Phải Trái Cuộc Đời

AI BAN PHƯỚC, AI GIÁNG HỌA

Đất nước Ấn Độ là nơi xuất hiện nhiều trường phái tâm linh và triết học, đa số đều chấp nhận có một đấng tối cao ban phước giáng họa, ai tin và làm theo thì sẽ được hưởng phước báu vô lượng vô biên, ai không theo thì sẽ bị đọa lạc. Vì thế các ông vua thời phong kiến thường tự xưng mình là thiên tử tức con trời, thay trời trị vì thiên hạ. Một ông vua nọ vì quan niệm như vậy nên nghĩ rằng tất cả thần dân thiên hạ đều do mình ban cho phúc lộc. Nhà vua có một vị hoàng hậu rất tin kính Tam bảo, bà hay làm việc phước thiện cúng dường trai Tăng và thường giúp đỡ người nghèo khổ. Cả nước ai cũng đều biết đến bà, như là một vị Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện đi vào đời để cứu độ chúng sinh.

Vua thường nói với hoàng hậu rằng sở dĩ ngày nay thiếp được hưởng vinh hoa phú quý, nàng được ăn ngon mặc đẹp, có kẻ hầu người hạ và được hưởng hạnh phúc đều do trẩm ban cho. Dạ thưa đại vương, thiếp thì lúc nào cũng yêu thương và quý trọng đại vương, nhưng nếu đại vương cho phép thiếp sẽ trình bày một số quan điểm và hiểu biết mà thiếp đã học được qua lời Phật dạy. Được thần thiếp cứ nói đi, trẩm cho phép đó. Ngày nay thiếp làm hoàng hậu được hưởng vinh hoa phú quý, là không phải do bệ hạ ban cho mà chính thần thiếp đã gieo trồng phước đức từ nhiều kiếp, nên ngày nay mới hưởng được quả báo tốt đẹp.

Vua nghe hoàng hậu nói vậy trong lòng không được vui, vì vua nghĩ rằng ta là thiên tử tức con trời là người có quyền ban phước giáng họa. Để cho hoàng hậu biết được quyền uy thế lực của mình, đêm hôm đó nhà vua cho nàng uống thuốc ngủ và nhân cơ hội này, nhà vua liền lấy chiếc nhẫn kim cương đã trao tặng cho nàng nhân ngày cưới đem quăng xuống sông. Sáng thức dậy không thấy chiếc nhẫn đâu cả, hoàng hậu trong lòng cảm thấy buồn đôi chút liền trình cho nhà vua biết. Nhà vua nói, nếu là phước do nàng tạo ra thì hãy làm sao có chiếc nhẫn trở lại đi, nếu đúng như vậy ta mới tin lời Phật dạy là chân lý ta sẽ qui hướng Phật đà, hộ trì chánh pháp và cung kính làm theo lời Phật dạy. Nói xong nhà vua cảm thấy khoan khoái trong lòng, vì ngài biết chắc rằng chiếc nhẫn dù có mọc cánh cũng không thể nào bay trở về chỗ của hoàng hậu được.

Quả thật là rất khó cho hoàng hậu, một đàng vô tình, một người cố ý, vậy luật nhân quả có công bằng và bình đẳng hay không? Nhưng lời Phật dạy không sai, nhân gì do chúng ta đã tạo, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất. Khi hội đủ nhân duyên thì quả báo hoàn tự hiện. Hoàng hậu lúc này thật sự quá lo lắng, không biết phải làm sao để có chiếc nhẫn trở lại đây. Nàng ta chỉ biết thầm nguyện trong lòng, nếu Phật pháp linh hiển không thể nghĩ bàn, thì sẽ khiến cho nàng có được chiếc nhẫn trở lại. Lạ thay, cái gì đến sẽ đến khi hội đủ nhân duyên. Không thể có cái gì đó, do một nhân mà hình thành.

Ba ngày sau, một cô cung nữ phát giác ra chiếc nhẫn nằm trong bụng cá và đem trả lại cho hoàng hậu. Lúc này sự thật đã quá rõ ràng nhà vua không thể ngờ Phật pháp quá cao siêu và mầu nhiệm. Từ đó, nhà vua tín kinh ngôi Tam bảo và phát nguyện thọ trì gìn giữ năm điều đạo đức. Khuyên dân chúng giữ giới không được giết người và hạn chế tối đa giết hại các loài vật, xóa bỏ tập tục giết vật cúng tế thần linh. Không được gian tham trộm cướp lường gạt lấy của người dù là cây kim cọng chỉ. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy, cho đến dùng quyền lực để ép lấy cũng gọi là cướp. Giới thứ ba người Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, ngoài vợ chồng chính thức không được quan hệ dan díu với vợ chồng người khác. Làm như vậy coi như phạm giới tà dâm vô tình phá nát hạnh phúc gia đình người. Không được nói dối để hại người, nếu nói dối để cứu người giúp người thì không sao. Không được uống rượu say sưa và dùng những chất kích thích như xì ke ma túy, vì là nhân dẫn đến si mê đọa lạc gây đau khổ cho nhiều người.

Xưa nay các vị vua thời phong kiến đều cho rằng mình là thiên tử thay trời trị vì thiên hạ, họa hay phúc của con người đều được vua sắp đặt nên làm vua thì muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, không ai có quyền cãi lại. Chính vì quan niệm độc tôn đó, đã làm cho thế giới loài người phải chịu khỗ đau bởi quyền lực phong kiến. Ngày nay trên đà tiến của nhân loại con người thông minh hơn, nên đã thấy rõ ràng thế giới này là trùng trùng duyên khởi. Tất cả mọi hiện tượng sự vật tương quan, tương duyên, tương sinh lẫn nhau theo chiều nhân duyên.

“Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”.

Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõ lý nhân quả. Lý nhân quả là nền tảng cơ bản sống còn của con người, nếu chúng ta biết áp dụng vào thực tiển thì người người sẽ được cơm no áo ấm, nhà nhà an vui hạnh phúc, xã hội sẽ không còn lầm than đau khổ vì con người biết sống yêu thương hơn.

TÌNH THƯƠNG VÀ HẬN THÙ

Nhân loại lúc nào cũng chìm ngập trong binh đao và khói lửa, cũng chỉ vì lòng tham không bờ bến. Từ việc tranh giành từng tấc đất cho đến các tài nguyên thiên nhiên, mà con người đành giết hại lẫn nhau. Vua Trường Thọ là một người nhân từ đạo đức, không bao giờ dùng uy quyền thế lực để trị nước, ông ta dùng tâm từ bi kêu gọi mọi người hãy sống đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, nhờ vậy người dân của nước ông luôn sống trong ấm no và hạnh phúc. Vua Phên một nước láng giềng biết được nhược điểm đó, nên muốn xua quân tìm cách xâm lăng mở mang bờ cõi. Quần thần trong nước biết được hung tin nên đề nghị nhà vua cho xuất binh để bảo vệ nước nhà.

Vua Trường Thọ nghĩ đến thảm cảnh con người máu đổ xương rơi, kẻ mất cha người mất mẹ, vợ trẻ chờ chồng mòn mõi, con côi buồn tủi khóc cô đơn, gia đình ly tán. Kẻ sống và thắng cuộc thì đắc ý kiêu hãnh, kẻ chiến bại thì máu đổ đầu rơi gây nên nỗi oán hận vô cùng, chiến tranh loạn lạc, kẻ khóc người cười. Trong cuộc binh biến mấy ai dám đảm bảo an toàn mạng sống, vua nghĩ vậy liền cảm thấy tâm cang héo sầu và lắc đầu chán ngán con người sao quá tham tàn?

Không còn con đường nào khác, nhà vua quyết định từ bỏ ngai vàng và dẫn thái tử Trường Sanh vào núi tu hành, bỏ mặc cho thế sự đến đâu thì đến. Hai cha con bây giờ trở nên người bần hàn ở nơi rừng sâu nước độc, vui thú tu hành nơi hang sâu núi thẳm. Hằng ngày thái tử đi tìm hoa quả rừng để cúng dường cho cha. Một hôm đang ngồi tịnh tọa trong hang động, bổng từ xa có một người đang tiến gần chỗ nhà vua, thốt lên tiếng vui mừng, a nhà vua đây rồi. Người đó nói, hiện nay kinh thành đã bị vua Phên chiếm rồi và còn dán thông báo tầm nã quân vương. Dân tình bây giờ đang sống trong phiền muộn khổ đau, họ đang oán trách nhà vua vì bỏ trốn, mà dân chúng phải chịu lầm than cơ cực.

Vua nghe vậy trong lòng cảm thấy xót xa thương cảm, không lẽ chỉ vì ta mà dân chúng phải chịu đau khổ lầm than? Ta đã nguyện hy sinh bản thân này để mọi người sống trong an lạc thái bình, ta phải trở về nạp mạng để muôn dân được ấm no hạnh phúc. Nói rồi, vua liền viết mấy chữ vào thân cây để cho thái tử biết. Thôi chúng ta đi ngay bây giờ. Trường sanh trở về cầm giỏ trái cây đầy ắp trên tay, nhưng không còn thấy cha mình đâu nữa. Chàng cứ tưởng rằng cha mình dạo quanh đâu đó. Nhưng, vô tình chàng đọc được dòng chữ trên cây biết cha mình gặp nạn, nên theo đường cũ chàng trở về kinh thành. Từ xa chàng đã thấy nhiều người nhốn nháo trước cổng thành, linh tính có điềm xấu sắp sữa xảy ra. Lúc này vua Trường Thọ đã bị đưa lên giàn hỏa chuẩn bị thiêu sống, dân chúng bao quanh lấy giàn hỏa khóc lóc rất thảm thương, họ đang thương tiếc cho vị vua hiền từ đức độ phải chịu chết để dân chúng không bị cảnh lầm than cơ cực.

Thái tử nhanh chân len lõi đến tận giàn hỏa và chàng cố tìm cách để cho vua cha nhìn thấy mình. Lúc này đã đến giờ châm lửa, vua Trường Thọ liền lớn tiếng nói rằng: Này thái tử con ta hãy nên lấy tình thương xóa bỏ hận thù, đó là lời cuối cùng của cha mong con ghi nhớ để cha yên lòng ra đi. Giàn lửa bốc cháy lên hừng hực, như reo hò trong tiếng hát. Người con buồn bã cố nuốt hận trong lòng, nghĩ rằng mình phải trả thù cho cha. Hình ảnh nhà vua chết đau thương trên giàn hỏa, đã làm cho đứa con căm thù lên tột độ.

Nhưng nhớ tới lời cha dặn dò lần sau cuối, thái tử cũng không cầm được nước mắt. Lời người cha cứ văng vẳng bên tai, con hãy lấy từ bi xóa bỏ hận thù, nhưng không thể được con phải quyết chí trả thù. Vì nó đã giết cha ta, đã cướp đất nước của ta, thù này quyết trả. Thái tử quyết tâm báo thù, nên đã ở lại kinh thành tìm cách làm quen với các quan cận thần. Vốn khỏe mạnh và thông minh nên thái tử đã xin vào phụ việc trong nhà một quan đại thần. Nhờ siêng năng cần mẫn, lại có sức khỏe hơn người nên chỉ trong thời gian ngắn chàng đã được lòng vị quan.

Một hôm hai người đang trò chuyện với nhau rất là thân mật, vị quan mới hỏi ngươi còn tài năng nào đặc biệt nữa không. Dạ thưa đại quan tôi có tài nấu ăn. Ngày hôm sau thái tử được giao nhiệm vụ nấu ăn để thử tài nghệ của chàng đầu bếp mới này. Không ngờ chàng quá tài giỏi, nấu ăn ngon hơn các đầu bếp trong nhà. Vị quan vì muốn khoe tài với đức vua mình có người đầu bếp giỏi, nên ông ta cung thỉnh nhà vua đến dự tiệc tại tư gia. Nhà vua có dịp được thưởng thức những món ăn tuyệt hảo, nên rất thích người đầu bếp. Cuối cùng nhà vua ra lệnh, cho dời anh chàng đầu bếp giỏi về nấu ăn cho ngài.

Nhờ tài nấu ăn ngon, nên chàng đã lấy được lòng vua Phên và sau đó trở thành kẻ hộ vệ tâm phúc nhất, nên vua đi đâu chàng cũng được đặt cách theo sau hầu cận. Một hôm trong lúc đi săn hai người mải mê chạy theo con mồi, nên vô tình lạc vào rừng sâu. Trời đã tối dần, mà đoàn tùy tùng cũng chẳng thấy đâu vua đành phải ngủ lại dưới gốc cây cổ thụ. Thái tử lúc này đang đứng kế bên hầu cạnh nhà vua, giờ thì mạng sống của vua nằm trong tay thái tử. Chàng định rút kiếm ra nhưng nhớ lời cha dặn, chàng không nỡ xuống tay. Lúc này vua Phên vừa giựt mình tỉnh giấc, vì đã trải qua một cơn ác mộng thật là kinh hoàng trong lúc mơ màng, nhà vua thấy có người muốn giết mình.

Khanh ơi, trẩm vừa chiêm bao thấy thái tử con vua Trường Thọ vừa tha tội chết cho ta, vậy đó là điềm lành hay điềm dữ. Dạ thưa ngài, khanh chính là thái tử đây, vua nghe nói lông tóc đều dựng đứng. Bàng hoàng sửng sốt một hồi lâu mới lấy lại bình tỉnh, vua Phên nói đây là sự thật hay là chiêm bao. Trước tấm lòng bao dung và độ lượng của thái tử làm vua Phên cảm động và ăn năn hối lỗi vô cùng. Vua nói, ta vì tham tàn bạo ngược mà giết oan biết bao người lương thiện, chiến tranh lúc nào cũng chết chóc tang thương chất chứa hận thù ngất trời cao. Đều do lòng tham muốn quá đáng của con người mà gây nên tội lỗi.

Ta bây giờ đã hiểu ra, không có gì cao cả và quý hơn bằng tình thương yêu chân thật của con người. Trời dần sáng vua cùng thái tử tìm cách trở ra bìa rừng gặp lại đoàn tùy tùng. Vua hỏi, các ngươi biết người cùng đi với ta là ai không? Đó là thái tử con vua Trường Thọ mà ta đã hỏa thiêu, người chính là vị ân nhân của ta vì lòng nhân ái mà quên hận thù. Sau đó vua Phên ra lệnh cho toàn thể quan quân hãy mau rút lui về, trả lại đất nước cho thái tử. Câu chuyện trên đã nói lên tấm lòng từ bi cao cả không thể nghĩ bàn của vua Trường Thọ và tấm lòng cao thượng của thái tử. Vua Trường Thọ thà chịu chết để cho muôn dân được sống còn, khỏi phải bị chiến tranh tàn sát giết hại lẫn nhau gây đau thương tang tóc hận thù. Còn thái tử nhớ lời cha dạy nên đã mở rộng tấm lòng, lấy tình thương để chuyển hóa hận thù. Nhờ vậy hai nước kết tình láng giềng cùng đóng góp chia sẻ, trong tình đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

Như chúng ta đã biết, không có gì quý hơn khi mọi người sống thương yêu và hiểu biết, bao dung và độ lượng, từ bi và tha thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.

PHẬT VÀ MA

Có một chàng nghệ nhân rất nỗi tiếng vì tài năng của mình, nhưng anh ta lúc nào cũng tỏ vẻ khó chịu vì muốn tạc một tượng Phật và ma quỷ. Thực tế thì anh chưa tìm ra hình mẫu lý tưởng nào cho phù hợp với ước muốn của mình, trong lúc đang suy tư tìm tòi thì có một người bạn rủ đi chùa lễ Phật. Anh ta hỏi, Phật ở đâu. Người bạn nói đi thì biết. Một cơ hội ngẫu nhiên anh ta cùng bạn đến chùa lễ Phật, được vị sư trụ trì tiếp đãi, với phong cách trang nghiêm, điềm đạm và có vẻ tự tại trong cuộc sống nên đã hấp dẫn anh nghệ nhân.

Lần đầu tiên được gặp vị sư, anh ta hoan hỷ phát tâm cúng dường một số tiền lớn với điều kiện, ngài phải làm người mẫu để anh ta tạc tượng. Bức tượng đã làm xong trong thời gian ngắn, ai nhìn qua cũng trầm trồ khen ngợi vì phong thái trang nghiêm trong sáng lạ thường. Ai được thấy cũng đều quỳ xuống đảnh lễ với tâm cung kính hết sức chân thành. Từ đó về sau không ai còn gọi anh ta là nghệ nhân nữa, mà gọi anh ta là bậc Thánh tượng.

Tiếp theo đó anh ta chuẩn bị công trình tạc tượng ma quỷ, nhưng hình dáng của ma quỷ ở đâu để anh tạc đây, đó là vấn đề nan giải. Phải mất một thời gian dài để tìm người nào hung dữ nhất, nhưng không có người nào có hình dáng làm anh vừa ý. Cuối cùng anh cũng tìm được người như ý muốn đang ở trong tù, với tội giết người đang chờ bản án tử hình. Anh rất phấn khởi vì tìm được một người giống ma quỷ đâu phải dễ, nên khi đối diện với tử tù để chuẩn bị tạc tượng, tên tử tù khóc rống lên như đưa ma mẹ. Anh nghệ nhân ngạc nhiên hỏi, bộ ông sợ chết hả. Ngươi có nhớ ta không, lần trước tạc tượng Phật lấy ta làm mẫu, giờ tạc tượng ma cũng lấy ta làm mẫu, sao lại oan gia trái chủ như thế này.

Ngươi tự nhiên, biến ta từ Phật thành ma quỷ liền. Anh nghệ nhân nói, sao có chuyện lạ kỳ như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn. Tôi khi trước tạc tượng Phật lấy hình dáng ngài làm chuẩn, với phong thái siêu phàm thoát tục, còn ông bây giờ hãy xem lại hình dáng của mình đi, thật đáng giống ma quỷ quá trời. Ông không biết đó sao, vì trước kia ông cúng cho ta một số tiền quá lớn, nên ta không kiềm chế được bản thân, do đó vui chơi trác táng rơi vào nghiện ngập ma túy, cuối cùng tiền hết tật mang. Ta vì không chịu nỗi cơn nghiện hoành hành, nên túng thế đi cướp giựt của người khác và phạm tội cướp của giết người, giờ phải chịu bản án tử hình chờ ngày xử trảm. Giờ đây ta vì buồn rầu, lo sợ, tiếc nuối thân mạng nên không ăn, không ngủ được mà ra nông nỗi này. Anh nghệ nhân nghe lời trình bày thống thiết đó cảm thấy xúc động nghẹn ngào, không ngờ bản tính con người thay đổi quá nhanh, vì chút đam mê dục vọng thấp hèn mà thân tàn ma dại như thế này.

Anh ta mất thấy tai nghe sự thật quá phủ phàng, nên không còn tâm huyết làm việc nữa quyết định từ bỏ nghề nghiệp này, do đó bức tượng ma quỷ dang dỡ không thành. Vì vậy cho đến ngày hôm nay, không ai biết chính xác về tướng trạng của ma quỷ như thế nào. Chỉ biết rằng nếu tâm tư suy nghĩ xấu ác và hành động vô lương tâm luôn làm hại người, hại vật, làm khổ đau cho thiên hạ thì ma quỷ hiện tiền. Ngược lại nếu tâm trong sáng thanh tịnh không chút bợn nhơ hay làm việc thánh thiện giúp người, cứu vật, thì Phật hiện tiền, Phật hay ma cũng từ tâm niệm tốt xấu của chính mình tạo ra.

Vị sư ở câu chuyện trên trước kia nhờ nương thầy lành bạn tốt, nên có nhân duyên xuất gia tu hành thanh tịnh do đó phát ra tướng tốt giống Phật, nhưng vì ỷ lại mình đã thành tựu đạo pháp nên mặc tình ăn chơi dong ruỗi, lấy phòng trà tửu điếm làm bạn, để rồi bị dòng đời cuốn trôi và cuối cùng phải chịu thân tàn ma dại chờ ngày xử án. Tâm Phật hay ma chỉ trong một niệm, nếu ta huân tập tâm ma thì hiện hình ma, nếu ta biết gieo trồng hạt giống Phật, thì Phật có mặt khắp nơi. Tâm Phật hay ma là do chính mình tạo lấy, không có một đấng quyền năng hay một phép lạ nào làm cho ta thành Phật hay thành ma. Trong thiền sử Trung Hoa có câu chuyện hết sức thú vị cũng nói về ma với Phật. Cư sĩ Tô Đông Pha một hôm đến chùa Kim Sơn để đàm đạo với thiền sư Phật Ấn.

Cư sĩ hỏi này thiền sư, ngài thấy tôi giống cái gì?

Ô, ông rất trang nghiêm, trông giống Phật hết sức.

Tô Đông Pha nghe xong cảm thấy hưng phấn và tâm đắc vô cùng.

Thiền sư Phật Ấn mới hỏi lại cư sĩ, ông thấy tôi giống cái gì?

Trông thiền sư giống một đống phân bò.

Thiền sư nghe xong, mà chỉ mỉm cười.

Cô em gái cắc cớ hỏi, hôm nay anh đánh cờ thắng thiền sư hả ?

Đâu phải, chuyện này mới quan trọng chớ. Anh đối đáp lý thiền. Cái lão già ấy không còn lý lẽ để nói, đành câm miệng lại.

Nghe kể xong, biết anh mình bị thất bại mà không biết. Anh thua rồi anh ơi.

Thua chỗ nào, em nói nghe coi.

Tâm của thiền sư như tâm Phật, cho nên nhìn anh chẳng khác gì Phật. Còn tâm anh như đống phân bò, cho nên nhìn thiền sư giống như phân bò.

Tô Đông Pha nghe nói vậy lấy làm hổ thẹn, vì biết mình hiểu thiền chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Thiền sư, mới đúng thật là thiền sư.

Thiền không phải là hiểu biết suông, mà cần phải vận dụng vào trong thực tế đời sống hằng ngày. Không phải biện luận giỏi là trí tuệ sáng suốt Tô Đông Pha cứ nghĩ rằng đối đáp trôi chảy là chứng ngộ lý thiền, nhưng tâm ông ta còn ma mị nhiều quá thấy cái gì cũng đen tối hết, do đó cống cao ngã mạn sinh tâm coi thường Thiền sư. Nào ngờ mình chỉ hiểu thiền trong kiến thức tối đen, vậy mà dám ngông nghênh coi thường thiên hạ. Quả thật Tô Đông Pha có mắt như mù, may nhờ có cô em gái lanh lợi nên chặt cho anh ta một phát, bao nhiêu hiểu biết suông đều rơi rụng hết.

Trong cuộc hành trình trở về đất Phật, không phải ai cũng dễ dàng lãnh hội và sống được với chính mình. Tâm ta ma thì thấy ai cũng ma, tâm ta Phật thì thấy bầu trời quang đảng và trong sáng không ngần mé. Khi mới sinh ra con người bản tính vốn thiện, khi bắt đầu lớn lên tiếp xúc với cuộc đời thì nó sẽ phát triển theo hai hướng tốt hoặc xấu. Được thân cận gần gũi bậc thiện tri thức, thì con người có thể có một nhân cách sống đạo đức chừng mực và đi theo chiều hướng tốt đẹp. Ma hay Phật ngay nơi một tâm niệm, tâm thanh tịnh sáng suốt thì thấy biết rõ ràng không sai lệch và ngược lại thì thấy biết chạy theo điên đảo vọng tưởng vậy.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.