Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 3 – 5

MỤC II

CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU-NÚT

ĐOẠN I

THUẬT CHỖ TỎ-NGỘ

Lúc ấy, ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời từ-bi dạy-bảo của Phật, kệ-tụng tinh-túy, diệu-lý trong-suốt, tâm được khai-ngộ, đồng tán-thán là pháp chưa từng có.

ĐOẠN II

CẦU KHAI-THỊ THỨ LỚP CỞI NÚT

Ông A-nan chấp tay đỉnh-lễ bạch Phật: “Nay tôi nghe Phật mở lòng vô-giá đại-từ dạy cho những câu pháp chân-thật thanh-tịnh diệu-thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin Phật rủ lòng đại-bi thương-xót trong Hội nầy và những kẻ tương-lai, bố-thí cho pháp-âm, rửa-sạch những cấu-nhiễm trầm-trọng của chúng tôi.

ĐOẠN III

CỘT NÚT CHO XEM VÀ GẠN-HỎI ĐẦU-NÚT

Liền khi ấy đức Như-lai, nơi sư-tử-tọa, sửa áo niết-bàn-tăng, vén áo tăng-già-lê, dựa ghế thất-bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn-hoa của cõi trời Kiếp-ba-la đã cúng cho ngài, rồi ở trước đại-chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A-nan xem và bảo rằng: “Cái này gọi là gì?” Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: “Cái này gọi là nút”. Lúc ấy đức Như-lai lại cột khăn-hoa thành một nút nữa và hỏi ông A-nan: “Cái này gọi là gì?”. Ông A-nan và đại-chúng lại bạch Phật rằng: “Cái ấy cũng gọi là nút”. Phật tuần-tự cột khăn-hoa như vậy, tổng-cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A-nan: “Cái này gọi là gì?” Ông A-nan và đại-chúng cũng tuần-tự đáp lại Phật: “Cái ấy gọi là nút”. Phật bảo ông A-nan: “Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái khăn-hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?”

Ông A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế-tôn, cái khăn-hoa thêu-dệt quý-báu này vốn chỉ một thể, song theo ý tôi suy-nghĩ, Như-lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt-cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi, khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao đức Như-lai chỉ cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?”

Phật bảo ông A-nan: “Cái khăn-hoa báu này, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem-xét bản-thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban-đầu, thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì gọi là nút thứ sáu. Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được không?”

Bạch Thế-tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt-cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho tôi cố-gắng biện-bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên được”.

Phật dạy: “Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản-thân, vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt-cuộc không thể làm cho sáu nút xáo-lộn lẫn nhau. Sáu căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo-rốt đồng nhau, sinh ra rốt-ráo khác nhau”.

MỤC III

CHỈ CỞI NÚT TRƯỚC SAU

ĐOẠN I

GẠN-HỎI ĐỂ CHỈ-RÕ ÐẦU-NÚT

Phật bảo ông A-nan: “Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một thể, thì ông phải làm thế nào?”.

Ông A-nan bạch: “Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi-nổi, trong đó, tự sinh ra nút này không phải nút kia, nút kia không phải nút này. Nếu ngày nay, đức Như-lai cởi-bỏ tất-cả, không sinh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn không gọi là một, làm sao mà thành sáu được”.

Phật dạy: “Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế. Do từ vô-thủy, tâm ông điên-loạn, tri-kiến vọng-phát ra, vọng-phát mãi không thôi, làm cho tri-kiến sinh bệnh, phát ra trần-tướng; như trông con mắt mỏi-mệt, thì có hoa-đốm lăng-xăng; tất-cả những tướng thế-gian, núi sông, đất liền, sống chết, Niết-bàn, không nhân gì rối-rít khởi lên, trong tính sáng-suốt yên-lặng, đều là những tướng hoa-đốm điên-đảo do bệnh mê-lầm phát-ra”.

ĐOẠN II

HỎI CÁCH CỞI NÚT

Ông A-nan bạch: “Cái bệnh mê-lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi-bỏ cho được?”

Đức Như-lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi ông A-nan rằng: “Thế này có cởi được chăng?”

Thưa Thế-tôn, không.

Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: “Thế này có cởi được chăng?”

Thưa Thế-tôn, không.

Phật bảo ông A-nan: “Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt-cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương-tiện thế nào mà cởi cho được”.

ĐOẠN III

XÉT-NHẬN TRỪ-BỎ TRUNG-TÂM CÁI NÚT. THÌ TIÊU ĐƯỢC VỌNG, TRỞ VỀ CHÂN.

Ông A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế-tôn, nên mở nơi trung-tâm cái nút thì tan-rã ngay”.

Phật bảo ông A-nan: “Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi nơi trung-tâm.

A-nan, tôi nói Phật-pháp do nhân-duyên sinh, không phải lấy những tướng hòa-hợp thô-phù của thế-gian. Như-lai phát-minh các pháp thế-gian và xuất-thế-gian, đều biết rõ bản-nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng-sa thế-giới cũng biết số-mục, hiện-tiền các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên-do. Vậy nên A-nan, tùy tâm ông lựa-chọn nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần-tướng tự tiêu-diệt; các vọng đã tiêu-mất, thì chả phải chân là gì.

ĐOẠN IV

CHỈ VỀ CỘT LẠI CÓ THỨ LỚP, THÌ CỞI RA CŨNG PHẢI CÓ TRƯỚC SAU

“A-nan, nay tôi lại hỏi ông: “Cái khăn-hoa này hiện có sáu nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?”

-Thưa Thế-tôn, không. Những cái nút này, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?

Phật dạy: “Việc cởi-trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân-không, đến khi tính-không viên-mãn sáng-suốt, thì giải-thoát pháp-chấp. Pháp-chấp được giải-thoát rồi, cả cái nhân-không và pháp-không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ-tát do Tam-ma-đề mà chứng được vô-sinh-nhẫn”.

MỤC IV

GẠN HỎI ĐẠI-CHÚNG VỀ VIÊN-THÔNG

ĐOẠN I

TRÌNH-BÀY CHỖ NGỘ, XIN CHỈ-DẠY CĂN-TÍNH VIÊN-THÔNG

Ông A-nan và cả đại-chúng, nhờ Phật khai-thị, tuệ-nhãn được viên-dung, thông-suốt, không còn điều gì nghi-hoặc, đồng-thời chấp tay, đỉnh-lễ nơi hai chân mà bạch Phật rằng: “Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng-suốt, chóng được vô-ngại; song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn chưa rõ căn-tính bản-lai viên-thông. Thưa Thế-tôn, chúng tôi xiêu-dạt bơ-vơ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bỗng-nhiên gặp được từ-mẫu. Nếu nhân cơ-hội này mà được thành-đạo, chỗ bản-ngộ phù-hợp với đạo-lý vi-diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe, không có sai-khác. Xin Phật rủ lòng đại-bi ban cho chúng tôi những pháp bí-mật trang-nghiêm; thành-tựu lời chỉ-dạy cuối-cùng của Như-lai.” Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, lui về an-trụ nơi cơ-cảm sâu-nhiệm, trông mong Phật tâm-truyền cho.

ĐOẠN II

GẠN-HỎI TRONG ĐẠI-CHÚNG

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo khắp các vị Đại-bồ-tát và các vị lậu-tận Đại-a-la-hán trong chúng rằng: “Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh-trưởng trong Phật-Pháp, đã chứng-quả vô-học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban-đầu mới phát-tâm, trong thập-bát-giới, ngộ được viên-thông ở giới nào và do phương-tiện gì được Tam-ma-đề?”

ĐOẠN III

VIÊN-THÔNG VỀ THANH-TRẦN

Bọn ông Kiều-trần-na, năm vị tỷ-khưu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Ở Lộc-uyển và ở Kê-viên, chúng tôi được xem thấy đức Như-lai khi mới thành-đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ-ngộ được Tứ-đế. Phật hỏi trong hàng tỷ-khưu, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu. Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là A-nhã-đa. Đi sâu vào bản-tính nhiệm-mầu, thì âm-thanh thật là viên-dung; tôi do âm-thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do âm-thanh là hơn cả”.

ĐOẠN IV

VIÊN-THÔNG VỀ SẮC-TRẦN

Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành-đạo; tôi quán-tưởng bất-tịnh, sinh lòng nhàm-chán rời-bỏ tột bậc, ngộ cái tính của các sắc, từ tướng bất-tịnh đến tướng xương-trắng, tướng vi-trần, rồi tan về hư-không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành-đạo vô-học. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là Ni-sa-đà; sắc của trần-cảnh đã hết, sắc của tính-diệu được mật-viên. Tôi do sắc-tướng mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do sắc-trần là hơn cả”.

ĐOẠN V

VIÊN-THÔNG VỀ HƯƠNG-TRẦN

Ông Hương-nghiêm-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng : “Tôi nghe đức Như-lai dạy tôi quan-sát chín-chắn các tướng hữu-vi. Khi ấy tôi từ-giã Phật, đầu-hôm về tĩnh-tọa trong nhà thanh-trai, thấy các tỷ-khưu đốt hương trầm-thủy, hơi hương vẳng-lặng bay vào trong mũi tôi. Tôi quán cái hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó, ý-niệm phân-biệt tiêu-diệt, phát-minh tính vô-lậu. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái hiệu là Hương-nghiêm. Tướng hương tiền-trần bỗng diệt, thì diệu-tính của hương là mật-viên. Tôi do hương-nghiêm mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do hương-trần là hơn cả”.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.