Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 3 – 5

MỤC XII

ĐÁNH CHUÔNG THẬT-NGHIỆM TÍNH-THƯỜNG

ĐOẠN I

NGHI CĂN-TÍNH KHÔNG CÓ TỰ-THỂ

Ông A-nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế-tôn, như lời Phật dạy, chỗ phát-tâm cầu được thường-trụ trong lúc tu-nhân, cốt-yếu cần phải cân-xứng với những đức-tính trong lúc chứng-quả. Bạch Thế-tôn, như trong quả-vị, nào là Bồ-đề, Niết-bàn, Chân-như, Phật-tính, Am-ma-la-thức, Không-như-lai-tạng, Đại-viên-kính-trí; bảy thứ danh-hiệu tuy có khác nhau, nhưng thể-tính đều thanh-tịnh viên-mãn, vững-chắc như Kim-cương-vương, thường-trụ, không hư-nát.

Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt, rốt-ráo không có tự-thể cũng như cái tâm-niệm, rời tiền-trần ra, vốn không có gì, thì làm sao lại đem cái rốt-ráo đoạn-diệt ấy làm cái nhân tu-hành, để được bảy quả thường-trụ của Như-lai. Bạch Thế-tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy rốt-ráo là không; nếu không có tiền-trần, thì tự-tính tâm-niệm diệt mất, lui tới vần-xoay, suy-xét chín-chắn, vốn không có tâm tôi và tâm sở của tôi; vậy đem cái gì làm nhân, để cầu được vô-thượng-giác. Đức Như-lai trước kia nói cái tính hay-biết yên-lặng là viên-mãn thường-trụ, nhưng đã trái với lẽ thường, thì rốt-cuộc chỉ thành hý-luận, làm sao nhận được lời nói Như-lai là chân-thậnt. Xin Phật rủ lòng đại-từ, mở chỗ mê-chấp cho tôi”.

ĐOẠN II

CHỈ RA TÍNH-NGHE LÀ THƯỜNG-TRỤ

Phật bảo ông A-nan rằng: “Ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều lậu-lạc, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên-đảo mà cái điên-đảo hiện-thật trước đó thì chưa biết được, e ông thành-thật còn chưa tin-phục. Nay tôi thử đem những việc trần-tục để trừ cái nghi của ông.” Khi bấy giờ, đức Như-lai bảo ông La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: “Có nghe”.

Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: “Không nghe”.

Khi đó, ông La-hầu-la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: “Có nghe”.

Phật hỏi ông A-nan: “Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào, thì ông không nghe?”

Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên, thì chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là không nghe.”

Như-lai lại bảo ông La-hầu-la đánh chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: “Theo ông, nay có tiếng không?”

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: “Có tiếng”.

Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: “Theo ông, nay có tiếng không?”

Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: “Không tiếng.”

Lát sau, ông La-hầu-la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng: “Theo ông, nay có tiếng không?”

Ông A-nan và đại-chúng đều nói: “Có tiếng”.

Phật hỏi ông A-nan: “Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế nào, thì gọi là không tiếng?”

Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông, nếu đánh lên, thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là không tiếng”.

Phật bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: “Hôm nay các ông sao nói trái-ngược, lộn-xộn như thế?”

Đại-chúng và ông A-nan đồng-thời bạch Phật: “Làm sao Phật bảo chúng tôi trái-ngược lộn-xộn?”

Phật dạy: “Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi về tiếng, thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất-định như thế, sao lại không gọi là trái-ngược lộn-xộn? A-nan, tiếng tiêu mất, không tăm vang, thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tính-nghe đã diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc không, hoặc có, đâu phải tính-nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tính-nghe thật là không, thì còn cái gì biết là không nữa.

Vậy nên A-nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt, không phải vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tính-nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn-lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ động tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tính.

Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người, trong lúc người kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy trong chiêm-bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong chiêm-bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh-dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm-bao, tôi đã lầm tiếng chày này là tiếng trống. A-nan, người đó, trong chiêm-bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở, thông-bịt; hình người kia tuy ngủ nhưng tính-nghe không mờ, dầu cho hình ông tiêu-tan, thân-mạng dời-đổi diệt mất, làm sao tính-nghe ấy lại vì ông mà tiêu-diệt được.

Do các chúng-sinh, từ vô-thủy đến nay, đi theo sắc thanh, theo niệm mà lưu-chuyển, không hề khai-ngộ bản-tính thanh-tịnh diệu-thường; không theo cái thường, chỉ theo các thứ sinh-diệt, do đó, đời đời bị tạp-nhiễm mà phải lưu-chuyển.

Nếu bỏ cái sinh-diệt, giữ tính chân-thường; cái sáng-suốt chân-thường hiện-tiền, thì các tâm-niệm căn, trần, thức, ngay đó đều tiêu mất; tướng vọng-tưởng là trần, tính phân-biệt là cấu, hai cái đó đã xa-rời, thì pháp-nhãn của ông liền được trong-suốt, làm sao lại không thành bậc vô-thượng tri-giác?”

 

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.