Chân Tâm Và Hạnh Tinh Tấn

Đại Sư Khuông Việt đã để lại thông điệp cho đời qua hai Pháp ngữ tuyệt diệu về Chân Tâm và hạnh Tinh Tấn

Thiền Sư Khuông Việt (933-1011), Đời thứ 4 Thiền Phái Ngôn Thông, ngài cũng là vị Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam

Kính ngưỡng Đức Đại Sư Ngô Chân Lưu Khuông Việt !
Hơn ngàn lẽ mười năm lịch sử tạc dạ ghi ân
Tăng Thống đầu tiên Việt Nam định hướng giúp dân (1)
Hậu học hữu duyên tán dương bậc xuất trần thượng sĩ !

Thâm chuyên Nho giáo, nhận ra Đạo Phật yếu chỉ !
Bảy chín năm đã để lại hai thông điệp cho đời (2)
Hành trạng bậc chân tu quá tuyệt vời
Thế kỷ hiện đại … đại trượng phu có bao người tuyệt thế ?

Ngài thuộc dòng dõi thời Vua Ngô Thuận Đế(3)
Triều đại ngắn ngủi và loạn 12 sứ quân
Một trang lịch sử … ôn lại hào khí tinh thần
Bi Trí Dũng tìm thấy nơi đại sư Khuông Việt

Không tự hào, thỏa mãn dù liễu triệt
Miên mật tinh tấn giữ vững niềm tin
Sáng ngời uyên nguyên THỂ TÁNH TỊNH MÌNH
Cây sẵn có lửa hãy liên tục cọ sát !

Hành diện thay ! Phật tử chúng ta cất cao tiếng hát !
Nam Mô Đại Sư Khuông Việt Ngô chân Lưu tác đại chứng minh

Huệ Hương – Melbourne 9/7/2021

___________________________

(1) Năm 40 tuổi, danh Sư vang khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứng đối rành rẽ, vua rất mến phục, phong chức Tăng Thống. Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), vua lại phong Khuông Việt Đại Sư.

Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, vua đều mời Sư vào hỏi.

(2) Khi dạy đạo
Sau, Sư viện lẽ già yếu xin từ quan, về quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật Đà trên núi Du Hý, làng Cát Lợi, quận Thường Lạc, rồi trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tụ họp về vấn học rất đông.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi:
– Thế nào là trước sau học đạo ?
Sư đáp:
Trước sau không vật tợ hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.
(Thủy chung vô vật diệu hư không,
Hội đắc chân như thể tự đồng.)
– Làm sao gìn giữ ?
– Không chỗ cho ngươi hạ thủ.

Bài kệ để lại cho đời trước khi thị tịch của Thiền Sư Khuông Việt vào ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (tức 22 tháng 3 năm 1011),

Mộc trung nguyên hữu hoả
Hữu hoả, hoả hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hoả
Toản toại hà do manh.

Trong cây vốn có lửa,
Sẵn lửa, lửa mới sinh
Nếu cây không có lửa,
Khi cọ xát sao lại thành?

(3) Tăng Thống Ngô Chân Lưu, được ban danh hiệu Khuông Việt đại sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Theo sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập vốn có tên là Ngô Xương Tỷ. Ông là anh của sứ quân Ngô Xương Xí. Sách Thiền Uyển tập anh chỉ ghi ông thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế 1.
Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (933), cha vợ thứ của ông nội ông là Ngô Quyền. Năm 937, Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết, Ngô Quyền giết Tiễn và đánh bại quân Nam Hán, lên ngôi vua (938). Năm 944, Ngô Quyền mất, đáng lý con trai trưởng ông là Ngô Xương Ngập phải được thừa kế, nhưng người con của Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha tranh ngôi. Cha ông phải bỏ trốn về Hương Trà, nương nhờ Phạm Lệnh Công và lấy con gái Lệnh Công, sinh ra người em Xương Xí.
Dương Tam Kha lùng bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được. Chú hai Ngô Xương Văn là con bà nội kế Dương Như Ngọc nên được Tam Kha nhận làm con nuôi. Có lẽ trong cảnh gia đình gặp tai họa đó, người cha không biết sống chết lúc nào, cậu bé Ngô Chân Lưu (11 tuổi năm 944) không nơi nương tựa đã tìm đến cửa Thiền đề thoát nạn.

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.