Lục Vân Tiên


Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xa nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng : “Tẩu tẩu ở đâu, (312)
Cho em ra mắt chị dâu thế nào”.
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng : “Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã sang miền Ô Qua.
May đâu sum hiệp một nhà,
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào”.
Tiên rằng : “Nàng tính thế nào ?”
Nàng rằng : “Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà “.
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề. (313)
Sở vương nghe trạng nguyên về,
Sai quan tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở vương bước xuống kim ngai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng : “Trẫm sợ nước Phiên,
Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ “.
Lệnh truyền mở yến triều đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô Qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng.
Phán rằng : “Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu “.
Thái sư trước bệ quì tâu :
“Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì, (314)
Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân”
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng :
“Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa.
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng ?
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng.
Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời. (315)
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan “.
Trạng nguyên tâu trước triều đàng :
“Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen “. (316)
Sở vương phán trước bệ tiền :
“Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (317)
Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng. (318)
Hớn xưa có gã Đổng công, (319)
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng họ Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa ?
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp tâm kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà “.
Sở vương phán trước triều ca :
“Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà “.
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời :
“Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao ?”
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.
Minh rằng : “Ai mượn kêu anh,
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan “.
Trực rằng : “Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dẫu cho có sống, làm gì nên thân ?”
Hâm rằng : “Nhờ lượng cố nhân,
Vốn em mới dại một lần xin dung “.
Trạng rằng : “Hễ đứng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi “.
Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh – Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kíp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng,
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng, (320)
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm.
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại Đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng :
“Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thoả tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay”.
Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền. (321)
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng :
“Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì ?
Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan ?”
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng :
“Phải người đồng tử mắc màn chốn ni ?”
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn (322)
Ai dè còn thấy bổn quan, (323)
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi .
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần dư phút đã gần kề Hàn Giang. (324)
Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu ;
“Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may”.
Loan rằng : “Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang”.
Trang rằng : “Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
Dầu chàng còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công”.
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên . (325)
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều.
Ngư tiều nay đặng danh biêu, (326)
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng : “Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này”.
Trạng rằng : “Bưng bát nước đầy,
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong ?
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi”. (327)
Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng : “Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi ?
Ca ca sao chẳng chịu đi, (328)
Về cho tẩu tẩu, để khi xách giày ?”
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy, chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp nhảy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc không trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết nghĩa sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Chớ đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Đông Thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng, (329)
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời. (330)

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.