĩa với chữ bhavanâ hay samâdhi.

Cả ba chữ trên đây (Bhavanâ, Samâdhi, Dhyanâ) không hề mang ý nghĩa nào nêu lên một sự “suy tư mãnh liệt”, lại càng không mang ý nghĩa “phóng tưởng vào một thứ gì đó”, thí dụ như “âm mưu (méditer/meditate) một kế hoạch ám hại ” chẳng hạn. Đấy cũng là ý nghĩa chính yếu nhất của chữ La-tinh “meditatio”! (trong ngôn ngữ Tây phương động từ méditer/meditate mang nhiều nghĩa khác nhau như: nghiền ngẫm, suy nghiệm, âm mưu…, và tuyệt nhiên không mang một ý nghĩa nào tương đương với ý nghĩa của chữ thiền định – bhavanâ. Tuy nhiên vì từ lâu người Tây Phương đã dịch sai các chữ bhavanâ, samâdhi, dhyanâ là meditation cho nên qua thời gian cách dịch đó đã trở thành quen thuộc và nhiều người cũng đã bắt đầu “hiểu” chữ này “đồng nghĩa” với chữ “thiền định” (bhavanâ) trong Phật Giáo. Cũng xin phép được ghi chú thêm là chữ bhavanâ dịch sang tiếng Tây Tạng là sgom-pa và có nghĩa là “tập cho quen dần“). Như thế, nếu không kịp suy nghĩ mà cứ hiểu đại khái là “rút lui khỏi thế giới này” là để “suy nghĩ mãnh liệt” hay để “phóng tưởng vào một thứ gì đó”, thì nhất định đấy là một sự hiểu biết sai lầm, vì “thiền định” thật ra có nghĩa là “phát huy” các phẩm tính của một tâm thức không bị các phản ứng từ cách suy nghĩ thông thường làm cho nó bị “xao lãng”, nói cách khác thì đấy là cách phát huy sự chú tâm cảnh giác (sata/smrti) và mở rộng sự hiểu biết (pannâ/prajnâ).

Hơn nữa, cũng chính vì thế mà nền giáo lý Phật Giáo cũng đã ý thức được rằng sự quan sát dựa vào sự “chú tâm và quán thấy” các hiện tượng vật chất cũng như tâm thần, không thể chỉ giới hạn duy nhất trong những khóa tu học tích cực, và bằng tư thế ngồi tĩnh lặng. Thật vậy, mỗi khoảnh khắc của sự sinh hoạt đều phải trở thành một khoảnh khắc thực hành và tập luyện giúp “nhìn thấy mọi vật thể đúng như thế”! Điều ấy cũng cho thấy là kinh sách xưa không phải là không có lý khi gọi các người tu hành là các “người luyện tập” (sekka)…, và sự luyện tập đó chỉ chấm dứt khi nào người tu hành đã đạt được Giác Ngộ. Thế nhưng cũng phải hiểu rằng việc luyện tập đòi hỏi một khả năng cao độ như thế tất nhiên cũng phải cần đến một sức cố gắng tương xứng mới có thể hoàn tất được. Thường thì ít có ai gặt hái ngay được thành công khi mới khởi sự, mà phải trải qua nhiều giai đoạn, phải thăng tiến một cách tuần tự và có phương pháp, phải bước từng bước một, và sau đó thì mới có thể thành công:

“Từng bước, từng bước một, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, một người khôn ngoan phải tinh khiết hóa các thứ ô nhiễm của chính mình, tương tự như một người thợ kim hoàn loại bỏ những chất bẩn để tinh luyện bạc” (Kinh Pháp Cú, tiết 239).

Sự thăng tiến tuần tự

Cách “Giảng dạy theo phương pháp tuần tự” của chư Phật vẫn thường hay được nhắc đến. Đấy là một phương pháp thăng tiến dần dần nhằm giúp cho người Phật tử ý thức được trong từng giai đoạn một, các nhân tố tạo ra hoàn cảnh hiện tại của mình và các hậu quả liên hệ (tức là “phương cách hiện hữu” bình thường của mình trong thế giới ta-bà – samsarâ), và sau đó sẽ giúp người Phật tử ấy nhận ra sự ích lợi cần phải thay đổi thái độ tâm thần đó của mình, hầu tạo ra những điều kiện thích nghi hơn để mang lại một sự thăng tiến hiệu quả hơn nhằm thực hiện sự “tinh khiết hóa” thật sự cho tâm thức, bằng cách phát huy những khả năng “nhìn thấy mọi vật thể đúng như thế”, tức có nghĩa là không còn sự kéo dài (anicca/anitya – vô thường), không còn sự bất toại nguyện (dukkha/duhkha – khổ đau) – và trói buộc (anatta/anâtman – “tự-nó-không-hiện-hữu” hay vô-ngã). Những gì trên đây được tóm lược trong một tiết rất nổi tiếng trong kinh Pháp Cú (tiết 183) như sau:

“Tránh làm điều xấu (pâpa), thực hiện điều thiện (kusala),
Tinh khiết hóa tâm thức của chính mình, đấy là giáo huấn của Đức Phật”.

Ba điều đó không phải là một thí dụ duy nhất có thể tìm thấy trong kinh sách Phật Giáo nguyên thủy. Một bản kinh bằng ngữ tự Pa-li – Accâyika-sutta (Anguttara-nikaya, 3-93) – cũng có nêu lên một khái niệm gọi là “ba điều khẩn cấp” cần phải thực hiện như sau:

“Một người nông dân chủ gia đình có ba việc khẩn cấp phải làm.
Hắn phải nhanh chóng cày và bừa thửa ruộng của mình; hắn phải nhanh chóng gieo hạt; hắn phải nhanh chóng tưới ruộng.

Nói thế [không có nghĩa là] người nông dân có khả năng và quyền lực [để bảo rằng]: “Những gì tôi gieo trồng phải mọc lên ngày hôm nay, phải đơm hạt ngày mai, và phải chín vào ngày hôm sau”. Cần phải có đủ thời gian để những gì người nông dân gieo trồng có thể nẩy mầm, đơm hạt và chín.

Cũng thế, có ba công việc khẩn cấp mà người Phật tử phải thực hiện. Người ấy bắt đầu luyện tập [sikka] để đạt được một kỷ cương tu tập cao hơn [adhi-sîla, tăng thượng “giới”], sự tập luyện này lại tạo ra một cấp bậc tâm thức cao hơn [adhi-citta, tăng thượng tâm], sự tập luyện này lại tạo ra một cấp bậc trí tuệ cao hơn [adhi-pannâ, tăng thượng trí].

Nói thế [không có nghĩa là] người Phật tử có khả năng và quyền lực [để bảo rằng]: “Nhờ không bám víu, tâm thức tôi phải được tẩy uế khỏi mọi ô nhiễm trong ngày hôm nay, ngay ngày mai hay ngày hôm sau”. Phải đủ thời gian cần thiết để tâm thức được tẩy uế khỏi mọi ô nhiễm bằng cách không bám víu, nhờ vào việc tập luyện mang lại một cấp bậc giới luật cao hơn, một tâm thức cao hơn và một trí tuệ cao hơn”.

Hai cách trình bày về khái niệm “ba điểm” trên đây có thể đặt song hành với nhau, và có thể sử dụng thuật ngữ “luyện tập” (sikka) để phối hợp cả hai, hơn nữa sự “luyện tập căn bản này” (sikka-pada), thông thường còn được gọi là “Ngũ Giới” – tức các giới luật mà bất cứ người Phật tử nào là “chủ gia đình” cũng phải tuân thủ và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày…

Các “giới luật” thường được trình bày trong một số kinh sách ghi chép những lời giảng huấn mà Đức Phật dành riêng cho những người “chủ gia đình” bình thường, tức những người không mấy khi quan tâm đến những mục tiêu cao xa như sự Giác Ngộ và Giải Thoát, mà họ chỉ đơn giản nhắm vào chủ đích “cải thiện cuộc sống trong thế giới ta-bà” này của họ cho được khả quan hơn…, và đấy cũng là những gì mà thông thường người Phật tử xướng lên vào các dịp lễ ở chùa, kể cả đem ra tụng niệm hằng ngày, hầu tự nhắc nhở mình phải tuân thủ và đem ra thực hành thật nghiêm túc những gì mà Đức Phật đã khuyên dạy họ… Các điều này cũng thấy nêu lên trong tám điều gọi là “Bát Chánh Đạo của những người Cao Quý” (con đường chân chính gồm tám nhánh của một thánh nhân), và đấy mới thật là phép tu tập toàn vẹn và hoàn hảo giúp đi thẳng vào giáo lý. Có ba hoàn cảnh khác nhau tương quan với ba cấp bậc thúc đẩy khác nhau, còn gọi là ba cách diễn đạt khác nhau.

Nếu muốn hiểu được ba cấp bậc ấy là gì thì phải luôn nhớ đến một thuật ngữ chủ yếu nhất trong giáo lý Phật Giáo: đấy là sự chú tâm, tức động cơ thúc đẩy làm nền tảng và mang lại nhiều ý nghĩa hơn cho từng hành động trên thân xác, cho từng ngôn từ và từng tư duy trong tâm thức. Trong cấp bậc thứ nhất (sơ đẳng), sự chú tâm thuộc vào loại “thông thường”, đấy là sự chú tâm hướng vào “thế giới thế tục” (ta-bà). Trong thế giới đó người tu tập không hề muốn xa lánh vĩnh viễn nó mà chỉ nghĩ đến việc cảithiện nó cho khả quan hơn (được giàu sang hơn, khoẻ mạnh hơn, hạnh phúc hơn…) và dù sao thì đấy cũng là cách “chuẩn bị một mảnh đất” thuận lợi hơn cho sau này. Vào cấp bậc thứ hai, sự chú tâm nhắm vào sự toàn thiện, có nghĩa là “gieo trồng”, đợi đến khi đơm quả và chín muồi, mang lại những điều kiện thuận lợi giúp cho việc tu tập được hoàn toàn hiệu quả: đấy là cách nhắm vào sự Giải Thoát. Vào cấp bậc thứ ba, thì “người tu tập” đã hội đủ các điều kiện thuận lợi và biết bảo toàn chúng, biết tưới thửa ruộng của mình hầu giúp cho quá trình (gieo trồng) mà mình đang thực hiện được phát triển một cách trọn vẹn giúp cho các phẩm tính “mọc lên” (tương tự như các hạt giống gieo trồng): đấy là cách hành động của những người “Cao Quý” (tức khác hơn với những người chỉ nghĩ đến cải thiện cuộc sống của mình trong thế giới ta-bà)!

“Cày bừa” hay “tránh không làm điều xấu”: đấy là cách tuân thủ giới luật

“Tránh không làm điều xấu” có thể xem như là cách sửa soạn thửa ruộng… Người nông dân cày bừa thửa ruộng, cuốc bỏ cỏ dại làm “ô uế” thửa ruộng và lấn át hoa mầu sắp gieo trồng. Để tránh các mối hiểm nguy có thể xảy ra, hắn chăm lo dọn dẹp thửa ruộng (đây là cách viết cô đọng và “chơi chữ”: so sánh giữa nguy hiểm trong tâm thức và cỏ dại trong thửa ruộng. Xin chú ý cách viết rất khéo này để hiểu được ý nghĩa trình bày trong các câu tiếp theo sau đây). Ta-bà là thế giới mà nơi đó khổ đau và sự bất toại nguyện mọc lan tràn như cỏ dại; và nào có ai lại muốn chịu đựng cảnh tượng đó… Thật thế nào có ích lợi gì khi làm cho chúng mọc tràn ra thêm bằng các hành động mang lại khổ đau? Trong trường hợp này cái xấu nêu lên là những khổ đau do người khác tạo ra mà mình phải gánh chịu (chữ pâpa trong ngôn ngữ Pa-li có nghĩa tương đương với chữ patior hay passio (passion) trong tiếng La-tinh và chữ này thì có nghĩa là “cái gì mà ta phải chịu đựng và nó mang lại khổ đau”…) (chữ passion có thể dịch sang tiếng Việt là sự đam mê).

Vào cấp bậc thứ nhất, hành động “tránh” (tức không nên làm) có nghĩa là không được tạo ra cho mình và cho người khác những gì mang lại sự ích kỷ (chỉ biết nghĩ đến mình) trong cuộc sống tập thể: “Không được tạo ra cho người khác những gì mà mình không muốn người khác tạo ra cho mình”! Đấy là những gì (đơn giản và thiết thực) mà Đức Phật đã từng thuyết giảng cho một đám nông dân, và chính họ cũng tự thú nhận về họ như sau: “Chúng con là những người mang đầy tham vọng, đầy ước mơ, đầy dự tính, chẳng hạn như muốn được sống chung với con cháu đầy đàn, được trang sức bằng những vòng hoa thơm, bôi nước hoa, thoa dầu, và tái sinh vào cảnh giới hạnh phúc hơn…”:

“Này các người chủ gia đình, hãy tưởng tượng một người suy nghĩ như thế này:”Tôi thích được sống và không muốn chết. Tôi thích được hân hoan và kinh sợ đớn đau. Nếu có ai cướp mất sự sống của tôi thì đấy quả là một chuyện không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi. Nếu tôi cướp đi sự sống của người khác, thì đấy là chuyện không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho người ấy, bởi vì hắn không muốn người ta giết hắn, và hắn rất thích được hân hoan và kinh sợ đớn đau. Vì thế, nếu một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi thì đấy cũng là một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho bất cứ một người nào khác. Vậy thì nếu đấy là một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi, thì tại sao tôi lại bắt người khác phải chịu như thế?”

Tóm lại là nếu hắn biết nghĩ như thế thì hắn sẽ tránh không giết hại các chúng sinh khác. Hắn khuyên bảo người khác cố tránh không được giết hại chúng sinh. Hắn nói lên việc ấy và cổ vũ việc cấm đoán ấy” (Kinh Veludvâreyya SuttaSamyutta-Nikaya, XI.1.7).

Những gì trình bày trên đây cũng tương đương với một số các “giới luật cấm đoán” khác: “Nếu có một người cố tình lấy cắp một vật nào đó của tôi và tôi không hề cho hắn, thì đấy là một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi”… Vì thế hắn tránh không lấy vật gì mà người ta không cho hắn. ‘Nếu có một người giao du tính dục với các người vợ của tôi, thì đấy là một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi’… Vì thế hắn tránh không phạm vào việc tính dục bất chính. ‘Nếu có một người nói dối làm tổn hại đến sự an vui của tôi, vu khống để chia rẽ tôi và bạn bè của tôi, hắn luôn miệng nói với tôi những thứ vô tích sự, thì đấy là một việc không thích thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi’… Vì thế hắn tránh không nói dối, không nói những lời vu khống, tránh những chuyện vô tích sự và những lời phù phiếm…”.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.