Hai Dòng Thiền Lâm Tế Tại Việt Nam

Phú Yên, Quảng Nam có Thiền Lâm Tế Chúc Thánh ( 1)
Thừa Thiên ( Huế ) Lâm Tế Liễu Quán đồng thời
Được Tổ Nguyên Thiều tuân lệnh vua sang Trung Quốc để mời (2)
Trong phái đoàn mười sư đến chứng minh lập đàn truyền giới(3)

Riêng kệ thị tịch Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã nhắn gửi (4)
Triệt ngộ giải thoát ” KHÔNG TÁNH , TƯỚNG của CHÂN NHƯ “(5)
Nghĩa là Như Lại Tạng thanh lọc sạch chẳng còn nhơ
Đấy lời Thế Tôn : ( Kinh Lăng Già ) với Bồ Tát Đại Huệ (6)

Riêng Ngài Liễu Quán vượt Trường Sơn được công án tham cứu (7)
Hoàn cảnh gia đình… triệt ngộ cần đến 8 năm (8)
Lần thứ ba gặp Sư Phụ ấn Tâm truyền Tâm (9)
Bài Tắm Phật …kinh nghiệm riêng cá biệt

Quá tuyệt diệu Tổ Sư Thiền từ đấy đi vào Phật Giáo Việt

Huệ Hương

___________________________________

(1) Ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội An.

Lúc bấy giờ Ngài độ khoảng 26 hoặc 27 tuổi.
Những ngày đầu nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng ngày một quy ngưỡng tham học.

Thấy cơ duyên hóa độ đã đến, Ngài chính thức khai đường giảng pháp, tiếp tăng độ chúng. Để cho sự truyền thừa có quy cũ dài lâu, Ngài biệt xuất một bài kệ truyền pháp. Bài kệ truyền pháp của Ngài như sau:
Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tông
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung

Từ đây, trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam có một dòng thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng thiền Chúc Thánh, hay còn gọi thiền phái Minh Hải Pháp Bảo. Trong bài kệ này, 4 câu đầu dùng để đặt pháp danh và 4 câu sau dùng để cho pháp tự.

(2) Ngài Nguyên Thiều trở về Trung Quốc thỉnh chư tăng và các pháp khí sang An Nam lập đàn truyền giới. Mãi cho đến năm Ất Hợi (1695) thì Ngài mới thỉnh được Hòa thượng Thạch Liêm ( thuộc tông Tào động rất nổi tiếng bấy giờ nên phải thỉnh tới 3 lần ) cũng như các ngài Minh Hải-Pháp Bảo, Minh Vật-Nhất Tri, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Lượng-Thành Đẳng v.v… trong hội đồng thập sư sang truyền giới.

(3) Ngày mồng 1 tháng 4 năm Ất Hợi (1695), giới đàn được khai mở do Ngài Thạch Liêm làm Đàn đầu Hòa thượng.

Giới đàn truyền các giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ tát với tất cả 1400 giới tử trong đó có cả các vương hầu khanh tướng.
(Đặc biệt, Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền riêng 1 đàn giới và được Hòa thượng đàn đầu ban cho pháp danh Hưng Long, pháp hiệu là Thiên Tùng Đạo Nhơn.)

Sau khi giới đàn thành tựu, ngày 28 tháng 6 năm Ất Hợi (1695), phái đoàn trở vào lại Hội An để chờ thuyền về nước.
Tại Hội An, đoàn trú tại chùa Di Đà và thể theo lời thỉnh cầu của chư Tăng cũng như bổn đạo, Ngài Thạch Liêm lập đàn truyền giới cho 300 giới tử.

Ngày 19, đoàn rời Hội An ra Cù Lao Chàm, lên thuyền chờ gió.

Ngày 30 thuyền nhổ neo nhưng bị nghịch gió nên phải trở lại Hội An.

Ngày 12 tháng 10, chúa Nguyễn mời ngài Thạch Liêm trở lại Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới một lần nữa tại chùa Linh Mụ.

Sau đó đến ngày 24 tháng 6 năm Bính Tý (1696) ngài Thạch Liêm cùng với phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua nữa.

(4) Bài kệ thị tịch của Thiền Sư Minh Hải Pháp Bảo.

Nguyên phù pháp giới không
Chơn như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng

Dịch nghĩa:

Pháp giới như mây nổi
Chân như không tánh tướng
Nếu hiểu được như vậy
Chúng sanh với Phật đồng.

(5) Chân Như (zh. 真如, sa., pi. tathatā, bhūtatathatā) là một khái niệm quan trọng của Đại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đốicuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân.

(6) ” Muốn đạt tới giác ngộ giải thoát cần thanh lọc Như lại Tạng từ thuở ra ban sơ vì đó là nhân của thiện và bắt thiện”

Trong kinh Lăng Già này, vấn đề Như Lai tạng được đề cập từ khía cạnh khác nhau trong những đoạn khác nhau. Như Lai tạng, như đức Phật trình bày trong kinh này, chỉ hiển hiện khi đạt được chánh kiến (samyag-dṛṣṭi), từ chánh kiến, tâm được tịch diệt, “tâm tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm chính là Như Lai tạng”.[21] Chánh kiến là gì? “Này Lăng già vương! Tất cả pháp là chẳng phải pháp, không thể nghe, không thể nói. Này Lăng già vương! Tất cả pháp thế gian đều như huyễn, nhưng kẻ ngoại đạo phàm phu thì không biết. Này Lăng già vương! Nếu có thể thấy như vậy gọi là chánh kiến, nếu thấy khác đi thì là tà kiến”.[22]

Như đức Phật đã trình bày, mục đích Ngài thuyết Như Lai tạng không gì khác hơn là để cho những kẻ ngu muội bỏ tâm sợ hãi khi nghe nói đến giáo lívô ngã và để họ thể chứng được trạng thái vô phân biệt và vô tưởng mà thôi. Bởi lẽ, khi nói đến “không” thì kẻ ngu liền nghĩ nếu “không” thì tu làm gì và cũng đâu có gì đạt được mà tu. Cho nên, đức Phật nói rằng, Như Lai tạng là cái không nhiễm ô, mỗi chúng sanh đều có, nó như viên ngọc báu được giấu trong vỏ bọc của thân ngũ uẩn này, chỉ vì vô minh, tham, sân, si, mà chúng sanh không nhận ra.[23] Nói như vậy để họ tin rằng mình cũng có cái gì đó và nỗ lực tu để đạt đến. Nhưng khi nghe Phật nói như vậy thì có kẻ lại đánh đồng nó với khái niệm “ngã” (Ātman) trong Bà la môn giáo. Chính vì điều này mà Bà la môn giáo cho rằng Đại thừa Phật giáo là xuất phát từ họ và ngay cả các học giả Tiểu thừa cũng báng bổ và cho rằng Đại thừa là tà giáonên đã đả phá kịch liệt. Thật ra, cái “ngã” này như là kẻ sáng tạo, trường cửu, bất định tính, ở khắp nơi và bất diệt.[24] Như Lai tạng, theo Phật “là cái không, cái bờ giới của thực tính, Niết bàn, vô sinh, vô nguyện (apraṇihita)”.[25] Chính học thuyết Như Lai tạng của Phật là điểm phân biệt với ý niệm về “ngã” của các học thuyết khác.

Một vấn đề quan trọng khác trong kinh trình bày là sự liên quan giữa A lại da thức (Ālayavijñāna) và Như Lai tạng. Như Lai tạng chính là A lại da thức và hàm chứa chủng tử thiện (sādhu) và ác (agha) và tất cả hình thức hiện hữu đều từ trong này mà ra, trong bản thân nó không có cái gì để gọi là tự ngã hay linh hồn. Sự nhận thức đạt được khi căn, cảnh và thức hoà hợp. Ngoại đạo vì không hiểu điều này nên chấp chặt vào ý niệm và cố gắng đi tìm một nguyên nhân duy nhất cho sự sanh khởi các pháp.

(7) Năm (1702), Sư Liễu Quán lại về Long Sơn tham yết Hòa thượng Tử Dung cầu dạy pháp tham thiền. Hòa thượng dạy Sư tham câu:

Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Sư ngày đêm tham cứu đến bảy, tám năm mà chưa lãnh hội, trong lòng tự lấy làm hổ thẹn.

Một hôm, nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thoạt nhiên Sư được tỏ ngộ. Nhưng vì núi sông cách trở, Sư không thể đến ngài Tử Dung để trình sở ngộ được.mãi Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Sư trở ra Long Sơn cầu Hòa thượng ấn chứng.

Sư đem chỗ công phu của mình mỗi mỗi trình bày, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Ngay lúc đó liền bảo:

– Bờ thẳm buông tay, tự nhận đảm đang,
Chết rồi sống lại, dối người chẳng được.
(Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương,
Tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc.)

Sư liền vỗ tay cười ha hả!

Hòa thượng bảo:
– Chưa nhằm.
Sư nói:
– Trái cân vốn là sắt (bình thùy nguyên thị thiết).
Hòa thượng bảo:
– Chưa nhằm.
Hôm sau Hòa thượng gọi Sư đến bảo:
– Chuyện hôm qua chưa xong, nói lại xem!
Sư thưa:
– Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi.
(Tảo tri đăng thị hỏa,
Thực thục dĩ đa thì.)

Bấy giờ, Hòa thượng mới chấp nhận và khen ngợi.

(8) Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện (?), Sư đem trình bài kệ Dục Phật (tắm Phật).

Hòa thượng hỏi:
– Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhau, chẳng biết truyền trao cái gì?

Sư thưa:
– Búp măng trên đá dài một trượng,
Phất tử lông rùa nặng ba cân.
(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,
Qui mao phủ phất trọng tam cân.)

Hòa thượng nói:
– Thuyền chèo trên núi cao,
Ngựa đua dưới đáy bể.
(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã.)hỏi yếu nghĩa là sao?

Sư đáp:
– Cây đàn không dây trọn ngày gẩy
Trâu đất gẫy sừng rống suốt đêm.
(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử tận nhật đàn.)

Sư biện tài lanh lẹ, lâm cơ ứng biến, như nước với sữa rất phù hợp. Hiển bày lý tánh của Bát Nhã

(9) Truyền Tâm Ấn Có nghĩa là vị Minh Sư đã chấp nhận vào hàng ngũ của thánh nhân, Dựa theo tích truyện Niêm Hoa Vi Tiếu

Niêm hoa vi tiếu (zh: 拈花微笑, j: nenge-mishō) nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười đây là một giai thoại thiền, được trích ra trong cuốn “Đại Phạm Thiên Vương vấn Phật Quyết Nghi Kinh, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp mỉm cười.

Hôm nọ, trên núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa) trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại chúng ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Ca-diếp(Mahākāśyapa) mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố với các thầy tì kheo: “Ta có chính pháp vô thượng trao cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tì kheo, cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”[1]. Từ câu nói này, chư vị Thiền sư tiền bối đã diễn đạt thành: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay ta phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp”[2].

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.