Thế Giới Cực Lạc – Chương 5

THỂ NGHIỆM BẤT LOẠN

Bất loạn là nội dung quan trọng tạo ra năng lượng chánh niệm lớn, theo đó ta sẽ cảm nhận được nhiều tiềm năng, kho tàng quí báu về tuệ giác, lòng từ bi, sự tha thứ.            Ta có thể ôm vào lòng người từng là kẻ thù, từng mang khổ đau cho ta. Chỉ cần một trạng thái bất loạn, ta có thể mở rộng từ bi đối với tất cả mọi người một cách dễ dàng.

Để đạt được trạng thái bất loạn, hành giả cần buông bỏ vọng tưởng mà trong đó sự lo âu, khủng hoảng là những kẻ thù nguy hiểm. Người ta có thể lo âu về quá khứ, tương lai, hiện tại, hoặc lo cho bản thân, gia đình, người thương, con cái…Sự lo âu chặt đứt trạng thái chánh niệm và làm mất năng lực của nhất tâm bất loạn. Khi đạt trạng thái nhất tâm bất loạn ở bước đầu, không có nghĩa hành giả đánh mất tính cách trách nhiệm như một thành viên trong gia đình, một công dân trong một quốc gia mà ngược lại nó giúp tăng cường năng lực của lao động, hiệu suất và thành quả đối với công việc đang dấn thân. Ai làm việc có sự chuyên tâm nhất ý thì hiệu quả sẽ cao và hạn chế được những tai nạn rủi ro về lao động, hạn chế sự phóng tâm dẫn đến tình trạng làm sai, kém chất lượng và hiệu quả.

Niệm Phật nhất tâm bất loạn có thể được ứng dụng trong lúc ta đang làm công việc ở một cơ quan, xí nghiệp hay sinh hoạt gia đình, tạo ra giá trị an lạc tâm linh. Để làm được điều đó, ta cần liên tưởng đến thanh nam châm chánh niệm của ta dính hít vào thanh nam châm danh hiệu của đức Phật A-di-đà, giữa chúng không còn khoảng cách nào để cho một vật khác có thể xen vào, trạng thái như thế gọi là bất loạn. Đôi lúc ta đang tập trung vào một đối tượng nhưng thỉnh thoảng vẫn bị tư tưởng khác chen vào, như ý niệm về cuộc sống hay những dòng cảm xúc buồn, vui v.v.. Trạng thái này gọi là nhất tâm nhưng chưa bất loạn. Do đó, ta khó có thể kéo dài trạng thái bất loạn trong một ngày huống hồ là bảy ngày. Được trạng thái nhất tâm trong một vài giờ thì dễ, nhưng để đạt trạng thái bất loạn lâu dài thì không phải là điều dễ thực hiện. Hình ảnh của thanh hít nam châm gắn liền với chánh niệm khi niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà sẽ tạo ra trạng thái an vui và tỉnh tại.

Hãy niệm Phật một cách tha thiết, chí thành giống như  lửa đang cháy trên đầu. Quan điểm này tạo ra sự khẩn thiết trong hành trì nhưng ngược lại có thể gây trạng thái căng thẳng của tâm. Bởi vì khi lửa đang cháy trên đầu mà không dập tắt thì ta sẽ bị phỏng, và sự căng thẳng trong việc chữa lửa sẽ làm cho hành giả  đánh mất sự tìm kiếm các giá trị thuộc về tương lai. Do đó phải khéo tạo ra hình ảnh để thiết lập trạng thái nhất tâm bất loạn, bằng không sẽ làm cho hoả di chuyển lên trên đầu. Tập trung vào điều gì quá nhiều với một cưỡng lực sẽ tạo ra trạng thái căng thẳng, loạn động cũng dễ dàng xuất hiện.

Tu tập nhất tâm bất loạn là khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh phải thể hiện được chánh niệm. Trạng thái nhẹ nhàng, thảnh thơi, không gượng ép thì chánh niệm sẽ có mặt, trạng thái nhất tâm sẽ kéo dài, và khi ấy hành giả “như vào thiền định, không còn vọng tưởng” như lời kinh đã mô tả.

XA LÌA VỌNG TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO

Vọng tưởng không phải là ước mơ trong lúc ta ngủ mà nó là dòng cảm xúc ý niệm hoá, phân biệt không đặt trên nền tảng chánh niệm tỉnh thức đang diễn ra đối với danh hiệu đức Phật A-di-đà, với pháp môn đang hành trì và với các hoạt dụng đang có mặt. Thiết lập trạng thái xa lìa vọng tưởng là một trong những cách tạo ra trái tim tỉnh thức, hạnh phúc, an lạc và thảnh thơi.

Tất cả nội dung sâu sắc của bản kinh đều tập trung ở danh hiệu đức Phật A-di-đà. Niệm Phật theo kinh A-di-đà hướng dẫn, ta sẽ quên đi đối tượng trần cảnh đang có mặt xung quanh, nhờ đó trạng thái nhất tâm được thiết lập.Tuy nhiên, trạng thái bất loạn sẽ khó kéo dài nếu thực tập như một thói quen, nghĩa là trong một thời khoá tu tập, khi nghe ba tiếng kẻng hay một hồi chuông reo lên thì mới ý thức về trách nhiệm của mình và chỉ thực hiện theo nội qui mà không nhận thấy đó là một trong những tiếng chuông tỉnh thức. Đức Phật A-di-đà ở Tây phương Cực Lạc cũng tạo ra âm hưởng như thế để nhắc nhở hành giả cần phải nhất niệm để trở về với tỉnh thức, an vui.

Tiếng chuông báo động trong một thời khoá tu tập sẽ giúp hành giả gắn liền chánh niệm với danh hiệu đức Phật A-di-đà càng sâu sắc, mà không phải là sự bắt buộc. Nếu xuất hiện ý niệm về sự bắt buộc ví dụ như đến giờ ta mới lên chánh điện, niệm Phật thiền hành thì trạng thái loạn động, vọng tưởng sẽ có mặt, chỉ nhớ về danh hiệu đức Phật A-di-đà thì được gọi là chánh tưởng.

Vọng tưởng có thể xuất hiện khi ta đang mở mắt, đang thức và đang ở ban ngày. Sống trong đêm mà cứ tưởng như đang sống giữa ban ngày là một trạng thái tâm lý của khá nhiều người phàm phu. Hoặc ở ban ngày mà cứ như đang sống ở ban đêm là, do đánh mất dòng chảy chánh niệm đang có mặt với mình. Chính vì thế, mượn danh hiệu đức Phật A-di-đà qua pháp môn Tịnh độ giúp thiết lập dòng chảy chánh niệm.

Phương Tây đặc biệt là người Thiên Chúa giáo tin tưởng vào đấng Chúa toàn năng có thể mang lại bình an cho họ. Mỗi khi tiếp xúc với khổ đau, tai ách hay bất kỳ một sự cố nào, họ đều có thói quen bằng cửa miệng phát ngôn “Oh, My God!”, tiếng Việt gọi là “Lạy Chúa tôi”, lời than thở hay lời mong đợi tình thương của Thượng đế rót vào khổ đau của kiếp người. Thế nhưng quan sát kỹ trong nỗi khổ niềm đau mà kêu gọi Thượng đế cứu giúp thì chưa bao giờ Thượng đế có mặt. Chẳng hạn như trận động đất xảy ra tại vùng Nam Á Pakistan và Ấn Độ cướp đi sinh mạng vô số người mà trong số đó nhiều người đã gào thét gọi tên Thượng đế, Chúa trời nhưng chẳng hề được Chúa cứu giúp, chỉ có những người làm từ thiện xã hội, bác sĩ của hội chữ thập đỏ, những con người dấn thân xoá bỏ biên cương bờ cõi của ý thức hệ tôn giáo, chính trị, màu da để đến với họ bằng tất cả tấm lòng từ bi.

Thực tập phương pháp quán niệm trên danh hiệu đức Phật A-di-đà, một số người có thể rơi vào tình trạng mộng tưởng giống như các tín đồ khác. Niệm danh hiệu Phật chỉ để mong cầu đức Phật gia hộ cho mình bình an, khoẻ mạnh, giàu sang, phú quí. Những ý niệm đó đều là mộng tưởng và không thể giúp ta đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn. Hành giả cần tạo ra sự lựa chọn giữa một bên là mục tiêu của tâm linh và một bên là những viên kẹo sôcôla phước báu,…Viên kẹo sôcôla có thể tạo ra trạng thái khoái khẩu trong lúc ta đang có nhu cầu, trong khi viên kim cương tâm linh mà đức Phật đề cập là trạng thái nhất tâm bất loạn, ở đây đòi hỏi ta phải chọn một hoặc bỏ một chứ không thể nắm lấy cả hai. Đó là lý do tại sao đức Phật nói trong bản kinh này là hãy nắm lấy danh hiệu của đức Phật A-di-đà, nắm lấy viên kim cương tâm linh chứ không nắm lấy viên kẹo sôcôla. Bởi không khéo các hành giả Phật tử cũng giống như các tín đồ của Nhất thần giáo chỉ biết nắm lấy viên sôcôla phước báu mà trên thực tế hạnh phúc, thiện căn, phước báu, duyên lành không gieo trồng thì vĩnh viễn không thể nào có được. Cứ ứng dụng mộng tưởng và cuối cùng tạo ra trạng thái khổ đau như đức Phật từng nói là “cầu bất đắc khổ”.

VIÊN KIM CƯƠNG TÂM LINH

Bản kinh A-di-đà nêu ba yếu tố quan trọng được xem là nội dung của tấm visa nhập cảnh vào Tây phương Cực Lạc đó là phước đức, căn lành, và nhân duyên nhiều. Ba tiêu chí này hành giả không được phép quên và được xem là yếu tố trợ duyên hành giả vãng sanh về Tây phương. Bên cạnh đó, niệm Phật nhất tâm bất loạn cũng là một yếu tố quan trọng thuộc về nội dung. Hành giả trong quá trình tu tập cần phối hợp cả hai điều kiện này mới có được giá trị của viên kim cương tâm linh thông qua danh hiệu của đức Phật A-di-đà.

Khi sử dụng danh hiệu của đức Phật A-di-đà trong giao tế, hành giả cần thận trọng và có phương pháp, không nên sử dụng câu nói “A-di-đà Phật” như là câu giao tế ngoài cửa miệng, kêu tên đức Phật A-di-đà nhưng lại không bày tỏ lòng tôn kính đối với Ngài, đồng thời lúc ấy ta cũng đánh mất chánh niệm tỉnh thức với người đang có mặt trước mình. Hành giả cần thêm một động từ phía trước để bày tỏ lòng tôn kính đối với Ngài đó là từ “Nam mô”. “Nam mô” là sự đảnh lễ cung kính, thiết lập trạng thái chánh niệm với đức Phật A-di-đà. Do đó, khi Phật tử gặp và chào nhau “Nam mô A-di-đà Phật” là cách thiết lập chánh niệm. Chánh niệm này gợi cho hành giả ý thức về viên kim cương tâm linh và làm thế nào để cho tiềm năng tuệ giác vô lượng quang, vô lượng thọ không bị giới hạn trong con người. Giá trị và nội dung của sự chào hỏi giúp tăng thêm nội lực và mọi động tác đi, đứng, nằm, ngồi đều có mặt trong tỉnh thức, an vui.

Có nhiều người tiết kiệm chữ nghĩa từ sáu âm tiết “Nam mô A-di-đà Phật” rút gọn lại chỉ còn hai chữ “Mô Phật”. Ta nên sử dụng âm thanh nào gợi lên trọn vẹn trạng thái chánh niệm, vì thế nên sử dụng trọn câu “Nam mô A-di-đà Phật”, gọn thì: “Nam mô Phật” chứ đừng nói là “Mô Phật”. Hành giả sử dụng danh hiệu Phật trong giao tiếp nên dùng đủ sáu âm tiết hoặc thì giá trị của chánh niệm sẽ có mặt.

Bản kinh này nêu thời hạn tu tập từ một ngày đến bảy ngày. Tâm linh của các hành giả khác nhau, có người thiết lập được chánh niệm tỉnh thức, nhất tâm bất loạn và loại trừ được trạng thái điên đảo mộng tưởng trong vòng một ngày. Có người tâm lực yếu hơn nên cần thời gian nhiều hơn, có thể là hai ngày, ba ngày hoặc bảy ngày. Con số chỉ là thời gian ước lượng. Thời gian ngắn hay dài tùy từng hành giả thực tập. Hành giả không nên mong cầu kết quả, chỉ cần có phương pháp chánh niệm nhất tâm bất loạn, xa lìa mộng tưởng hay ảo tưởng. Gắng sức nhiều quá sẽ tạo ra cưỡng lực làm cho chánh niệm bị đánh mất. Khi ý thức về thời gian gần hết thường làm cho ta rơi vào trạng thái cuống quýt. Ví dụ như một sinh viên đang ngồi trong phòng thi ý thức chỉ còn mười phút nữa phải nộp bài, lúc đó sự tập trung sẽ bị đánh mất ngay.

Ý thức về tính thời gian sẽ làm cho thời gian kéo dài ra hoặc rút ngắn lại. Một người tù khi ý thức về thời gian sẽ làm cho thời gian một ngày bằng nghìn năm ở ngoài. Đối với người đang mong gặp mặt người thân thì sự mong chờ làm cho thời gian có vẻ kéo dài ra. Khi hành giả buông hết ý niệm về thời gian sẽ cảm thấy thời gian có vẻ ngắn hơn. Ý thức về tính thời gian sẽ làm cho thời gian trở nên co giãn, loạn tưởng hay mộng tưởng sẽ len lỏi vào tiến trình chánh niệm.

Khi niệm Phật thì không nên dựa vào công cứ, đặt tiêu chí niệm Phật một ngày phải là một trăm xâu chuổi một trăm lẻ tám hạt. Niệm Phật thiếu phương pháp thì công cứ sẽ làm ta lệ thuộc vào thời gian, tâm bị bức xúc, căng thẳng; khi ấy trạng thái chánh niệm tỉnh thức sẽ biến mất. Hành giả niệm Phật đừng bận tâm về số lượng nhiều hay ít. Quan trọng là làm sao chánh niệm, nhất tâm và bất loạn cùng có mặt; điên đảo mộng tưởng bị xa lìa thì lúc đó tâm hành giả mới đạt đến trạng thái vô ưu. Khi có vô ưu thì Tịnh độ sẽ có mặt.

VƯỢT QUA HÌNH ẢNH TRƯỚC CỬA TỬ

Trong tiến trình niệm Phật chắc chắn sẽ có nhiều nghịch cảnh, và đặc biệt đối với các hành giả đang có nhu cầu sanh về thế giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Các biến tướng của dòng cảm xúc được xuất hiện như một bộ phim phức tạp. Dòng cảm xúc và nhận thức của con người chính là đạo diễn, là diễn viên, là người dựng phim, là người đối thoại và cũng chính là kịch tính; nên chúng xuất hiện trong ta dưới hình thức độc thoại. Sự độc thoại này chịu ảnh hưởng bởi đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nếu hành giả là một giáo viên dạy môn toán thì trạng thái mộng tưởng (thiếu nhiếp tâm về danh hiệu đức Phật A-di-đà) sẽ làm cho người này chỉ nhớ toàn là những công thức toán học, định lý, hình học không gian; do vậy yếu tố chánh niệm tỉnh thức bị biến mất. Hành giả cần ý thức chánh niệm trong tu tập, bằng không, dòng cảm xúc, thói quen can thiệp vào tiến trình tái sanh về cảnh giới an lành của chư Phật.

Hình ảnh trước cửa tử thường xuất hiện trong tâm trạng con người khi họ đối diện trước hai ngưỡng cửa sanh và tử, Ta bà và Tịnh độ. Khi ấy người qua đời có nhiều sự mong đợi và lo âu. Hành giả trong trạng thái đang chuẩn bị rời khỏi xác thân ngũ uẩn mà thiếu trạng thái nhất niệm sẽ trở nên lo lắng, bồn chồn. Lúc đó tiến trình sự tu tập có thể bị ảnh hưởng khá nhiều. Hình ảnh diễn ra trước cửa tử có thể đa dạng, tùy theo chức nghiệp, cảm xúc, cá tính và phong tục tập quán mà người đó đã sinh ra và lớn lên. Nhiều người khi đối diện trước hình ảnh cửa tử thường có trạng thái hoảng hốt hoặc hôn mê, nhất là ở người có chứng bệnh ung thư. Khi ấy, dòng cảm xúc bị ách tắc và nhận thức bị dừng lại ở thời điểm trước khi cơn hôn mê xuất hiện. Vì thế, hành giả cần duy trì chánh niệm để khi hôn mê diễn ra, trạng thái chánh niệm vẫn được giữ trong thần kinh; lúc đó chánh niệm tỉnh thức vẫn tiếp tục có mặt, đang tác động đến tiến trình tái sanh. Sự thiếu chánh niệm trước lúc chết, sẽ tạo ra bế tắc trong tiến trình tái sanh.

Đối với người bệnh có thể bị hôn mê thì nên ý thức không để tâm bị loạn động, không để cho nỗi sợ hãi hay dòng cảm xúc khống chế. Muốn được như thế, hành giả cần chuẩn bị thái độ đối diện với cái vô vị của tuổi già, và cái vô vị của sự từ bỏ tất cả. Khi đối diện với thái độ hoan hỷ và chấp nhận nó thì dòng cảm xúc hoảng hốt sẽ không có mặt. Tuổi già thường rơi vào trạng thái chán nản, vô vị. Tâm lý của người già thường bám víu vào sự nghiệp mà họ đã tạo dựng suốt cả cuộc đời. Đến khi con cái hay thế hệ trẻ thay thế thì họ lại không muốn thừa nhận, cho rằng chúng chưa đủ năng lực để tiếp nối sự nghiệp mà họ đã tạo dựng và cống hiến. Trạng thái ôm lấy trách nhiệm tạo ra giá trị thặng dư làm cho tâm hành giả rơi vào trạng thái mộng tưởng, loạn tưởng và không thể an tĩnh trong thiền định, do đó hành giả không thể có mặt ở Tây phương Cực Lạc được.

Hành giả cần đối chọi với cái vô vị bằng tâm buông xả. Khi tâm hoan hỷ và thảnh thơi thì hình ảnh loạn tưởng sẽ không còn tác động, bên cạnh đó, trạng thái hôn mê và hoảng hốt của dòng cảm xúc cũng không thể có mặt. Muốn buông xả được, hành giả cần để trạng thái tâm không bị hình ảnh thế tục chen và thay thế vào. Ta có thể vận dụng hình ảnh của đức Phật thay thế vào trong trạng thái đang đối chọi với cái chết. Tâm thức của hành giả nên bám vào danh hiệu đức Phật A-di-đà, nương vào hình ảnh đức Phật và cảnh giới Tịnh độ để thiết lập chánh niệm. Sự thay thế này được gọi là sự thay thế Thánh, sự thay thế tích cực và sự thay thế có giá trị tâm linh. Hành giả nên chọn lấy viên kim cương tuệ giác và bỏ đi viên kẹo Sôcôla tín ngưỡng, bởi viên kẹo ấy chẳng mang lại giá trị nhiều trong đời sống tu tập và tiến trình tái sanh của con người.

Hình ảnh thứ nhất, sự bay bổng, có thể xuất hiện trước cửa tử nếu người sắp chết sanh về cảnh giới trời, sẽ có cảm giác lâng lâng, bay bỗng nhẹ nhàng. Người ở cõi trời có khả năng khinh thân trong vận chuyển đây đó. Sự di động của chư Thiên có khi được mô tả là sự bay với tốc độ nhanh như phi thuyền hay máy bay trên địa cầu của ta. Liên tưởng này làm hành giả hình dung ra bộ phim tạo cảm giác giúp con người nhẹ nhàng, lâng lâng và bay bỗng. Nếu bám vào hình ảnh này thì chánh niệm tỉnh thức bị cắt đứt, loạn tưởng được thiết lập, danh hiệu và cảnh giới của đức Phật A-di-đà bị chấm dứt. Lưu ý quan trọng là các hành giả không nên bám víu vào những hình ảnh trước cửa tử thì chánh niệm mới có mặt.

Hình ảnh thứ hai, là trạng thái hân hoan, vui vẻ. Nếu phước lực của người sắp chết ít và chưa từng có nguyện vọng sanh về cảnh giới của đức Phật A-di-đà thì trạng thái hân hoan, vui vẻ đó có thể là hiểu là tái sanh vào cõi người. Khi ấy, hành giả cần vượt qua ý niệm đó để sự loạn tưởng không chen vào trạng thái nhất tâm bất loạn đặt trên danh hiệu đức Phật A-di-đà đang được hành giả giữ lấy và hành trì.

Hình ảnh thứ ba có thể là trạng thái nóng bức, bực bội hay bồn chồn không yên. Sự không yên này được biểu hiện qua cách cựa quậy của thân trên giường bệnh (đối với người có chứng bệnh thần kinh toạ, đau nhức xương khớp, tai biến mạch máu não, bán thân bất toại). Dòng cảm xúc và ý niệm muốn cử động luôn được xuất hiện trong tâm của hành giả. Nếu không khéo, trạng thái này sẽ cắt đứt dòng chảy nhất tâm bất loạn. Do đó, hành giả cần buông hết tất cả những ý niệm về nó để giữ lấy danh hiệu của đức Phật A-di-đà, bớt đi trạng thái căng thẳng, nhờ đó thần thức nhẹ nhàng từ bỏ xác thân để trở về cảnh giới an lành của chư Phật.

Một số hình ảnh khác nguy hại hơn nếu người sắp chết làm nghề đồ tể. Người đồ tể đã gây quá nhiều nợ máu, ân oán giang hồ với các loài động vật, hình ảnh trước cửa tử khi ấy không gì khác hơn là tiếng kêu la thất thanh đến đòi mạng, những hình ghê rợn của quỷ dữ đòi trả thù… Lúc đó, hành giả cần nhanh chóng chuyển tâm hướng về danh hiệu đức Phật A-di-đà với tất cả lòng từ bi và mong rằng từ trường của lòng từ bi này phủ trùm lên các âm thanh, hình ảnh ghê rợn trong tâm. Chính sự giao thoa, từ trường của lòng từ bi sẽ khắc chế và chinh phục được oan khiên oán trái giữa ta và chúng sanh ở nhiều đời trong quá khứ hoặc trong hiện tại. Lúc đó, trạng thái nhất tâm bất loạn mới tiếp tục được duy trì và kéo dài.

Trong tiến trình tái sanh, hành giả chỉ chuyên nhất vào danh hiệu đức Phật A-di-đà, không nên để bất kỳ hình ảnh nào trước cửa tử can thiệp, ảnh hưởng và chi phối. Lòng từ bi của chư Phật được xem hộ chiếu giúp ta có thể xuất cảnh ra khỏi thế giới Ta bà. Yếu tố nhất tâm bất loạn, xa lìa điên đảo mộng tưởng chính là visa cho phép ta nhập cảnh Cực Lạc. Nếu đơn thuần chỉ có hộ chiếu, ta vẫn không được phép nhập cảnh Tây phương, do vậy, ta vẫn bị đẩy về lại cõi Ta bà vì chưa đủ điều kiện nhập cư.

VISA NHẬP CẢNH CÕI TỊNH ĐỘ

Kinh A-di-đà dạy các hành giả tiến trình quán niệm tu tập, nhờ đó chánh niệm tỉnh thức được có mặt thông qua danh hiệu đức Phật A-di-đà. Khi chánh niệm tỉnh thức có mặt thì khổ đau sẽ tan biến và đồng thời hạnh phúc cũng sẽ có mặt. Ý thức về điều này, hành giả cần vận dụng tu tập nỗ lực của bản thân thật nhiều thì chư Phật sẽ giúp đỡ, nếu ta có nhu cầu vãng sanh về cảnh giới an lành của các Ngài. Pháp môn Tịnh độ có khá nhiều lời nhắn nhủ, giúp hành giả được nhất tâm, như hai câu sau đây:

“Ái không nặng, không sanh Ta bà; Niệm không thiết, không sanh Tịnh Độ

Câu đối này đối lập về nội dung giữa một bên là bản chất Ta bà với đời sống tính dục, cảm xúc nhận thức đặt trên nền tảng của phóng tâm, truy tìm, hưởng thụ và dẫn đến tiến trình sở hữu hoá, làm tăng trưởng bản ngã sở hữu; và một bên thuộc về cảnh giới an lạc, vô ưu, vô sầu, vô não, thảnh thơi, vững chải, không còn bất cứ một sự ràng buộc câu thúc nào. Nó đòi hỏi sự chí thiết, chí thành, để thiết lập sự bất loạn trong hành giả. Yếu tố chí thiết về pháp môn và danh hiệu sẽ giúp ta giải phóng tất cả hình ảnh trước cửa tử, không cho nó can thiệp vô tình hay cố ý trong tiến trình cái chết, từ bỏ xác thân vĩnh viễn.

Các hành giả không tu tập pháp môn Tịnh độ và không có nguyện vọng sanh về cõi Tịnh độ thì dòng nghiệp lực sẽ đi theo họ như người bạn đường, như hình với bóng không thể rời nhau. Đối với các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thì dù nghiệp sẽ đi theo, nhưng cái chính cần theo là chánh niệm tỉnh thức, hoặc sự nhất tâm về đức Phật A-di-đà. Hành giả Tịnh độ nên mang theo bấy nhiêu hành lý mà thôi. Ai tiếc nuối, mang theo cái nhà vừa mới xây, cái ti vi vừa mới mua, tình cảm đẹp của một người vừa gặp thì khó có thể về Tây phương Cực Lạc. Khi ấy hành giả sẽ về với nhân quả nghiệp báu trong tiến trình của sanh tử luân hồi.

Hành giả cần làm thế nào để hình ảnh đức Phật luôn xuất hiện trong tâm mà không cần phải cố gắng tạo ra ảo tưởng về đức Phật. Hãy thiết lập chánh niệm để Phật đang có mặt trong cuộc đời, trong nhận thức, trong cảm xúc, trong hành động. Hình ảnh Phật trong tâm hành giả không phải là mộng tưởng mà là chánh niệm trong hiện tại. Khi ấy, hành giả sẽ sống với đức Phật A-di-đà Vô Lượng Quang, vô lượng trí tuệ một cách vững chãi, nhờ đó, tiến trình tái sanh sẽ diễn ra chắc chắn và an toàn.

Trên con đường hành trì, hành giả cần duy trì trạng thái nhất tâm bất loạn một cách lâu dài. Khi đối diện, với sinh hoạt hằng ngày thì trạng thái này vẫn tiếp tục được thiết lập. Ta đừng nên nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt tại khoá tu mới thiết lập chánh niệm về danh hiệu của đức Phật, còn khi trở về nhà thì bỏ quên. Một số hành giả đã sai lầm cho rằng khi lo công việc làm ăn nhiều thì việc niệm Phật sẽ mất sự tập trung. Tôi có thể cam đoan rằng nếu ta thiết lập chánh niệm ở danh hiệu đức Phật A-di-đà thì trong công việc làm ăn, ta sẽ tránh được các rủi ro về tai nạn lao động, tránh được sự non kém về chất lượng do thiếu sự đầu tư và tập trung.

Chánh niệm và tỉnh thức sẽ làm cho tâm ta sáng suốt hơn, năng lực lớn hơn và kết quả của công việc sẽ hiệu quả hơn. Thực hiện như thế là ta thiết lập được Tịnh độ ở trong tâm, trong gia đình, trong công sở và trong mọi sinh hoạt. Các yếu tố này chính là tấm visa giúp hành giả có thể tái sanh về cảnh giới an lành của đức Phật A-di-đà và không sợ bị đẩy về thế giới Ta bà.

Thích Nhật Từ

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.