Tăng-già thời Đức Phật – Chương II

“Thế rồi Thế Tôn nói với năm vị Tỳ-kheo như sau: “Này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan mà kẻ tu tập tâm linh phải tránh xa. Hai cực đoan ấy là gì? Một cực đoan là một cuộc sống dục lạc, buông mình theo dục lạc và sự hưởng lạc: đấy là thấp kém, hèn hạ, trái với trí tuệ, không xứng đáng, rỗng tuếch. Này các Tỳ-kheo, cực đoan kia là một cuộc sống khắc khổ: đấy là buồn tẻ, không xứng đáng, rỗng tuếch. Này các Tỳ-kheo, Như Lai đã xa rời hai cực đoan ấy và đã phát hiện ra trung đạo, con đường sáng mắt, sáng tâm, con đường dẫn đến an tịnh, trí tuệ, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỳ-kheo, Trung đạo mà Như Lai đã phát hiện, làm sáng mắt, sáng tâm, dẫn đến an tịnh, trí tuệ, giác ngộ, Niết-bàn là gì? Ðấy là Bát Chánh Ðạo gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này các Tỳ-kheo, đấy là Trung đạo mà Như Lai đã phát hiện làm sáng mắt, sáng tâm dẫn đến an tịnh, trí tuệ giác ngộ, Niết-bàn.

“Này các Tỳ-kheo, đây là Khổ đế: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, chia cách cái mà ta thích là khổ, gặp gỡ cái ta không thích là khổ, không được cái ta muốn là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

“Này các Tỳ-kheo, đây là Tập đế: chính sự khát ái hiện hữu đưa đến tái sinh, kèm theo dục lạc, sự khao khát dục lạc, tham ái, nó cứ tìm kiếm khắp nơi sự dục lạc, sự khao khát dục lạc, sự khao khát được hiện hữu, sự khao khát của cải.

“Này các Tỳ-kheo, đây là Diệt đế: dập tắt sự khát khao ấy, do sự tiêu diệt hoàn toàn các dục vọng, bằng cách loại trừ dục vọng, từ chối nó, thoát ra khỏi nó, không dành chỗ nào cho nó.

“Này các Tỳ-kheo, đây là Ðạo đế: đấy là Bát Chánh đạo tức là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định

“Ðây là Khổ đế. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy m trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế. Khổ đế này cần phải hiểu nó. Khổ đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Ðây là Tập đế. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế. Tập đế này cần phải hiểu nó. Tập đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Ðây là Diệt đế. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế. Diệt đế này cần phải hiểu nó. Diệt đế này, Ta đã hiểu nó. Như thế đấy này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác đã mở ra như thế.

“Ðây là Ðạo đế. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, tuệ giác (giác trí) đã mở ra như thế. Ðạo đế này cần phải hiểu nó. Ðạo đế này Ta đã hiểu nó. Như thế đấy, này các Tỳ-kheo, chính mắt Ta đã thấy những ý ấy mà trước đây không ai từng nghe nói tới. Với Ta, tuệ trí, tuệ kiến, thắng trí, giác trí đã mở ra như thế.

“Và, này các Tỳ-kheo, khi nào mà từ Tứ Diệu Ðế này, Ta không chứng đắc được tuệ kiến và tuệ giác đích thực một cách viên mãn theo ba chuyển và mười hai hành, (*) thì này các Tỳ-kheo, khi ấy Ta biết rằng trong cõi trời, cõi Ma vương, Phạm Thiên, giữa tất cả chúng sinh với các ẩn sĩ và các Bà-la-môn, Trời, Người, Ta chưa đạt được quả Phật tối thượng. Nhưng, này các Tỳ-kheo, khi nào mà từ Tứ Diệu Ðế này ta chứng đắc được tuệ kiến và tuệ giác đích thực một cách viên mãn theo ba chuyển và mười hai hành, thì này các Tỳ-kheo, khi ấy Ta biết rằng trong cõi đời này, trong các cõi Trời, cõi Ma vương và Phạm Thiên, giữa tất cả chúng sinh với các ẩn sĩ, Bà-la-môn, Trời, Người, Ta đã đạt đến hàng Phật tối thượng. Và Ta đã biết và thấy như thế: Ta được giải thoát mãi mãi. Ðây là kiếp cuối cùng của Ta. Từ nay, Ta sẽ không còn tái sinh nữa”.

“Thế Tôn dạy như thế và năm vị Tỳ-kheo hoan hỷ, tôn vinh lời dạy của Ngài”.

(*) Ghi chú: 3 chuyển là Thị chuyển – chỉ cho thấy Tứ đế; Khuyến chuyển – khích lệ cho hiểu rõ Tứ Ðế; Chứng chuyển – Thế Tôn đã tự thân chứng ngộ (và khuyên đệ tử tự mình chứng ngộ Tứ đế). 12 hành: mỗi lần chuyển có 4 hành: khổ, tập, diệt, đạo; với 3 lần chuyển tổng cộng là 12 hành.

Tiếp theo, đức Phật dạy về vô thường, vô ngã. Tóm lại, trong lần chuyển pháp luân đầu tiên của đức Phật trước năm Tỳ-kheo nhóm Tôn giả Kiều-trần-như (Kodannà), Ngài đã tóm tắt tất cả giáo lý của Ngài, từ đó trong suốt bốn mươi bốn năm hoằng hóa (thường nói là bốn mươi lăm năm hoằng hóa), Ngài đã triển khai thành chi tiết, hệ thống, đặc biệt là Tứ Ðế, Tam Pháp ấn, Thập nhị nhân duyên, đề tài mà đức Phật đã quán sát dưới cội Bồ-đề, giải thích toàn bộ vũ trụ quan của Phật giáo, bao gồm tri thức luận, đạo đức luận…

Sau bài thuyết pháp đầu tiên này, Tôn giả Kiều-trần-như đắc quả Dự lưu (quả vị thứ nhất trong bốn Thánh quả) và cả năm vị Tỳ-kheo đều xin quy y. Bốn ngày liên tiếp sau đó đức Phật dạy Ngũ uẩn và Vô ngã, tất cả năm vị đều đắc quả A-la-hán là quả vị tối thượng trong hàng đệ tử Phật. Ðấy là năm đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật. Ðấy là Giáo đoàn, Tăng-già Phật giáo đầu tiên, cơ sở cho Giáo hội Phật giáo sau này.

Sau đó, cũng tại vườn Migadaya (Lộc Uyển) Phật còn giảng về Tứ Ðế cho Yasa (Da-xá), một thanh niên, con một trưởng giả ở Baranasì, bỏ nhà vượt sông Varana (Ba-la-na) đến ra mắt đức Phật. Yasa đắc A-la-hán. Bốn bằng hữu nữa của Tôn giả Yasa, trong hàng trưởng giả của Baranasì là Vimàla (Tỳ-ma-la), Subàhu (Tu-bà-hầu), Purnajit (Phú-lan-ca-na) và Gavàmpati (Già-bà-bạt-đế) cũng xin đến quy y, nghe Pháp Phật và đều đắc quả A-la-hán. Bấy giờ, Giáo đoàn của Phật, ngoài bậc Ðại Giác, gồm thêm mười vị A-la-hán. Những, cũng tại Baranasì, đức Phật độ thêm đến vài chục vị nữa, những vị này ở các nước lân cận, đều là bạn bè, thân thích của Tôn giả Yasa, hoặc của các vị A-la-hán vừa đắc quả. Khi Giáo đoàn gồm được sáu mươi vị A-la-hán, đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và Người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự toàn hảo viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được giải thoát: những kẻ ấy sẽ hiểu pháp”. (Mahàvagga I, 11 – Ðại phẩm)

Sứ mệnh phát triển Phật giáo, giảng pháp cứu đời, cụ thể là chủ trương thành lập Chiêu đề Tăng đã được thể hiện rõ ràng. Dân chúng đã quen thuộc, đã để ý, đã kính trọng các vị đệ tử đức Phật. Hẳn nhiên các đệ tử tại gia của đức Phật đã trở thành một lực lượng cơ sở. Ta đã thấy có hai đệ tử tại gia đầu tiên của Ðức Phật là hai thương gia tại Uruvela, một trường hợp điển hình khác là cha mẹ của Tôn giả Yasa: hai vị hay tin con mình đã bỏ nhà cửa để quy y đức Phật, liền tìm đến đức Phật để đòi con mình về, nhưng sau khi đảnh lễ Phật, được Phật nói Pháp cho nghe, cả hai vị đều xin quy y, thọ giới tu tại gia.

Khi các Tỳ-kheo Thánh giả đã đi khắp bốn phương để hóa độ người, đức Phật trở lại Uruvela. Ðến mé sông Niranjara (Ni-liên-thuyền), Ngài gặp Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) (*) đang cùng năm trăm đệ tử tu tại đây. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Tôn giả đắc quả A-la-hán, liền giới thiệu hai em là Nadi Kassapa (Na-đề Ca-diếp) và Gaya Kassapa (Già-da Ca-diếp) đang lãnh đạo mỗi vị hai trăm năm mươi đệ tử đến quy y Phật. Hai vị này cùng rất nhiều đệ tử đắc A-la-hán.

(*) Ghi chú: Trong hàng đệ tử của đức Phật, có nhiều vị cùng có tên là Ca-diếp. Ba tôn giả Ca-diếp ở bờ sông Ni-liên-thuyền này không phải là tôn giả Ðại Ca-diếp (Maha Kassapa) mà về sau, sau khi đức Phật nhập diệt, đã thay đức Phật lãnh đạo Giáo hội.

Bấy giờ là năm thứ ba (mùa an cư thứ hai) sau ngày đức Phật thành đạo, đức Phật cùng đoàn đệ tử đông đảo của Ngài tiến lên phía Bắc hướng đến thành Ràjagaha (Vương Xá), thủ đô của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), trú tại một ngọn đồi gần thành.

Ðức Phật và giáo đoàn của Ngài đã chiếm được sự tín ngưỡng, ưu ái của dân chúng trong và ngoài thành Vương Xá. Vua Bimbisàra (Tân-bà-sa-la) lấy làm lạ: vị Sa môn đang ở ngoài thành kia có rất nhiều môn đệ, nhiều vị vốn đã là những Sa-môn nổi danh trước khi đến với Ngài; Ngài đã tự xưng là Phật. Nhà vua vừa thán phục, vừa hiếu kkỳ, đã đến mời đức Phật cùng đoàn Tỳ-kheo đệ tử Ngài vào thành độ trai. Thì ra vị Ðại-Sa-môn, đức Phật, chính là vị Sa-môn, nguyên là thái tử Siddhattha xứ Kapilavatthu, là vị tu khổ hạnh mà nhà vua đã một lần yết kiến tại núi Grudhakuta (Linh Thứu) và được hứa sẽ trở lại gặp vua sau khi chứng đạo. Nay vua lại được gặp đức Phật, nghe được Pháp, được tham hỏi về đủ các mặt kiến thức. Nhà vua rất khâm phục, kính mộ đức Phật, xin quy y và dâng cúng rừng Veluvana (Trúc Lâm) trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tinh xá, gồm giảng đường, phòng ốc, vật dụng đủ cho đức Phật và giáo đoàn tới cả một ngàn người của Ngài. Ðây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một khởi đầu của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thang của các đoàn Sa-môn lúc bấy giờ.

Ðến tháng Vesakhà (khoảng tháng 4 – 5 âm lịch) là tháng vào mùa mưa, cũng như các đoàn tu sĩ lang thang khất thực lúc bấy giờ, ngưng sinh hoạt khất thực để tìm chỗ trú cho hết mùa, đức Phật cùng đoàn Tỳ-kheo an cư tại Veluvana nơi đã được vua Bimbisàra chuẩn bị đầy đủ các tiện nghi.

Hai tháng sau mùa an cư này, nhân một buổi khất thực trong thành Ràjagaha (Vương Xá), Tôn giả Assaji (Át-bệ hoặc Mã Thắng) đã gặp Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Assajì thuyết phát cho Sàriputta về lý Duyên khởi và liền đó Sàriputta chứng quả Tu-đà-hoàn (Dự lưu). Sàriputta liền trở về miêu tả sự việc cho người bạn thân là Mogallàna (Mục-kiền-liên). Cả hai vị vốn là nhà trưởng giả, từng học giỏi thông suốt qua các vị thầy thời danh, làm đệ tử của đạo sĩ Sajaya và trước khi mất Sanjaya đã báo cho hai đệ tử lớn của mình biết rằng họ sẽ là đệ tử lớn của một vị Phật. Nay cả hai vị đã ngộ Phật pháp, liền đem hai trăm năm mươi đệ tử của mình đến quy y Phật và xin gia nhập Tăng đoàn. Cả hai Tôn giả đều đắc A-la-hán sau ít tuần lễ. Ðây là hai vị thông tuệ, biện tài nổi danh, có uy tín vào bật nhất trong hàng A-la-hán đệ tử Phật. Tôn giả Sàriputta được đức Phật chọn làm trưởng tử, thường được gọi là Chánh pháp Tướng quân, cùng với Tôn giả Mogallàna góp phần lớn lao trong việc xây dựng Giáo đoàn, giáo dục Tăng chúng, độ cho rất nhiều Tỳ-kheo tu học và đạt Thánh quả.

Trong mùa an cư (Vassa) mà cả ngàn vị Tỳ-kheo cùng chung sống tại Veluvana là một đặc điểm khác biệt với các đoàn Sa-môn khác lúc bấy giờ. Có lẽ do sự sống chung giữa các Tỳ-kheo trong mùa an cư này, một ít giới luật có tính chất nhẹ nhàng với hình thức “điều nên làm, điều không nên làm” có lẽ đã được đức Phật nêu ra. Và sau khi hai Tôn giả Sàriputta và Mogallàna cùng hai trăm năm mươi đệ tử vào Giáo đoàn thì Phật giáo đã thực sự lớn mạnh, đầy đủ yếu tố để trở thành một tôn giáo lớn nhất thời bấy giờ.

Ðức Phật và Giáo đoàn của Ngài đã vang danh khắp các vương quốc gần xa. Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) xứ Kapilavatthu hay tin con mình đã trở thành đấng giác ngộ lãnh đạo hàng ngàn Tỳ-kheo đang tỏa ra khắp nơi để truyền bá đạo pháp, rất nhiều vị là Thánh giả, được mọi người kính mộ. Nhà vua liền gởi một đoàn gồm một ngàn người đến Magadha thỉnh cầu Phật trở về thăm quê hương. Cả một ngàn vị gặp Phật, được nghe pháp, rất nhiều vị đắc Thánh quả, tất cả đều xin gia nhập Giáo đoàn. Vua lại gởi thêm một đoàn khác gồm một ngàn vị đến thỉnh cầu Phật; lần này cũng như lần trước, rất nhiều vị đắc Thánh quả và tất cả đều trở thành Tỳ-kheo, ở bên Phật. Cuối cùng, nhà vua phái Kàludàyyi, con trai một vị đại thần và vốn là bạn thân của thái tử Siddhattha từ thuở nhỏ, đến thỉnh cầu đức Phật. Chính Kàludàyi được nghe Pháp, được đắc quà A-la-hán, trở thành Tỳ-kheo, đệ tử Phật. Nhưng lần này đức Phật quyết định cùng đoàn Tỳ-kheo của Ngài đi ngược lên phía Bắc, băng qua sông Gange, tiến về Kapilavatthu.

Tại Kapilavatthu, từ vua Suddhodana đến cả triều đình, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, đều xin quy y Tam Bảo, làm đệ tử tại gia của Phật. Vua đắc quy y Tam Bảo, làm đệ tử tại gia của Phật. Vua đắc quả Tư-đà-hàm (Nhất lai, quả Thánh thứ hai), di mẫu của đức Phật, Maha Pajàpati, đắc Tu-đà-hoàn (Dự lưu). Ðặc biệt em trai của phật là Nanda (Nan-đà), con ruột Ngài là Rahula (La- -hầu-la), các hoàng thân Bhaddiyà (Bạt-đề), Anuruddha (A-nậu -lâu-đà), Ananda (A-nan), Bhaga (Ba-da), Kimbila (Kiếp-bà-la), Devadatta (Ðề-bà-đạt-da) và vị tôn giả làm nghề hớt tóc là Upàli (Ưu-ba-ly), một số đắc Thánh quả, tất cả đều xin gia nhập Giáo đoàn, được đức Phật chấp thuận.

Ðức Phật và đoàn Tỳ-kheo đệ tử rời Kapilavatthu để quay về an cư mùa mưa tại Ràjagaha, xứ Magadha, nhưng chưa bao giờ đi được bao xa thì một vị đại trưởng giả chủ ngân khố là Anatthapindika (Cấp Cô Ðộc) thỉnh cầu đức Phật cùng Giáo đoàn đến Sàvatthi (Xá-vệ) xứ Kosala (Câu-tát-la) để an cư tại vườn Jetavana (Kỳ-đà) và đã chuẩn bị thật đầy đủ. Nguyên trước kia Anathapindika đã có duyên gặp đức Phật tại Ràjagaha, đã cầu Phật đến Sàvatthi để mìn cúng dường một mùa an cư và được Phật hứa thuận. Nay đức Phật nhận lời thỉnh cầu, cùng đoàn Tỳ-kheo trở qua thành Sàvatthi để an cư tại Jetavana.

Năm 504 trước Tây lịch, tức năm thứ năm sau khi Phật thành đạo, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) sắp mất, đang hấp hối. Ðức Phật vội rời Sàvatthi để trở về Kapilavatthu gặp vua cha. Bên giường bệnh, đức Phật đã thuyết Pháp và nhà vua đắc quả A-la-hán trước khi lìa trần.

Trong dịp này, bà Mahapajàpatì (Ma-ha-ba-xà-ba-đề), di mẫu của Phật, cầu xin được xuất gia, gia nhập Giáo đoàn, thành lập đoàn Tỳ-kheo ni, đức Phật dứt khoát từ chối. Bà đã tự cạo đầu, khoác áo cà sa, theo chân Phật từ Kapilavatthu đến thành Vaisalì (Phệ-xá-ly). Cuối cùng, do Tôn giả Ananda năn nỉ giúp, đức Phật mới chấp thuận thỉnh cầu của bà và nêu ra “Bát Kỉnh Pháp”, nội dung nhằm đề cao tính chất cao trọng của Tăng đoàn trong việc hướng dẫn giáo dục Ni đoàn mà suốt đời một Tỳ-kheo ni phải tôn trọng. Thế là từ đây, đoàn Tỳ-kheo ni (Bikkhuni Sangha) do Mahapàjapatì lãnh đạo và giáo dục cùng với sự hỗ trợ của c1c Tỳ-kheo, sự điều động tổ chức và huấn luyện khéo léo của Mahapajàpatì, Ni đoàn lớn mạnh nhanh chóng. Nhiều Tỳ-kheo ni đắc quả A-la-hán, nhiều vị rất được uy tín đối với quần chúng nhân dân, với các triều đình. Ta có thể tìm thấy các trường hợp chứng quả, những bài kệ kỳ thú của nhiều Tỳ-kheo ni trong bộ Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ). Ví dụ như những trường hợp của các nữ trưởng lão Vimàla, Ambapalì, Kìsagotamì, Khemà, Dhammadinnà, Patacàre, v.v…

Tưởng cũng nên ghi nhận rằng có rất nhiều ý kiến của các luật gia, học giả về sau này về việc đức Phật đã tỏ ra thái độ khó khăn nghiêm khắc khi chấp thuận có Ni đoàn vào Giáo đoàn. Rất nhiều kinh sách Madhyamàgana, Anguttara, Gotamìsutta, nhiều bộ Vagga (Luật) đã ghi lại lời của đức Phật như sau:

“Này Ananda, nếu Ni đoàn không được nhận vào Giáo đoàn thì Thánh đạo có thể kéo dài lâu, có thể là một ngàn năm. Nhưng vì Ni đoàn đã được thâu nhận nên Thánh đạo sẽ không dài lâu; Chánh pháp sẽ tồn tại chỉ năm trăm năm”.

Dù có giải thích, bàn luận thế nào cũng không đủ để nêu ý kiến về thái độ và lời dạy trên của đức Phật. Khách quan mà xét thì vấn đề còn phải xét ở mức độ chính xác của việc sao chép Kinh, ở quan điểm xã hội bấy giờ, ở hoàn cảnh tự thân, gia đình, xã hội của người phụ nữ, ở ý nghĩa đằng sau lời dạy như sự dè chừng, sự giáo dục tâm lý v.v… Hơn nữa con số năm trăm hay một ngàn năm nói trên có thể chỉ có ý nghĩa giả dụ, tượng trưng, huống chi khoảng thời gian ấy so với kiếp kiếp luân hồi đau khổ của con người thực chẳng đáng kể chi! Lại nữa, Samyutta II (Tương Ưng II, Tạp A-hàm) còn giải thích thêm:

“Chánh pháp không mất đi khi Tượng pháp chưa xuất hiện, và khi Tượng pháp xuất hiện thì Chánh pháp mới mất đi. Sở dĩ có Tượng pháp là do Giáo hội thiếu tôn trọng Phật, Pháp, Tăng, thiếu tu tập tâm thức, thiền định”.

Như thế, Chánh pháp nếu có mất đi, há có thể quy vào việc do sự có mặt của Ni đoàn trong Giáo hội?

Vào năm thứ sáu, sau khi đức Phật thành đạo, giới luật dành cho Tỳ-kheo đã hình thành rõ nét hơn. Tôn giả Upàli, xuất gia nhân lần đức Phật trở về Kapilavatthu hai năm trước, là vị Trưởng lão gương mẫu trong giới hạnh, có năng khiếu phân tích, biện biệt về giới luật, đã được đức Phật lưu tâm dạy bảo về giới luật. Ðến năm thứ mười (có thể là năm thứ mười ba, theo một số tài liệu), luật Tạng đã hoàn tất bao gồm ba phần (Vagga): Pàtimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa), Mahà Vagga (Ðại phẩm) và Culla Vagga (Tiểu phẩm). Luật Tạng còn có sửa đổi, thêm bớt – thường là thêm – trong những năm tiếp theo, cả sau khi đức Phật nhập diệt và sau đó cả hàng thế kỷ.

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.