2.2. Ảnh hưởng của đạo Phật đối với chính trị vương triều Lý
Tổ chức chính quyền
Đến thế XI, cùng với quá trình đánh bại các thế lực ngoại xâm giữ vững nền độc lập dân tộc, mở rộng lãnh thổ, dân số gia tăng, kinh tế, văn hóa phát triển thì một bộ máy chính quyền cũng được xây dựng từ trung ương tới địa phương. Bên cạnh những ảnh hưởng do quá trình tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, ý thức tự tôn dân tộc thì đạo Phật đã để lại một dấu ấn khá đậm nét trong việc tổ chức bộ máy chính quyền của triều Lý.
Đứng đầu nhà nước là vua. Vua là thủ lĩnh tối cao, lãnh đạo và điều hành mọi công việc của đất nước. Đôi khi vua được thần thánh hóa, là người chủ tế trong các nghi lễ tôn giáo. Dưới triều Lý các ông vua đều tôn sùng đạo Phật do đó đã có ông vua tự xưng mình là Phật như trường hợp của Lý Cao Tông (1176 – 1210). Giúp việc cho vua là một hệ thống quan lại gồm Tam thái, Tam thiếu, Tể tướng, Á tướng… Đặc biệt trong bộ máy chính quyền trung ương của triều Lý có một nghạch quan dành riêng cho những người tu hành gọi là hệ thống Tăng quan. Đứng đầu hệ thống Tăng quan là Tăng Thống. Tăng Thống là một chức sắc của đạo Phật , là người đứng đầu tăng ni cả nước. Dưới là Tăng Lục, ngoài ra còn có Tăng Ty giác nghĩa, Tăng đạo chánh, phó Tăng đạo chánh đều chật tòng cửu phẩm. Các Tăng quan và nhà sư có tài được nhà vua rất trọng dụng và có vai trò lớn trong việc ban bố các chính sách của nhà nước. Nhiều khi họ được trực tiếp tham gia bàn chính trị với nhà vua và bá quan văn võ trong triều. Các vị sư Đa Bảo, Viên Thông, Nguyên Thường… nhiều lần được Lý Thái Tổ (1010 – 1028) mời vào cung để luận bàn việc nước. Một số nhà sư có công lao đối với đất nước được nhà vua phong làm Quốc sư như Quốc sư Viên Thông, (1080 – 1151), Quốc sư Thông Biện ( ? – 1134)… các Tăng quan được ví như những cố vấn chính trị đặc biệt của nhà vua.
Sự có mặt của các nhà sư trong bộ máy chính quyền triều Lý ở trung ương, việc trực tiếp tham gia vào guồng máy chính quyền nhà nước hiện rõ nét ảnh hưởng của đạo Phật đối với tổ chức chính quyền của triều Lý.
Tinh thần nhân ái, khoan dung trong luật pháp.
Trước triều Lý Việt Nam chưa có luật pháp thành văn. Triều Đinh, Tiền Lê thường nuôi hổ, đặt vạc dầu để ngăn đe, xử phạt những ai vi phạm những quy định của nhà nước.
Triều Lý được thành lập, kinh tế, văn hóa, xã hội có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn trước, nhiều vấn đề xã hội nảy sinh. Để quản lý đất nước, điều chỉnh hành vi của dân chúng, củng cố hơn nữa chế độ quân chủ trung ương năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình thư – bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Nếu như triều Đinh, Tiền Lê luật Pháp có phần dã man “người nào trái phép sẽ bị chịu tội bỏ vạc dầu nấu hay cho hổ ăn” [2;148] thì luật pháp triều Lý lại chứa đựng tinh thần nhân ái, khoan dung mang dấu ấn của tư tưởng” từ bi hỉ xả” của đạo Phật. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép “Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa định luật lệnh châm trước cho thích dụng với thời bây giờ, chia ra môn loại, biên ra nhiều khoản làm sách hình luật của một triều đại”[ 1;206]. Chính “lòng thương xót” của vua Lý đối với dân chúng đã chi phối nội dung luật pháp của nhà nước, lòng thương xót ấy là sự dung hợp giữa truyền thống của dân tộc Việt Nam với tư tưởng nhân ái, cứu khổ của đạo Phật.
Đối với những người vi phạm vào các quy định của nhà nước vua Lý thường lấy lòng khoan dung mà tha thứ. Năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi đã tha tội làm phản cho Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương. Năm 1043, Nùng Trí Cao ở Châu Quảng Nguyên làm phản, sau khi bắt được Trí Cao vua không những tha tội mà còn ban cho đô ấn, phong làm Thái bảo và ban cho mấy châu,q. Đối với tội giết người pháp luật triều Lý quy định tranh nhau ruộng đất mà lấy đồ khí nhọn sắc đánh chết hoặc làm bị thương người khác thì bị đánh 80 trượng và chịu đày. Giết người, làm phản là những trọng tội, các triều đại sau này liệt nó vào những tội “thập ác” thế nhưng với tinh thần thương dân, lòng nhân ái, khoan dung các vua Lý đã xử phạt rất nhẹ. Sử thần triều Lê Ngô Sĩ Liên đánh giá “Giết người thì phải xử tội chết đó là phép của đời xưa, nay tội giết người cũng xử như tội khác thật là không phân biệt mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ” [1;333]. Từ đó Ngô sĩ Liên chỉ ra nguyên nhân “Đó là vì Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua” [ 1; 273].
Luật pháp triều Lý đặc biệt chú ý tới người già, trẻ nhỏ, coi trọng công tác giáo dục, ngăn ngừa. Pháp luật triều Lý quy định những người trong độ tuổi từ 70 đến 80, trẻ nhỏ từ 15 đến 10 tuổi nếu phạm tội thì cho phép dùng tiền để chuộc tội. Trong xét xử các vua Lý thường khoan dung, lấy giáo dục làm chính. Có lần khi đang xét xử vua Lý Thánh Tông chỉ vào công chúa Động Thiên mà nói “Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau không kể tội gì nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm” [1; 273].
Thương dân không chỉ bằng việc khoan dung đối với những người phạm tội, luật pháp triều Lý còn có những quy định rất cụ thể để bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp, bảo vệ người lao động như việc cấm giết mổ, ăn trộm trâu, bò, cấm không được buôn bán hoàng nam làm gia nô hay thiến, hoạn nam giới…
Luật pháp là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ trước hết là quyền lợi của họ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đạo Phật, luật pháp triều Lý chứa đựng những nhân tố rất tiến bộ trong đó nổi bật là tinh thần nhân ái, khoan dung đối với nhân dân, bảo vệ, chăm lo tới cuộc sống của dân.
“Yêu dân như con” là đạo trị nước của triều Lý.
Tư tưởng nhân ái, từ bi của đạo Phật hòa quyện với truyền thống”thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam đã tạo nên cái tâm trị nước của triều Lý.
Các vua Lý có quan hệ gần gũi với nhân dân, coi trăm họ trong bốn biển như con đỏ, chăm lo tới cuộc sống của dân, xót xa khi thấy dân khổ, vỗ về khi lòng dân không yên. Các vua Lý đều có lệ thân chinh đi làm lễ cày ruộng tịch điền, xem dân chúng sản xuất, kinh lý nắm bắt tình hình cuộc sống của dân. Trong những năm lũ lụt, hạn hán mất mùa nhà nước đều thực hiện cấp thóc gạo, tiền, lụa, giảm, xóa thuế cho dân chúng. Năm 1010, sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ đại xá thuế khóa cho thiên hạ trong ba năm, những người già yếu, mồ côi, góa chồng thì được xóa thuế nợ…
Dường như lòng nhân ái của các vua quan triều Lý đã vượt ra khỏi danh giới giai cấp, địa vị xã hội, vượt qua không gian, xuyên suốt thời gian tồn tại của vương triều. Thật cảm động khi Lý Thánh Tông thương xót và đồng cảm với nỗi khổ của những tù nhân trong mùa đông lạnh giá “Mùa đông năm Ất Mùi 1055, trời giá rét Lý Thánh Tông nói với các quan rằng ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét như thế này. Ta nghĩ đến tù nhân bị nhốt trong lao tù, chịu trói buộc khổ sở, mà chưa biết phải trái ra sao. Ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân. Vì gió rét, nên có kẻ chết không nơi nương tựa. Ta thật thấy làm thương” [6; 364]. Ngay sau đó vua sai người mang chăn, chiếu cùng với hai bữa cơm mỗi ngày cho phạm nhân. Vua Lý Nhân Tông thường hay mở hội Phật và tha cho những người có tội, còn Lý Thần Tông thì không có việc gì cũng tha bổng cho những người mắc tội… Lòng nhân ái, thương người của các vua Lý không chỉ đối với nhân dân Đại Việt mà còn cả với những tù binh Chiêm Thành. Năm 1010, Lý Thái Tổ đã tha cho 28 người Chiêm Thành bị Lê Ngọa Triều bắt trước đó. Không những Thế vua Lý còn sai người cấp thuốc men, quần áo, lương thực để họ trở về quê hương.
Tư tưởng”yêu dân như con” trong đạo trị nước của triều Lý không phải là sự giả dối của giai cấp cầm quyền mà là”phần biểu diễn của lòng từ bi do Phật giáo gây nên”[6; 365].
Tuy nhiên, cần phải nói rằng đây là một trong những chính sách của nhà nước phong kiến, xuất phát từ nhưu cầu, lợi ích của giai cấp thống trị nhằm củng cổ địa vị thống trị của họ trong xã hội.
Mềm dẻo, linh hoạt và nhân văn trong chính sách đối ngoại
Đối với Chiêm Thành, triều Lý luôn giữ mối quan hệ hòa hiếu. Tuy nhiên, do nhiều lần Chiêm Thành đem quân quấy rối biên giới phía Nam, cướp của, bức hãm nhân dân cho nên nhiều lần vua Lý đã thân chính cầm quân đi đánh dẹp. Năm 1044, Lý Thái Tông cầm đánh Chiêm Thành bắt được hơn 5000 tù binh. Vua không những không cho giết mà còn cho họ nhận hộ thuộc làm ăn sinh sống ở Vĩnh Khang (Nghệ An ngày nay). Năm 1069, Lý Thánh Tông bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ cùng 5 vạn dân Chiêm Thành vua cũng không giết một ai.
Đối với nhà Tống, triều Lý có quan hệ hòa hiếu, ân cần nhận sắc phong đồng thời thực hiện lễ sính và triều cống đều đặn. Sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống triều Lý giao trả cho nhà Tống những dân phu, quân lính bị bắt tại Khâm Châu, Ung Châu năm 1075.
Chính sách ngoại giao khôn khéo của triều Lý đối với Chiêm Thành và nhà Tống trước hết là nhằm bảo vệ, củng cố chính quyền của giai cấp phong kiến nó tưởng chừng như không có liên quan gì đến tôn giáo song việc triều Lý đối xử nhân ái với những tù binh bị bắt trong chiến tranh xuất phát từ cái tâm của người cầm quyền. Cái tâm ấy được tắm mình trong truyền thống nhân ái của người Việt hòa quyện với tư tưởng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật.