Để Trở Thành Người Phật Tử Chân Chánh

A. KHÁI NIỆM TỒNG QUÁT VỀ NGƯỜI PHẬT TỬ CHÂN CHÁNH:

Khi một người biết đi Chùa, thờ Phật, lễ Phật, tụng kinh, Sám hối nghe Chư Tăng thuyết pháp có nghĩa là người đó đã xác nhận mình là Phật tử, nhưng từ một Phật tử để trở thành Phật tử chân chánh cần phải có những nhân tố tích cực hơn về hai phương diện sự và lý : Sự là thực hiện những lễ nghi đi chùa,tôn thờ, tụng kinh,lễ bái, sám hối vị giáo chủ mà mình theo, qua hình tượng, tranh ảnh, lý là thực hiện những lời dạy ứng dụng trong đời sống. làm cho lời dạy đó biến thành hiện thực có lợi ích cho cá nhân, gia đình. Đó chính là góp phần làm cho Phật giáo hưng thịnh.

Đạo Phật không đòi hỏi người Phật tử phải thực hành những điều khó khăn nhưng phải thể hiện tinh thần của Phật dạy qua đời sống, muốn thế qua thân phải lễ lạy, miệng tụng kinh, niệm Phật, xưng tán Phật hiệu, sám hối, ý phải thành tâm chánh niệm. Tam nghiệp thân, khẩu, ý lúc nào cũng thanh tịnh, làm sao cho đạo đức cá nhân của mình được thăng hoa tốt đẹp. Đó chính là một trong những phương pháp mà người Phật tử chân chánh phải tu tập và thực hành trên bước đường đến giải thoát.

Đức Phật đã dạy Chư Tăng là những người có trách nhiệm duy trì Chánh Pháp; còn người Phật tử tại gia có bổn phận hộ trì Chánh pháp, làm cho Chánh pháp được mọi người nhận thấy qua đời sống của cá nhân và gia đình thấm nhuần đạo lý Phật giáo. Đó chính là chúng ta làm tròn trách nhiệm của người Phật tử chân chánh đối với đạo, góp phần xây dựng cuộc đời trở nên Chân, thiện, mỹtheo tinh thần Phật giáo.

I. TẠI SAO PHẢI THỜ PHẬT?.

1) Nguồn gốc xuất xứ & ý nghĩa:

a/ Nguồn gốc xuất xứ:

Khi Đức Phật còn tại thế và sau khi Phật diệt độ, để thể hiện lòng tôn kính đức đạo sư, Phật tử có vẽ họa hình tượng Phật để thờ. Câu chuyện truyền thuyết về Đức Phật lên cung trời Đâu Suất thuyết pháp cho thân mẫu liên tiếp trong ba tháng. Nhà Vua Vu Điền mến mộ Phật Pháp thường đến tinh xá hầu Phật, nay xa vắng cảm thấy nhớ Phật nên có sai họa sĩ vẽ chân dung Ngài để chiêm ngưỡng. Sau khi Phật trở về nhà Vua có đem việc đó bạch với Đức Phật Ngài mĩm cười và cũng bắt đầu từ đây việc thờ chân dung Đức Phật được đệ tử Ngài tiếp nối từ đời nầy sang đời khác cho đến ngày nay.

b/ Ý nghĩa việc thờ Phật:

Qua câu chuyện truyền thuyết trên khởi đầu là họa chân dung, đơn thuần chỉ là một sự nhớ thương của một người đệ tử đối với Phật và rồi dần dần trở thành ngưỡng mộ, tôn kính, tri ân. Chúng ta nhận thấy trong xã hội con cháu thờ phụng ông bà, cha mẹ biểu lộ lòng hiếu thảo. Nhân dân lập đền thờ các vị anh hùng dân tộc biểu lộ lòng mến mộ gương đức hy sinh vì dân vì nước. Điều nầy thể hiện “Cây có cội nước có nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây” đây là thần nhân bản trong đạo lý làm người. Cho nên người Phật tử hơn ai hết ngoài việc chọn cho mình một vị giáo chủ để nương theo trên con đường tìm chân lý còn phải thể hiện đủ ba phương diện: tri ân, ngưỡng mộ và tôn kính.

Thờ Phật với lòng tri ân: Người Phật tử ngoài việc tạo tượng, đúc chuông, xây dựng chùa chiền bố thí cúng dường tạo phước, còn phải nhận thức Đức Phật là một vị giáo chủ có những đức tánh màchúng ta cần phải học tập noi theo để từ đó hướng bản thân mình tiến dần đến giác ngộ giải thoát như Ngài. Qua hình ảnh đức Phật khơi lại nguồn tâm của chúng ta, làm cho nó tỏa sáng với những đức tính từ bi, bình đẳng.

Thờ Phật với lòng ngưỡng mộ: Người Phật tử ngưỡng mộ Phật không có nghĩa là sùng bái,ca tụng, tôn thờ như một thần linh ban phước, giáng họa mà chúng ta ngưỡng mộ Ngài qua những đức tánh: Bi, Trí và Dũng ( từ bi vô ngại, trí huệ vô biên và hùng lực phi thường). Chính ba đức tánh đặc thù nầy có hiệu năng giúp cho người Phật tử xây dựng một con người có lòng nhân, một gia đình hạnh phúc và hoán cải hoàn cảnh xã hội. Ngưỡng mộ Đức Phật là chúng ta lập cước cho bản thân mình đi trên con đường Ngài đã đi.

Thờ Phật với lòng Tôn kính: Tôn kính Phật không có nghĩa là chúng ta thần thánh hóa Đức Phật mà chúng ta tôn kính Ngài với một niềm tin qua một con người đức hạnh cao tuyệt, đưa đường chỉ lối cho chúng ta thăng tiến trên bước đường tâm linh. Trên tinh thần đó người Phật tử là người thực hiện theo con đường giác ngộ của Phật, cho nên việc tôn kính Phật ngoài mục đích tín ngưỡng chúng ta còn thể hiện noi theo hạnh lành mà Phật đã thể hiện, trong đời sống.

2/ Nên thờ Đức Phật hay Bồ tát nào?.

Chúng ta biết rằng các Đức Phật đều có những đức tính trọn lành, một gương sáng mà chúng ta có thể nương nơi các Ngài để tu tập. Thờ Phật là nương nơi đức tánh đó, chứ không phải nhờ Ngài ban ơn giáng phước, tuy nhiên phải tùy theo tâm nguyện của mỗi người cảm nhận Đức Phật nào mà ta cảm thấy thích. Đối với Phật giáo Bắc tông ngoài thờ Phật Thích ca, Di Lặc, Di Đà, Dược sư…ngoài ra người Phật tử lại thường thờ các vị Bồ tát như Quán Âm, Phổ Hiền, Địa Tạng…. cũng chính điều nầy làm cho người Phật tử không xác định nhất quán về việc thờ Phật hay Bồ tát. Cũng từ những lệch lạc về nhận thức tinh thần Phật giáo làm cho người Phật tử sanh ra thờ Phật, Bồ tát một cách không còn đơn giản mà trở thành ” đa thần giáo ” nơi thờ Phật, Bồ Tát chớp sáng lập loè, mất hết vẻ tôn nghiêm . Thời đại của chúng ta là thời đại khoa học cho nên càng đơn giản càng tốt, vì chính sự đơn giản là trang nghiêm. Chúng ta nên thờ độc tôn Đức Phật Thích Ca là vị giáo chủ cõi Ta bà, vì hình ảnh của Ngài gần gũi với giáo lý mà chúng ta đang thực hành, Ngài cũng được các Chùa cả Nam Tông và Bắc Tông Phật giáo đều tôn thờ. Phải quan niệm thờ một vị Phật là thờ tất cả Phật.

3) Thờ Phật ở đâu cho phù hợp?.

Việc thờ Phật đối với người Phật tử là hết sức cần thiết vì ngoài biểu lộ xác định niềm tin Tam Bảo, còn một ý nghĩa nhắc nhở chúng ta hằng ngày. Cho nên việc thờ Phật phải ở nơi trang nghiêm,trang nghiêm không có nghĩa là trang nghiêm cho hình ảnh Phật và Bồ tát mà trang nghiêm cho chính bản thân chúng ta.Vì kinh Phật dạy: ” trang nghiêm tự thân tức là trang nghiêm Phật độ “. Thật vậy,trang nghiêm cho khung cảnh nơi thờ Phật là tạo cho người Phật tử một niêm tin hỷ lạc khi lễ Phật, tụng kinh. Như vậy, thờ Phật không nên rườm rà mà phải thờ sao cho có thẩm mỹ, vì chính sự thẩm mỹ đó tạo nên nét đẹp trang nhã phù hợp với tinh thần đơn giản, giải thoát của Đạo Phật.

Ngoài ra người Phật tử có thể treo hình ảnh Phật nơi phòng khách, phòng đọc sách, phòng học… nơi mà chúng ta làm việc hằng ngày, giúp cho chúng ta nhớ đến Phật với những hạnh lành mà mình cần phải noi theo, mỗi khi có những chướng duyên trái ý nghịch lòng, đức Phật như một vị Thầy bên cạnh nhắc nhở cho chúng ta từng giây từng phút.

II. TỤNG KINH, LỄ PHẬT & NIỆM PHẬT:

1/ Nguồn gốc ý nghĩa việc tụng kinh, lễ Phật& niệm Phật:

a) Vì sao phải tụng kinh?.

Khi Đức Phật viên tịch khoảng ba tháng, các vị đệ tử của Phật nhận thấy sự quan trọng của Phật còn tại thế và ý thức đến sự lâu dài những lời dạy của Ngài nên đã vân tập về thành Vương Xá đọc lại lời dạy của Đức Phật. Tôn giả A Nan là vị thị giả hầu cận Đức Phật nên được đại chúng đề nghị tuyên lại lời dạy của Phật gọi là Kinh Tạng, Ưu Ba Ly đọc lại giới luật gọi là Tạng Luật và sau nầy bàn luận thêm những điều liên quan đến lời dạy của Phật gọi là Luận tạng. Có thể nói đây là lần kết tập đâu tiên nhằm hệ thống hóa nền giáo lý của Đức Phật, khỏang 200 năm từ ngày Phật nhập diệt, có nhiều lần tuyên đọc lại lời Phật mà chúng ta gọi là “kết tập kinh điển” nhưng mãi đến khoảng năm 83 trước Tây lịch mới ghi thành văn bản và sự trùng tuyên nầy là nguyên nhân đầu tiên đọc hoặc tụng lời Phật dạy cho đến ngày nay.Việc tụng kinh không phải để Phật gia hộ phù trì, làm ăn phát đạt ” ăn nên làm ra ” mà đọc kinh nhằm để nhận ra nghĩa lý mầu nhiệm của kinh, để áp dụng tu tập trong đời sống.

b) Vì sao phải lễ Phật?

Lúc đức Phật còn tại thế với phong tục Ấn Độ lúc bấy giờ, lạy là bày tỏ lòng thành đối với các bậc đạo sư mỗi khi đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Vì thế cho nên Chư tăng cũng như Phật tử đều qùy ngay ngắn, chắp tay lạy ba lạy, đầu cuối lên hai chân Đức Phật và đặt trán mình lên bàn chân Ngài, sau đó đi quanh Phật ba vòng gọi là ” nhiểu Phật “, rồi mới ngồi xuống. Điều nầy được Đức Phật mặc nhiên chấp nhận như một người đệ tử đối với bậc thầy khả kính, chứ không phải là một giáo điều có tính cách bắt buộc. Sau khi Phật nhập diệt người đệ tử vẫn xem Ngài như còn tại thế những hình thức lễ nghi và cung kính ấy vẫn được duy trì trong hàng môn đệ của Ngài cho đến ngày nay.

Lễ Phật 3 lạy trước khi đọc lời Ngài nhằm nhớ lại xưa kia mỗi khi nghe thuyết Pháp đều lạy như vậy. Ba lạy là tượng trưng cho Tam Bảo tại thế gian, khi lạy phải qùy xuống, ngữa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng đạt trán mình trên hai lòng bàn tay. Lạy như vậy trong kinh gọi là ” thân tâm cung kính lễ “. Trong Phật giáo lạy Phật cũng thể hiện, thấu rõ sự lý vô ngại, đây là quan niệm của người Phật tử khi thờ Phật lễ Phật, thọ trì đọc tụng kinh và tọa thiền. Nếu không nhận ra điều nầy người Phật tử dễ bị thiên chấp: làm sự bác lý, hiểu lý thì quên sự, đây là bệnh cần phải biết để sửa đổi khi bước chân vào ngôi nhà Phật Pháp.

Về sự có 2 cách lạy:

a. Ngã mạn lễ: Lạy Phật mà tâm không thành, ngoài lạy nhưng trong tâm không kính, lạy cho lấy có, đầu không sát đất, đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả.

b. Cầu danh lễ: Lạy để người khác thấy mình là biết lạy, nhằm cho người khác khen mình nhưng khi không có ai thì biếng nhác, giải đải không muốn lễ bái.

Về lý có 4 phép lạy:

a. Phát trí thanh tịnh lễ: Người lạy Phật thấu được cảnh giới chư Phật,lạy một vị phật là lạy tất cả Phật, lạy một lạy là lạy cả pháp giới vì hiểu được Pháp thân Phật đều dung thông .

b. Biến nhập Pháp giới lễ: Khi người lạy Phật nhận biết quán thân tâm của mình cùng pháp giới không rời nhau.

c. Chánh quán lễ: Lạy Phật là lạy tự tâm của chính mình, vì tất cả chúng sanh đều có tánh giác bình đẳng như nhau: ” ở thánh không tăng ở phàm không giảm ” là ý nầy. Cho nên không bị ngoài duyên Phật bên ngoài chi phối, quên Đức Phật thật ở bên trong, người xưa thường nói: “dĩ huyển độ chơn” (nương nơi cái giả để tìm ra cái chân thật)

d. Thật tướng bình đẳng lễ: Lạy Phật với tâm” năng lễ sở lễ tánh không tịch ” ( người lễ và người được lễ đều vắng lặng) hay còn gọi là phàm thánh là một không hay không khác.

Bốn cách lạy trên thuộc lý cho nên nó cao thâm, nếu không suy tư tột cùng lý tánh thì khó có thể hiểu một cách xác đáng được.

c/ Vì sao phải niệm Phật?

Niệm Phật là niệm hay nhớ nghĩ đến tánh giác của chính mình,phương pháp nầy giúp cho hành giả đạt đến trạng thái định tâm, không bị phiền não dấy khởi. Phương pháp nầy còn là hạt giống gieo vào cõi nước Cực Lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh về.

Niệm Phật được phát xuất từ một câu chuyện : “A Xà Thế là con vua Tần Bà Sa La và Hoàng Hậu Vi Đề Hy, vì nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa, đoạt ngôi vua cha bắt nhốt vào ngục, không cho ăn uống để phải chết đói. Hoàng Hậu Di Đề Hy biết vậy cho nên xin vào thăm, bà lén đắp thức ăn vào người, để đem vào ngục cho vua ăn. A Xà thế biết được liền hạ lệnh giam Hoàng Hậu,trong lúc cực kỳ đau khổ đó, Hoàng hậu tưởng nhớ đến Đức Phật. Đức Phật cũng cảm nhận được tâm niệm của Hoàng Hậu nên hiện đến thuyết Pháp nói về pháp môn niệm Phật cỏi Phật A Di Đà ở Tây phương và dạy bà phương pháp quán Vô lượng thọ. Chính nhờ tu tập pháp môn nầy sau khi chết Hoàng hậu được vãng sanh .

Niệm Phật theo tinh thần của Tịnh độ tông có nhiều loại, ở đây đề cập đến một số phương pháp:

-Trì danh niệm Phật: Hành giả chuyên tâm niệm Phật A Di Đà mỗi ngày từ khi thức dậy trong 4 oai nghi ( đi,đứng, nằm, ngồi) cho đến lúc ngủ không cho các tạp niệm xen vào.

-Tham cứu niệm Phật: Đây có thể nói là một câu tham thoại đầu cuả Thiền tông,vì người niệm Phật luôn luôn quán sát, đặt câu hỏi: Niệm Phật là ai?, niệm phật từ đâu đến?, đến rồi đi về đâu?…

-Quán tượng niệm Phật: Hành giả ngồi trước tượng Phật quán sát các tướng tốt của Phật, nhờ chú tâm quán sát nầy mà tâm hành giả thấm nhuần lâu ngày thành nhất tâm bất loạn.

-Quán tưởng niệm Phật: Hành giả quán tưởng đến hình ảnh đức Phật A Di Đà, đi đứng không bị gián đoạn, lúc nào cũng đều thấy hình Phật hiện trước mắt hành giả.

-Thật tướng niệm Phật: Hành giả niệm Phật đạt đến bản thể chơn tâm không sanh diệt, như như bất động, không còn năng và sở (người niệm và câu niệm) đây là phương pháp niệm Phật thuộc về “lý” còn 4 phương pháp trên thuộc “sự ” “niệm đến vô niệm mới là chơn niệm“.

Trong năm phương pháp nêu trên thì hành giả niệm Phật thì người niệm Phật chọn “trì danh niệm Phật” vì dễ thực hiện. Ngoài niệm Đức Phật A Di Đà ra người Phật tử còn niệm Phật Thích Ca Mâu Ni, Quán thế Âm…

d) Ý nghĩa lợi ích của tụng kinh, lễ Phật & niệm Phật:

Ý nghĩa:

– Đọc tụng kinh để cảm nhận lời Phật dạy và thấy mình không có phước duyên nghe chính từ kim khẩu Phật nói Pháp và cũng thông qua đọc kinh chúng ta mới tư duy quán chiếu những lới dạy của Ngài để từ đó thực hành tu tập. Mục đích của việc tụng kinh là để thấu hiểu những nghĩa lý thâm sâu trong lời kinh, cho nên kinh nào cũng có thể thọ trì miễn kinh đó là của Phật dạy và phù hợp với trình độ nhận thức của chính ta. Điểm quan trọng là việc tụng đọc kinh là hiểu được lý kinh để cố gắng thực hiện, sống với điều kinh nói, chứ không phải chỉ tụng cho nhiều hay ít hoặc kinh này cao hay kinh khác thấp, kinh nầy tiêu nghiệp có phước, kinh kia đổ nghiệp.

– Lễ Phật là lễ những đức tánh cao cả của Chư Phật, lạy cũng giúp cho chúng ta giảm bớt đi lòng kiêu căng ngã mạn, cống cao. Lạy Ngài là mong muốn được noi theo những đức tính từ bi hỷ xả của Phật và Bồ tát, ngoài ra không phải vì mục đích mong Phật, Bồ Tát ban ơn gia hộ. Lễ Phật còn là một biểu hiện tinh thần hướng thượng của người Phật tử đối với đấng giác ngộ mà chúng ta đang hướng về để tu tập học hạnh giải thoát.

Lợi ích :

Về Cá nhân : Lúc tụng kinh, lễ Phật tâm hành giả đặt vào văn kinh và tượngPhậ mà mình đảnh lễ nên sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) nhiếp niệm một chỗ nên thân, miệng, ý không buông lung tạo ác nghiệp.

– Về gia đình: Trong gia đình nếu có người biết tụng kinh,lễ Phật thì gia đình đó có một nếp sống thuần lương đạo đức do ảnh hưởng qua lời kinh, tiếng mõ và biết lễ những bậc giác ngộ. Nếu trong gia đình khi nghe tiếng tụng kinh,thấy người khác lễ Phật tuy không thích cũng giảm đi sự ồn ào náo nhiệt, có một cảm mến, gia đình đó nhờ vậy mà hoà thuận êm ấm.

– Về những người chung quanh: Trong những giờ phút tụng kinh lễ Phật hương trầm hoa ౵?ện vào với tiếng mõ nhịp đều pha lẫn tiếng chuông ngân có thể làm cho những người xung quanh thức tỉnh giấc mê quay về với thực tại, khi nhìn thấy một người biết lễ bái và tiếng kinh đi vào tai người nghe, gợi cho tâm thức người ấy một cử chỉ hướng thượng.

Để kết luận phần nầy chúng ta hãy đọc lại lời bạc trong Khoá Hư Lục của Trần Thái Tông nhằm thấy rõ ý nghĩa đích thực của việc tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật và lễ Phật :

Lễ Phật giả kính Phật chi đức,
Niệm Phật giả cảm Phật chi ân,
Trì giới giả hành Phật chi hành,
Khán kinh giả minh Phật chi lý,
Tọa thiền giả đạt Phật chi cảnh,
Tham thiền giả hiệp Phật chi tâm,
Thuyết Pháp giả mãn Phật chi ý.

Dịch nghĩa:

Lễ Phật là kính đức của Phật,
Niệm Phật là cảm ân đức cuả Phật,
Giữ giới là hành hạnh của Phật,
Xem kinh là để rõ lý của Phật ,
Tọa thiền là để đạt cảnh của Phật,
Tham thiền là để hợp cái tâm của Phật,
Thuyết pháp là để đầy đủ nguyện của Phật.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.