Một Kỳ Quan Của Đất Nước: Ngũ Hành Sơn

Trong thời kỳ người Chiêm Thành cai trị vùng đất nầy, người Chàm đã dùng nơi đây làm một Trung Tâm sùng bái các vị Thần theo tìn ngưỡng của Bà La Môn Giáo, mà nay còn lưu lại di tích, qua những tượng Thần bằng đá, các đền tháp, và hình đồ khắc trên vách của chùa Linh Ứng, chùa Vân Thông, trong động Huyền Không. Sau cuộc Nam Tiến của vua Lê Thánh Tôn vào thế kỷ 15, và việc chuyển nhượng đất đai, người Chàm bị đẩy lui về phía Nam, thì Ngũ Hành Sơn được xây dựng chùa chiền và biến thành một thắng cảnh để thờ phượng. Dưới thời Pháp thuộc, Ngũ Hành Sơn bị tàn phá nặng nề, vì quân Pháp nghĩ rằng người Chàm đã chôn nhiều vàng bạc châu báu của cãi trong các hòn núi Ngũ Hành, dưới những khối đá ngụy trang, nên họ đã cho đào bới mọi nơi, không nương tay. Tương truyền rằng chúa Nguyễn Ánh có lần thất trận vối quân Tây Sơn, chạy vào trú ẩn trong Ngũ Hành Sơn, và nhờ một tiên nhân chỉ dẫn lối thoát, mới cứu được binh sĩ khỏi đói. Vì vậy sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Ngài phong tước cho núi nầy, nhất là hon Thủy Sơn. Và cũng vì vậy, vua Minh Mạng đã ba lần ngự du để tu bổ và xây dựng chùa Tam Thái và động Hoa Nghiêm, đúc chuông và đúc các tượng Phật, đặt lại tên các chùa động và các bia ký. Dưới triều vua Gia Long, người ngoại quốc được phép viếng thăm Ngũ Hành Sơn dễ dàng, nhưng qua thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Triều Đình Huế có chính sách bài ngoại, nên việc thăm Ngũ Hành Sơn khó khăn hơn. Đến thời kỳ chiến hạm Pháp đổ quân lên Đà Nẳng năm 1859, việc đi lại càng khó khăn hơn. Khách hành hương viếng cảnh ngày một thưa dần, và 5 cụm Hành Sơn lại rơi vào tình trạng điêu tàn, đổ nát.

Ngũ Hành Sơn không phải là ngọn núi cao, nhưng nó mang tính chất đặc thù, tạo thành một thắng cảnh đặc biệt của đất nước. Và danh tiếng Ngũ Hành Sơn tỏa ra khắp mọi nơi, trong ngoài nước đều biết. Về mặt tâm lý, Ngũ Hành Sơn đã cung ứng các nguồn mỹ cảm và siêu nhiên, đưa người du ngoạn hay các mặc khách tao nhân nhiều thích thú vui say, giữa cảnh non xanh nước biếc. Về mặt tâm linh, cảnh Ngũ Hành Sơn tạo cho khách viếng thăm thấm nhuần phong thái trầm tư mặc tưởng, tự nhiên thấy mình rũ sạch bụi trần, thoát khỏi vòng tục lụy. Nên có câu:

Vọng Hải Đài vui hưởng gió Nhân
Thân thế cuộc trần ai rũ sạch
Vân Thông Động mặc dầu nhẹ lách
Lịch Đào Nguyên thắng cảnh nào hơn.

Sau khi thưởng thức cảnh trí thiên nhiên, du khách sẽ dùng thời gian viếng các động Tàng Chơn, Linh Nham, và nhất là động Huyền Không. Động Hoa Nghiêm đượm vẻ thâm u, trầm tịch, gạn lọc tất cả những vọng động nhộn nhịp dừng ngay trước cửa động, để bước vào trong, nhìn lên một tượng Phật cao lớn, đồ sộ hiện ra với cặp mắt lim dim đầy từ, bi, hỷ, xã của Đức Đại Từ Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Động Huyền Không với danh xưng bao hàm ý nghĩa huyền diệu của cái KHÔNG, một cái Không đầy thanh tịnh, trang nghiêm, truyền cảm “Thuyền, Lạc, Ngã, Tịnh”. Cái Không cần thiết để đạt đến đạo quã viên thành. Xem như vậy, Ngũ Hành Sơn không những dành cho du khách bốn phương đến giải trí thanh tao, mà còn là nơi phước địa chung linh, để các vị tiên nhân và thần linh xuất hiện, vừa để cứu nhân độ thế, vừa để dạy dỗ những người có duyên tu học. Người ta không quên, cũng tại nơi đây, chí sĩ Trần Cao Vân, một nhà cách mạng thâm nho, cây cột trụ trong cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân, đã được một tiên ông diễm đạo và trao cho một thiên thư kỳ bí, giảng giải Trung Thiên Dịch Lý, thuyết căn bản của Trung Thiên Đạo, một triết thuyết chủ trương dung hòa giữa Tiên Thiên và Hậu Thiên Dịch Lý, nhất quán chơn truyền, khai minh điểm hóa tổng hợp một nền văn hóa bao gồm các tinh hoa của Tam Giáo Đồng Nguyên, xây dựng một nền Đại Đạo cho nước Việt Nam.

Theo sự nghiên cứu thâm hậu về địa lý phong thủy của những địa lý sư tăm tiếng, thì Ngũ Hành Sơn tuy mọc gần biển, song được xem như một chi nhánh của dãy Trường Sơn hùng vĩ, có nhiệm vụ chính yếu là quân bình vị trí hai miền Nam Bắc Việt Nam, quy tụ các long mạch, đã phát huy một quá trình sinh hoạt về chính trị và văn hóa suốt 4000 năm lịch sử. Thật vậy, xem bản đồ Việt Nam, địa thế hình chữ S, miền Bắc phình ra như một thúng lúa, miền Nam tỏa ra như một thúng gạo, và miền Trung cong như một đòn gánh, gánh cả hau đầu, minh họa rõ ràng là miền Bắc có núi Tam Đảo (tức Ba Vì), thuộc tỉnh Vĩnh Yên, mang số 3, miền Nam có núi Thất Sơn (bảy Núi), thuộc tỉnh Châu Đốc, mang số 7, và Ngũ Hành Sơn (núi Non Nước), thuộc tỉnh Quảng Nam, mang số 5, với vị trí nằm trung tâm của đất nước, và con số 5 là con số trung hòa, giữa số 3 và số 7, như vậy 3+7=10, chia 2=5, cho nên từ ngày Gia Long lên ngôi đến nay, qua bao nhiêu thể chế chính trị, dù là quân chủ, dân chủ, cộng hòa hay cộng sản, các vị lãnh đạo tối cao của Việt Nam, như Hoàng Đế, Tổng Thống, Chủ Tịch Nước, cũng như các nhà lãnh tụ cách mạng quốc gia tiếng tăm lừng lẫy đều là người sinh trưởng, xuất phát từ miền Trung cả… Với vị trí trung hòa nói trên, Ngũ Hành Sơn là điểm hội tụ đủ Ngũ Hành, một phước địa chung linh, động thiên thắng thưởng, sơn kỳ thủy tú, nhất quán chơn truyền, tập hợp được các lực lượng dân tộc Việt Nam thành một khối duy nhất, không phân biệt địa phương, sắc tộc, chính kiến hay tín ngưỡng để hình thành một nền văn hóa nhân bản, dân chủ, đặc thù của Việt Nam, làm phương hướng phát triển tương lai cho đất nước.

Nói tóm lại, Ngũ Hành Sơn với cảnh trí và hình dáng của một kỳ quan thiên nhiên, với nhiều sử tích hàm chứa một quá khứ lịch sử đầy truyền thuyết, một lịch sử còn tồn tại của xứ Đàng trong xa xưa, của Vương Quốc Chiêm Thành cổ kính, của quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam trong việc dựng nước và phát triển đất nước.

Như vậy, Ngũ Hành Sơn không còn là một thắng cảnh riêng của tỉnh Quảng Nam, hay của miền Trung nghèo nàn, luôn luôn hứng chịu bao thiên tai thủy ách, mà còn là một thắng cảnh lịch sử vô cùng quan trọng đến hình thái phong thủy của đất nước, ảnh hưởng trực tiếp và sâu xa, lâu dài đến vận mệnh của Dân Tộc và Đất Nước của dòng giống con Hồng, cháu Lạc.

Lý Trường Trân – The source: Báo Saigon Time, USA

Vọng Các Đài

http://www.hophap.net

This entry was posted in Văn Hóa, Đời Sống. Bookmark the permalink.