Lục Vân Tiên

Một mình nhắm trước nhắm sau,
Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn,(138)
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: “Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.(139)
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?”
Đồng rằng: “Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy”.
Ngang rằng: “Ta ở chốn này,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y.(140)
Gẫm trong Ngân hải tinh vi,(141)
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.(142)
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang.(143)
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân.(144)
Vị chi sẵn đặt quân thần,(145)
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146)
Mạch thời đọc phú Lư san,(147)
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh
Lục quân tứ vật thanh danh.(148)
Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương.(149)
Lại thông Bát trận tân phương.(150)
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài.(151)
|Đồng rằng: “Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.
Ngang rằng: “Lục bộ đều suy,(152)
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng.(153)
Cứ trong kinh lạc mà thông,(154)
Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu.(155)
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm.(156)
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,(157)
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.(158)
Ngoài thời cho điểm vạn linh,(159)
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.(160)
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai”.(161)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: “Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm”.
Ngang rằng: “Nằm thấy khi đêm.
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.(162)
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?(163)
Tiểu đồng, người khá qua cầu,(164)
Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên”.
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: “Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.(165)
Huỳnh kim Dã hạc sách cao,(166)
Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.(167)
Can, chi đều ở trong tay,(168)
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành”.
Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi.(169)
Ứng vào rùa với cỏ thi, (170)
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường”.
Đồng rằng: “Người ở đông phương,
Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây”.
Bói rằng: “Đinh sửu năm nay,
Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta”.
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một giao hai sách lại ba hào trùng.(171)
Trang thành là quẻ lục xung,(172)
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn, (173)
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan.(174)
Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho quẻ ấy đặng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.
Đồng rằng: “Thầy pháp đâu đây?”
Bói rằng: “Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay dậy tiếng đồn xa,
Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn”.
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.
Đồng rằng: “Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay”.
Pháp rằng: “Ân đã cao tay,(175)
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì.(176)
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.(177)
Pháp hay sái đậu thành binh,(178)
Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.
Pháp hay đạo hoả phó thang, (179)
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.(180)
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho”.
Đồng rằng: “Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bịnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy”.
Pháp rằng: “Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra”.
Đồng rằng: “Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào”.
Pháp rằng: “Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rồi trao phù về”.
Đồng rằng: “Tôi vốn thằng hề,(181)
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?”
Pháp rằng: “Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài”.
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
“Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng.(182)
Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên,(183)
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây.(184)
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây,(185)
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi.(186)
Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Lại mời công chúa Ngũ Long, (187)
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh.(188)
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân.(189)
Thỉnh trong khắp hết quỷ thần,
Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai”.
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang:
“Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?”
Ngang rằng: “Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy”.
Đồng rằng: “Tôi hãy ở đây,
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi”.
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:(190)
“ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che”.
Đồng rằng: “Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này.(191)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau”.(192)
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.(193)
Đương khi mưa gió luông tuồng,(194)
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao.
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: “Đi đã ngẩn ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn”.
Đồng rằng: “Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi”.
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
“Anh về nay đã hai rằm,(195)
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?”
Tiên rằng: “Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?”
Hâm rằng: “Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông Thành,
Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong?
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau”.
Tiên rằng: “Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này”.
Hâm rằng: “Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì”.
Tiểu đồng vội vã ra đi
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
“Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong”.
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
“Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.(196)
Bấy lâu đất khách lưu linh,
Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau,
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình”.
Hâm rằng: “Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi”.
Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
“Phận mình đã mắc tai nàn,
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm”.
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên,(197)
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.(198)
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
“Bữa qua có thấy người tang chăng là?”(199)
Quán rằng: “Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn”.
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: “Biết chỗ nào chôn chỉ chừng”.
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: “Thằng nào tới đây?”
Đồng rằng: “Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?”
Người rằng: “Một gã con trai,
ở đâu không biết lạc loài tới đây.
Chưn tay mặt mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương”.
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi,
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm.(200)
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.(201)
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.(202)
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.(203)
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.(204)
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,(205)
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: “Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui”.(206)
Tiên rằng: “Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi trên cây.(207)
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ”.
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,(208)
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,(209)
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.
Tiên rằng: “Vậy cũng một làng,
Võ Công người ở gần đàng đây chăng?”
Ngư rằng: “Nhà ở cũng gần,
Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi”.
Tiên rằng: “Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu,(210)
Xin đem tới đó trước sau cho tròn”.
Ngư rằng: “Làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi?
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu?
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời”.

This entry was posted in Sách Truyện, Thơ Văn. Bookmark the permalink.