Giáo Lý Tịnh Độ – Khóa II

K tán:

Giáo lý Tịnh độ được truyền ra,
Tán dương Chánh Giác Đức Di Đà,
Tây Phương diệu dược chứa trong ấy,
Tham học, đọc tụng, liền nở hoa.


Đọc một, hai lần trần niệm tiêu,
Ba, bốn tình nhiễm liền tan biến,
Năm, sáu, bẩy lần được đọc qua,
Thẳng lên ao Báu thành Thượng Thiện.

Sở Thạch Đại Sư


Nghiên Cứu Giáo Lý Tịnh Độ

Khóa Thứ Hai

Tịnh Độ Thông Hành

Mục Lục

I – Giáo Nghĩa Niệm Phật

II – Thiền và Tịnh

III – Phát Tâm Bồ Đề

IV – Hạnh Hân Yểm

V – Thế Gian Thiện Căn

VI – Trì Giới Thiện Căn

VII – Xuất Thế Thiện Căn

VIII – Niệm Phật Đúng Pháp

IX – Nguyên Lý Vãng Sanh

X – Đới Nghiệm Vãng Sanh


Tịnh Độ Thông Hành

Dẫn nhập

Giáo lý Pháp môn Tịnh Độ chỉ tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Nếu chỉ thẳng vào bản tâm thì mỗi niệm Niệm Phật là mỗi niệm thành Phật. Nếu nói về Tu Chứng thì Pháp môn này trùm hết các căn Thượng, Trung, Hạ, thống nhiếp cả Giáo, Luât, Thiền như trận mưa đúng mùa, thấm nhuần tất cả cây cối, như biển cả thu nạp trăm sông, các giáo lý thiên, viên, đốn, tiệm, đều lưu xuất từ Pháp giới này, tất cả hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thiệt đều quay về Pháp giới. Do đó, người tu tịnh nghiệp không cần dứt sạch hết các hoặc mà được vào Bổ Xứ, chỉ cần một đời là viên mãn quả Vô Thượng Bồ Đề.

Kinh dạy: “Người muốn làm Phật phải đủ Phước và Huệ” Pháp môn Tịnh độ là Pháp Đại Thừa viên đốn, nên hành giả bước đầu tu tập cần phải tu Phước rồi sau mới tu Huệ. Nếu thiên chấp một bên khó có thể thành tựu. Trong Kinh A Di Đà Phật dạy: “Không thể dùng ít căn lành Phước đức mà được sanh về cõi Cực Lạc”. Quán Kinh cũng nói: “Tịnh nghiệp là Chánh nhơn của Ba đời Chư Phật”. Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Người muốn được vãng sanh cần phải Phát tâm Bồ Đề”. Như thế, hành giả khi hạ thủ công phu trước phải tu tam Phước, sau đó thực hành Niệm Phật huệ mạng, chắc chắn việc vãng sanh được dễ dàng, một đời thành biện.

Khóa Tịnh Độ Thông Hành là việc làm chung cho tất cả các môn tu tập. Dù hành giả tu tập hạnh nguyện môn Quán Tưởng môn hay Trì Danh môn đều phải lấy khóa này làm kim chỉ nam để thực hành. Trước tiên hành giả phải thấm hiểu Giáo Nghĩa Niệm Phật, Phán Định Thiền Tịnh và quán triệt Hạnh Hân Yểm để lòng tin nguyện được kiên cố. Kế đó thực hành Chánh Nhân là phải Phát Tâm Bồ Đề, tu ba Thiện căn, thực hành Niệm Phật đúng Chánh nhân là hạnh nguyện viên mãn. Đồng thời cũng biết rõ Nguyên lý Đối Nghiệp Vãng Sanh. Chánh nhân đã thành Niệm Phật chắc chắn có kết quả, muôn người niệm Phật, muôn người đều được vãng sanh.

Dám mong toàn thể quý Liên hữu y theo Chánh Pháp thực hành đủ Chánh nhân thì Chánh quả chắc chắn thành tựu.

Ban Giảng Huấn


Nghiên Cứu Giáo Lý Tịnh Độ – Khóa II

Bài Một

Giáo Nghĩa Niệm Phật

Vừa qua, chúng ta đã nghiên cứu chín phẩm vãng sanh, ở ba phẩm Hạ, dù được thiện tri thức giảng dạy giáo lý, nhưng khả năng diệt tội ít không thể vãng sanh, cuối cùng phải dạy xưng danh hiệu Phật A Di Đà, diệt được 80 ức kiếp tội trọng sanh tử liền được vãng sanh. Ở ba phẩm Trung, tuy tinh chuyên nghiêm trì giới luật, nhưng phải nhờ trì danh hiệu Phật A Di Đà mà được vãng sanh. Ở ba phẩm Thượng, tuy hành giả tạo nhiều công đức lớn, hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế, nhưng vẫn phải chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sanh về Tịnh độ thì mới được vãng sanh. Như thế, hàng phàm phu dù căn tánh ác nghịch, căn tánh Tiểu thừa hoặc căn tánh Đại thừa nếu không niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Cực lạc thì chắc chắn không được vãng sanh, dù người đó đã được tam muội hoặc vô sanh pháp nhẫn. Vì sao? Vì niệm Nam Mô A Di Đà Phật là đem thân mạng nầøy nương về với Đức Phật A Di Đà. Chữ Nam Mô là tiếng Phạn dịch là Quy mạng có nghĩa là đem thân mạng nầy hồi hướng về Đức Phật A Di Đà, điều nầøy phù hợp với Đại nguyện nên chắc được vãng sanh. Lại nữa, ý nguyện là động cơ chính yếu của người muốn vãng sanh về Cực Lạc. Kinh dạy: “Tu hành không nguyện đạo quả khó thành”. Như thế, người muốn vãng sanh về chín phẩm phải lấy việc chuyên trì danh hiệu làm gốc. Để cho việc niệm Phật có kết quả mong muốn, chúng ta cần phải hiểu rõ giáo nghĩa niệm Phật sau đây:

Pháp môn Niệm Phật A Di Đà vãng sanh về cõi An lạc, tóm lại không ngoài ba điều cốt yếu là lòng tin, chí nguyện và thực hành.

A. Lòng tin do dứt hết các nghi hiểu rõ ràng mà có được ý chí chuyên nhất và lòng quyết định. Người muốn vãng sanh về cõi An lạc có 3 thứ là tin tự tâm, tin cõi Phật và tin pháp môn Niệm Phật.


I. TIN TỰ TÂM

1- Tin bản tâm chúng ta từ vô thỉ không khởi và vô chung không diệt, tiếp nối thường hằng, theo duyên mà chuyển biến, từ sống đến chết, tuy chết mà không dứt; từ chết lại sanh, tuy sống chẳng phải thường, từ quả có nhơn, nhơn thục thành quả, chẳng phải là sự ngẫu nhiên của một đời cho nên cần tìm chỗ vĩnh viễn an ổn và được cái vui chơn thật. Do nghiệp mà thọ thân, có thân lại tạo nghiệp, không phải một khi đã chết là xong tất cả, cho nên phải ôm lòng lo xa nghĩ rộng. Đường sanh tử khổ rất dài, xuống lên biến đổi, mịt mờ trong sáu nẻo, không biết trôi dạt vào đâu, ba đường mù mịt, giường sắt chảo dầu đáng sợ! Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay đã nghe, thật là một điều đáng vui mừng, đừng để tấc bóng quang âm trôi qua vô ích. Chúng ta như con rùa mù đã gặp bộng cây trôi, Phật hiệu phải chuyên trì niệm. Cho nên cổ đức dạy: “Tâm nầøy không hướng thân nầy hiểu, lại hướng thân nào hiểu rõ tâm”.

2- Tin Tâm ta nguồn cọâi từ chơn tánh tức Phật tánh. Chúng ta vốn đủ tánh Phật, từ xưa đến nay vốn đầy đủ tạng trí huệ, Phật đức của Như Lai tròn đủ, thường an lạc, tự tại thanh tịnh. Nếu chúng ta gặp thiện tri thức khai đạo, quy y tam bảo Phật, Pháp, Tăng, tin từ pháp môn chơn chánh của Phật dạy, chuyên cần tu tập, liền được chứng ngộ cho nên: Khuyên người chớ bán chèo qua lại, đâu biết trăng trong chiếu khắp thuyền.

3- Tin chúng ta từ trước đến nay, cũng từng sanh lên cõi trời, cũng từng làm người. Tất cả chư Phật ba đời trong mười phương, chư Đại Bồ tát, chư hiền Thánh chúng, phân thân những cõi như vi trần giác ngộ cho quần sanh, chúng ta nhiều đời từng gặp và cúng dường, gieo trồng căn lành. Sở dĩ, đời nầy được nghe Phật Pháp, lại có thể phát khởi lòng tin nguyện, tuy bởi mê muội không tự hiểu biết, cần phải tin rằng chúng ta thường được hộ niệm bởi chư Phật, Bồ tát. Vì thế, cần phải phát tâm dũng mãnh tinh tấn, lập chí bền chắc. Chư Phật và Bồ tát trong mười phương là đấng đại từ đại bi, đại trí đại lực nên không có cảm nào mà không ứng, không có căn cơ nào mà không được nhiếp thọ, chúng ta nếu quả thật có thể kính tin tu tập, chắc chắn chư Phật và Bồ tát sẽ cứu độ tiếp dẫn. Chúng ta hãy xem các thiện nam tín nữ, Tăng tục được vãng sanh cõi Tịnh độ đều dùng năng lực thiện căn đời trước và năng lực kính tin tu tập đời nầøy, cùng với năng lực cứu độ tiếp dẫn của chư Phật, Bồ tát. Các Ngài khi đã vãng sanh về Tịnh độ, thành đại Bồ tát, lần đến thành Phật, chúng ta cũng thế, nếu có lòng tin sâu nguyện chắc quyết định thành tựu. Nên trong Qui Sơn cảnh sách nói: “Các Ngài là trượng phu, ta đây cũng vậy, không nên tự ti mà lui sụt”.


II. TIN CÕI PHẬT

1- Tin Phật A Di Đà: Phật A Di Đà ở trong thời rất lâu xa về quá khứ Ngài cũng như chúng ta đồng là phàm phu, bỏ ngôi vua tôn quý, theo Phật xuất gia, phát khởi tâm Bồ đề rất sâu rộng, lập 48 Đại nguyện, chứa công lập hạnh, nhiều đời không lui sụt, y theo nhơn địa của mình mà thực hành nguyện lực, vì giáo hóa tất cả chúng sanh trang nghiêm thành tựu Tịnh độ an lạc, làm cho những hành giả có tin nguyện được sanh về Tịnh độ nầøy, lần được vô thượng chánh đẳng chánh giác, sống lâu vô lượng, ánh sáng vô lượng, nên gọi là Thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà.

2- Tin Phật Thích Ca Mâu Ni: Do lời vàng ngọc đã dạy của Đức Bổn Sư, Ngài nói: “Từ phía Tây cõi Ta Bà nầøy, trải qua mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực lạc, đức Phật A Di Đà đang giáo hóa, hai Đại Bồ Tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí cùng vô lượng vô số Bồ Tát, thánh hiền tăng chúng, thường cùng vây quanh, nghe Phật nói pháp, y theo pháp Phật mà làm, từ nhơn Phật pháp chứng quả Phật pháp, vĩnh viễn xa lìa các khổ nạn, được đại giải thoát, thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn, hóa thân 10 phương tu công đức Phật, tiếp dẫn các người có duyên, đồng về Tịnh độ. Ở trong hoa sen hóa thân, không do thai sanh, tùy theo người vãng sanh có lòng tin cạn sâu, nguyện lực có lớn nhỏ, công hạnh có tròn khuyết mà có 9 phẩm. Ba phẩm Hạ là hàng phàm phu mang ác nghiệp vãng sanh, ba phẩm Trung là Thánh chúng đoạn hoặc chứng chơn. Ba phẩm Thượng là hàng Bồ tát hoằng trì đại bi. Ngoài 9 phẩm ra lại có nghi thành thu nhiếp những người tin nguyện yếu hèn, không dứt khoát, tội ác sâu nặng, hành giả được sanh về thành nầøy để sám ác tu thiện, dứt nghi sanh tin, sau đó về Tịnh độâ cũng được hoa nở thấy Phật. Tuy có 9 cấp khác nhau, nhưng một khi nương theo đại nguyện được vãng sanh đều vĩnh viễn thoát khỏi khổ luân hồi, lần đến viên thành Phật quả. Người được về cõi Cực lạc, khi hoa nở thấy Phật đều có đủ ăn mặc như ý, sống lâu vô lượng, thân tâm tự do, dạo vô lượng cõi. Cây nước chim rừng, thường diễn Pháp âm, các hàng đại sĩ đều là bạn tốt. Cuộc sống ở đây rất yên, rất vui, rất trong sạch, rất thiện mỹ, rất chơn thường nên gọi là cõi Tịnh An lạc của Phật A Di Đà.


III. TIN PHÁP MÔN.

1- Tin

a. Tin pháp môn niệm Phật A Di Đà được vãng sanh về thế giới An Lạc. Pháp môn nầøy chính giáo chủ cõi Ta Bà là Phật Thích Ca nói ra, Bồ Tát Di Lặc, Tôn giả Xá Lợi Phất, Hoàng Hậu Vi Đề Hy và toàn hội chúng đều nghe. Ngài A Nan thừa theo ý chỉ của Phật, kết tập chép lại để lưu truyền gồm có 3 kinh cốt yếu là kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà. Ngoài ra các kinh luận khuyên niệm Phật A Di Đà để được vãng sanh về Tịnh độ Cực lạc, đầy dẫy trong Đại Tạng không thể kể xiết. Thời Phật nói Kinh Vô Lượng Thọ, Trưởng Lão Xá Lợi Phất và các Đại A La Hán, Bồ Tát Di Lặc, các Đại Bồ Tát, vô số trời, người và chẳng phải người đều phát nguyện vãng sanh. Thời Phật nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ Hoàng Hậu Vi Đề Hy y theo đó tu trì liền được vãng sanh về thế giới An Lạc. Thời Phật nói Kinh A Di Đà sáu phương vô số chư Phật, đồng khen ngợi Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời dữ năm trược mà nói pháp môn rất thù thắng nầy. Chư Tổ sư trong nhiều đời và các bậc Thánh Hiền thiện tín xưng dương tu tập được vãng sanh có đủ thụy ứng, số không thể kể xiết. Vì thế, cần phải tin chắc pháp môn này rất cao siêu mầu nhiệm, dễ làm mà nhiều kết quả.

b. Tin pháp môn niệm Phật nầøy dù chúng sanh cực ác cũng có thể tu chứng và các bậc Bồ tát Đẳng giác cũng có thể tu chứng. Trong Hạ phẩm hạ sanh được ghi trong Quán kinh nói: “Có người tạo ngũ nghịch, thập ác đáng đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nghe pháp môn niệm Phật nầøy phát khởi lòng tin, phát nguyện niệm Phật tu hành liền được vãng sanh. Những phẩm bậc Trung là người giữ ngũ giới, thập thiện, hoặc tu thiền định, sẽ được sanh vào nhân đạo hoặc thần đạo, hoặc thiên đạo ở dục giới, nghe pháp môn niệm Phật nầøy phát khởi lòng tin, phát nguyện tu hành liền được vãng sanh về cõi Cực lạc. Xem trong Tịnh độ Thánh Hiền lục, từ các bậc Đại Thánh, Đại Hiền cho đến dâm nữ, hàng thịt, chim, thú, cá, trùng đều có thể vãng sanh. Bậc Thượng, Trung phẩm vãng sanh sẽ là Bồ tát từ Hoan hỉ địa đến Viễn hành địa, hàng Thượng Phẩm thượng sanh vị Bồ tát từ Bất động địa đến Đẳng giác. Ngay trong Hội Hoa Nghiêm, Đại Bồ tát Phổ Hiền cũng phát nguyện vãng sanh. Căn cứ vào đó thì biết rằng pháp môn nầy từ ác nghịch đến Đẳng giác đều có thể vãng sanh.

c. Tin Pháp môn niệm Phật nầøy là hoằng nguyện của Phật A Di Đà, nếu chúng sanh ở mười phương xưng niệm danh hiệu của ngài liền được hộ trì và tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực lạc. Do đó, về lý tánh mầu nhiệm không thể cùng tận và công đức không thể nghĩ bàn. Kinh A Di Đà nói: “Người nào gìn giữ danh hiệu Phật A Di Đà, một lòng không loạn, liền biết mình chắc được sanh về Tịnh độ. Một lần được sanh về Tịnh độ Cực lạc, liền thẳng tiến đến địa vị Phật, vĩnh viễn không bị lui sụt, quanh co. Chỉ cần trong lòng thường xưng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, cố gìn giữ không quên, liền được đầy đủ lý tánh vô cùng tận và công đức không thể nghĩ bàn. Đây là một pháp môn rất dễ thật hành, người bận nhiều việc, chỉ cần mỗi sáng xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật hết mười hơi thở (một hơi thở gọi là một niệm, bao nhiêu câu hồng danh cũng được) giữ thường hằng trọn đời cũng được vãng sanh, vào Vị bất thối vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, thẳng đến thành Phật. Nên gọi pháp môn nầy là pháp môn vượt ngang qua khỏi ba cõi, một lần đã thoát ra thì thẳng đến địa vị Phật. Nếu theo các pháp môn khác để tu chứng thì trước phải tu giới thiện để đoạn tam độc, kế đó dùng thiền định để vượt qua dục giới, kế đó dùng Bát nhã để vượt qua sắc và vô sắc giới vẫn còn chưa có thể vào vị Bồ đề chánh định tụ, trong khoảng thời gian tu hành đó gặp biết bao chỗ quanh co hiểm ác có thể rơi vào vực thẳm bất cứ lúc nào! Đâu bằng pháp môn Tịnh độ nầøy chỉ từ chỗ quy y Phật, Pháp, Tăng bảo ở cõi Ta Bà mà được Quy y Phật, Pháp, Tăng bảo ở cõi Cực lạc, liền được vượt khỏi ba cõi! Vì thế, nên phải tin pháp môn rất dễ và rất mầu nhiệm nầy.


2- Nguyện: Lòng tin đã thiếp lập, nếu không phát nguyện như có người bệnh, đã được linh đơn diệu dược, đã biết rằng thuốc uống vào thì hết bệnh sống lâu, thân an sức mạnh, nhưng người ấy không muốn lành bệnh, hoặc lầm nghĩ rằng ta không có bệnh, đang khỏe mạnh, thân thể cường tráng. Không cần phải uống thuốc, nên đem thuốc cất đi, không uống, thì dù thuốc để bên mình mà vẫn không có công hiệu làm lành bệnh, mạnh khỏe. Trường hợp ở đây cũng như vậy, nếu không nguyện xa rời cõi Ta bà, không nguyện sanh về Cực lạc thì đối với pháp môn niệm Phật nầøy không quan hệ. Vì thế đã có lòng tin phải có ý nguyện. Ý nguyện có 3 thứ.

a. Mỗi niệm nhàm chán muốn xa lìa cõi uế Ta Bà và mong muốn (nguyện) vãng sanh về Tịnh độ An Lạc. Đức Thích Ca Mâu Ni nương theo nguyện đại bi cứu khổ, nên giáng trần làm giáo chủ cõi Ta Bà uế độ nầøy, hết lòng dặn dò, khuyên chúng ta nhàm chán và lìa bỏ cõi uế Ta bà nầøy và ưa mến vãng sanh về Tịnh độ An lạc của Phật A Di Đà. Chúng ta thuận theo lời Phật dạy, y theo giáo pháp vâng làm, được gọi là quy y Phật pháp, không phụ ơn Phật.

Vì sao nhàm chán châu Diêm Phù Đề, địa cầu chúng ta đang sống? Vì ở đây ba thứ nương ở đều khổ, nên phải xa lìa. Ham muốn về cõi Cực lạc vì ba thứ nương ở đều vui, nên muốn sanh về. Thế nào là ba thứ đều khổ? Bên trong y theo thân thì có đói khát, nóng lạnh, mệt mỏi, dâm dục, sanh già bệnh chết các khổ. Bên ngoài y theo cảnh thiên nhiên nên có gió mưa, sấm chớp, tuyết băng, gió bụi, mây khói, gai gốc, núi non, sóng thần, bão táp, rồng, cọp, sài lang, ác thú các khổ. Cùng chung y theo xã hội con người thì có trói buộc, chê mắng, tranh đoạt, giết hại, dâm loạn, cuồng bạo, nham hiểm, khinh khi, bắt nạt, thế lực, ra uy, dao, tên, pháo, kích, độc dược, lao ngục cho đến ân ái biệt ly, oán ghét hội họp, chiến tranh, tai họa, cầu sống không được, cầu chết không xong, nên cõi nầøy có tên “ùkham nhẫn khổ ” (Ta Bà) – Cõi nầøy thật là biển khổ và nhân loại ở trong cõi nầøy là con sên của biển khổ. Hành giả một khi đã vãng sanh về cõi An lạc, tất cả các khổ đều xa lìa, vì ở cõi nầøy hóa thân như ý nên y cứ bên trong chỉ có vui mà không khổ. Cảnh giới bên ngoài đều là thắng duyên, chim nói pháp, nước reo kinh, nên y theo bên ngoài chỉ có vui mà không khổ. Các thiện hữu cùng câu hội nên cùng chung chỉ có vui mà không khổ.

Ở thế giới Ta Bà nầøy nào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ác thần đầy dẫy, dù được sanh lên cõi trời, ở cõi trời lục dục tuổi thọ cũng không quá 9 trăm muôn năm, cũng không khỏi khổ suy thoái và đấu tranh. Dù được sinh ở cõi trời phi phi tưởng tuổi thọ có dài hơn, nhưng tâm chấp trước  vào thiền định vẫn còn, không được tự do, thọ kỳ đã hết lại theo nghiệp bị đọa xuống, vạc than, lò lửa, bụng cầm, dạ thú, hoặc thần, hoặc quỷ, hoặc trời, hoặc người, luân chuyển không định chắc, lặn xuống trồi lên không biết ngày nào xong, thật rất nguy hiểm, thật rất đáng sợ, không chỉ không luyến mến kiếp người, mà cũng không hy vọng sanh về cõi trời. Có người dùng niệm Phật để sanh về cõi trời nên biết người ấy thuộc về niệm ma, phải mau dứt hẳn. Có người khuyên người niệm Phật, cầu chuyển kiếp đời sau thành người giàu sang, hoặc sanh cõi trời hưởng phước, nên biết người ấy thuộc hàng quyến thuộc của ma, đừng có nghe theo. Người thọ trì chánh nguyện là người nguyện thoát ly ba cõi, ưa mộ thế giới An lạc. Cõi Cực lạc từ trước tới nay chưa có tên ác đạo làm gì có 3 đường dữ. Một khi được vãng sanh về cõi ấy liền trở thành thiện nhơn, hiền nhơn, chơn Thánh, Đại Thánh chỉ có tiến mà không lùi, chỉ được mà không mất, cứu cánh thành Phật, thường lạc ngã tịnh, rất yên ổn, xa lìa sợ sệt, không chỉ thượng phẩm mới được mà hạ phẩm vẫn an toàn, nên cần nguyện vãng sanh Tịnh độ.

Cõi Ta bà nầy đáng nhàm chán vì các giới đều sống mù mờ ngăn ngại. Các cõi trời, chư thiên mỗi cõi theo loại mà tâm và cảnh trở ngại, không thể cùng nhau thông đạt. Ở trong chỗ năm thú, cùng ở chung cõi dục thì chia riêng nhau vì không nghe thấy nhau và cũng không thể qua lại. Như cõi trời chỉ thấy nghe chư thiên và thầân tiên. Cõi người chỉ thấy nghe nhân loại và bàng sanh. Cõi quỷ qua lại thấy nghe trong phạm vi các quỷ và địa ngục. Các loài quỷ chỉ biết túc mạng, không có tha tâm thông. Tất cả ba giới kể trên đều ở trong tăm tối hôn mê nên phải thoát ly. Người ở cõi Cực lạc kia, tất cả khai thông, thánh nhãn thấy tỏ, thánh nhĩ nghe cùng, tha tâm sáng rõ, túc mạng thanh tịnh, thân cảnh không trở ngại, pháp tánh viên dung, ánh sáng thấu suốt nên cần nguyện vãng sanh.


b. Nguyện sớm vãng sanh Tịnh độ để đoạn vô biên phiền não, thành vô thượng Phật Đà.

Người ở cõi ta bà, tuy phát tâm thành Phật độ sanh, nhưng ác duyên dẫy đầy, thiện duyên rất hiếm hoi, tu hành rất gian nan, có nhiều tai họa, phần nhiều bị lui sụt, giữa chừng rồi bỏ, nên ít người đắc đạo thành Phật. Người vãng sanh về cõi Cực lạc có đủ nhơn là Phật và có đủ thắng thiện duyên, ác duyên không có, tu hành rất dễ, hoàn toàn không bao giờ lui sụt, tiến đến thành Phật. Lại nữa, ở cõi Cực lạc nầy phiền não không cần đoạn cũng tự tiêu. Vì sao? Vì phiền não tạo tác khi nào tâm biến thành chủng tử, hạt giống nầøy sẽ sanh sôi nẩy nở, khi có thuận duyên chúng liền hiện hành. Như phiền não là tham sân si chủng tử, chúng theo ta từ đời nầøy sang đời khác gọi là câu sanh nghiệp, khi gặp duyên chủng tử tham khởi ra hiện hành, như thấy vàng bạc châu báu chủng tử tham liền sanh, nhưng ở cõi Cực lạc là đầy đường vàng ngọc nên chủng tử tham không hiện hành. Hạt giống bị cất giữ lâu năm, không có dịp mọc mầm, hạt giống sẽ bị tiêu hoại. Khi nghe người nói phật lòng, chủng tử sân sẽ hiện hành, ở cõi Cực lạc, nhân dân cõi ấy đều có tha tâm thông, ý ta nghĩ gì họ đều biết rõ, nên các thiện nhơn ấy đâu có gì làm chủng tử sân ta hiện hành. Chủng tử si mê vì vô minh không giác ngộ mà có ra, ở cõi ấy chim nói pháp, nước reo kinh, Phật A Di Đà đang thuyết pháp, chủng tử si mê không thể nào tồn tại. Nên nói: “Về cõi Cực lạc không cần đoạn mà phiền não tự tiêu”.

Vì muốn dứt trừ phiền não để thành Phật nên nguyện sanh về Tịnh độ. Nếu không có tâm nguyện đoạn phiền não, chứng Bồ đề để làm động cơ vãng sanh, tuy được vãng sanh cũng chưa vào thượng phẩm.

c. Nguyện sớm vãng sanh Tịnh độ để học vô lượng pháp môn và độ vô lượng chúng sanh.

Hành giả ở thế giới Ta bà, muốn trong một đời thành tựu hạnh Bồ tát, đầy đủ công đức trí huệ của Phật và Bồ tát, thông đạt vô lượng phương tiện của các pháp môn, khéo có thể tùy thuận tất cả chúng sanh có căn cơ và tánh dục để hóa độ thì rất khó khăn. Nhưng nếu hành giả được vãng sanh về Tịnh độ An lạc, hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh nhẫn, liền được thật tướng sâu xa, thông suốt pháp tánh, phân thân mười phương thế giới, độ khắp vô biên chúng sanh. Vì muốn độ chúng sanh, nên nguyện sanh về Tịnh độ, liền thành tâm Đại bi của Bồ tát. Nếu không có nguyện độ sanh nầøy, tuy được vãng sanh cũng chưa lên thượng phẩm.


3- Hành

Tin sâu, nguyện thiết rồi nếu không có thực hành tu tập thì như người bị bệnh, tuy muốn uống linh đơn diệu dược để được lành bệnh sống lâu, thân an sức mạnh, nhưng không điều trị đúng pháp dù có linh đơn diệu dược cũng trở thành vô hiệu, không thể lành bệnh được. Vì thế, lòng tin đã phát khởi, ý nguyện đã đủ đầy cần phải thực hành, như người tin trong kho có châu báu, nguyện được châu báu đó, nhưng không đi (hành) thẳng vào kho lấy về cho mình thì dù có lòng tin hay nguyện cũng chẳng được gì! Người niệm Phật muốn thực hành phải có thông hành, chánh hành và trợ hành.

a. Thông hành: Thông hành là việc làm chung cho người tu Tịnh độ còn gọi là tịnh nghiệp hay chánh nhơn thiện căn – Phàm người tu Tịnh độ phải tu ba yếu hạnh nầøy là: a. Thế gian Thiện Căn: Hiếu dưỡng cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại và tu mười nghiệp lành. b. Trì giới Thiện căn là Quy y Tam bảo, gìn giữ các giới, Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh không phạm oai nghi. c. Xuất Thế Thiện căn là phát tâm Bồ đề, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyến tấn hành giả – Đây là việc làm thông thường chung cho những người Phật tử.

b. Chánh hành: Hành giả tu hành pháp môn nầøy chánh hành là niệm Phật A Di Đà. Niệm là tiếng chỉ chung cho việc nhớ tưởng, như nhớ y báo và chánh báo của Phật cũng gọi là niệm Phật, nhớ danh hiệu Phật cũng gọi là niệm Phật,nhớ công đức Phật cũng gọi là niệm Phật. Nói niệm Phật ở đây là chuyên chỉ niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Tịnh độ. Niệm Phật A Di Đà lại có 3 thứ là Thật tướng niệm, Quán tưởng niệm và Trì danh niệm.

Thế nào là Thật Tướng Niệm? Thật Tướng Niệm là niệm Phật hợp với chơn tâm. Vì tất cả pháp đều do tâm biến hiện, vì tâm biến hiện nên các tướng đều là hư vọng, duy có chơn tâm là chơn thật, không sinh không diệt, không khứ không lai, xưa nay thanh tịnh bình đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, nên gọi là thật tướng. Người nhớ tánh giác và sống được với tánh giác gọi là thật tướng niệm Phật. Trong nhà thiền gọi “Tri hữu”.

Thế nào là Quán Tưởng Niệm Phật? Quán Tưởng Niệm Phật là quán tưởng y báo và chánh báo của Phật trang nghiêm. Thuận theo 13 pháp quán trong Quán kinh. Quán thuần thục lâu ngày khi đi đứng nằm ngồi, lúc nhắm mắt, mở mắt, cảnh quán đều hiện rõ tức là pháp quán đã thuần thục. Pháp quán nầy đãõ giảng rõ ở phần hai Diệu Quán Tư Tưởng Luận.

Thế nào là Trì Danh Niệm Phật? Trì Danh Niệm Phật là giữ câu Nam Mô A Di Đà Phật mãi trong lòng. Khi đi đứng ngồi nằêm cũng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Niệm từ buổi mai thức dậy đến buổi tối khi vào giấc ngủ, niệm suốt ngày đêm không xen hở, niệm cho đến khi nào được nhất tâm bất loạn, gọi trì danh niệm Phật được thành tựu.

Hai pháp niệm Phật trên chúng ta sẽ trở lại ở tập Những Cánh Sen Hồng 9, trong tập nầøy hành giả nhờ xưng niệm danh hiệu Phật mà được diệt tội, vãng sanh. Vì thế, chúng tôi đặc biệt giảng rõ cách niệm danh hiệu Phật đúng pháp, để từ đó hành giả muốn tu theo cửu phẩm vãng sanh thực hành cho đúng. Trước tiên hành giả phải có cách niệm đúng: Khi niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật cần phải có:

Từng chữ từng câu rõ ràng rành rẽ, rõ từng chữ không trại không mờ, rành từng câu không lộn xộn.


Tâm và miệng tương ưng, câu Nam Mô A Di Đà Phật phát khởi từ tâm ra miệng, từ miệng vào tai nghe rõ ràng, rồi lại về tâm. Tránh trường hợp miệng niệm mà tâm chạy theo vọng tưởng.

Niệm Phật phải chí thành tha thiết như con thơ nhớ mẹ miệng kêu mẹ mà tâm nhớ khôn nguôi.

Nhiếp tâm ở câu Nam Mô A Di Đà Phật. Thực hành đủ bốn cách nầy gọi là niệm đúng chánh niệm.

Niệm phải đúng trọng tâm. Người niệm Phật với trọng tâm:

Trói buộc tâm viên ý mã. Chúng ta hằng ngày tâm như ngựa chạy rong, ý như vượn chuyền cây không khi nào dừng nghỉ, làm tâm ý xao động như gió tạt đèn mờ không làm sao hiển lộ ánh sáng trí tuệ được. Vì vậy khi niệm Phật cốt yếu làm cho tâm định một chỗ, nên khi niệm Phật chỉ nhớ Phật, không cho tâm ý duyên theo quá khứ, hiện tại và vị lai mà phải ở ngay câu hiệu Phật gọi là chánh niệm, nên kinh dạy: “Di Đà chẳng rời đương niệm, Cực Lạc trước mắt lo gì”.

Tịnh ba nghiệp: Động cơ tạo nghiệp của chúng sanh có ba thứ Thân, Miệng và Ý. Thân thường tạo 3 nghiệp tội là sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Miệng thường tạo 4 nghiệp tội là nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều và nói lời hung ác. Ý có 3 nghiệp tội là tham, sân, si. Để diệt trừ ba động cơ tạo nghiệp nầøy, hành giả khi niệm Phật, thân ngồi ngay ngắn, miệng niệm Hồng danh, ý nhớ danh hiệu. Đồng thời hằng ngày cũng phải trừ diệt 3 động cơ tạo nghiệp nầøy thì chắc được vãng sanh. Kinh dạy: “Ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng như Phật Tây Phương”.

Thu nhiếp sáu căn. Niệm Phật là một phương pháp thu nhiếp sáu căn về câu hiệu Phật. Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy: “Nầøy A Nan! Cái làm cho ông sanh tử luân hồi là do sáu căn của ông, cái làm cho ông được Bồ đề, Niết bàn cũng là do sáu căn của ông”. Vì vậy người niệm Phật là dùng câu hiệu Phật ngăn không cho sáu căn chạy theo sáu trần biến thành sáu thức, bằng cách dùng câu hiệu Phật cắt đứt không cho thêm một lần thấy biết gọi là bội trần hợp giác.

Trọng tâm vì thoát sanh tử mà niệm Phật. Có người niệm Phật vì cầu phước báo trời người, hoặc vì cầu tai qua nạn khỏi, vì cầu con cháu được đỗå đạt thạnh vượng. Niệm Phật như vậy không đúng bản hoài của đức Phật. Vì phước báo chỉ là mũi tên bắn lên hư không, tận cùng rồi cũng rơi xuống. Niệm Phật trong tâm nguyện sanh về cõi Cực lạc, một đời thoát khỏi luân hồi, lần đến thành Phật.

Những bước hạ thủ: Làm bất cứ việc gì hoặc thái quá hay bất cập đều rơi vào cực đoan, việc làm không thể lâu bền. Vì thế, hành giả niệm Phật phải tuần tự tiến lên từ thấp đếân cao, chớ vội muốn viên dung tự tại mà đạo nghiệp khó thành, thông thường có các bước sau đây:

– Bước 1 Đa niệm tán thiện:

Bước nầy niệm nhiều, có ghi công cứ. Hành giả phải phát nguyện niệm Phật lần chuỗi ghi công cứ, thông thường hành giả phát nguyện niệm Phật mỗi ngày 2 giờ. Sáng từ 6 giờ đến 7 giờ, tối cũng từ 6 giờ đến 7 giờ tùy theo hoàn cảnh có thể thay đổi. Như thế, mỗi ngày niệm được 8.000 câu hiệu Phật. Niệm ghi được một sổ công cứ gồm 4.800.000 câu hiệu Phật là đủ.

– Bước 2 Thời khóa định niệm:

Cũng y theo thời gian niệm ở trên nhưng áp dụng kiểm soát định niệm. Hành giả khi niệm dùng hai lon đậu một trắng một đen, khi niệm suốt một chuỗi tràng mà tâm trụ ở câu hiệu Phật, không nhớ quá khứ, không nghĩ tương lai, không duyên hiện tại, chỉ có câu Phật rõ ràng cuối một chuổi tràng ta lấy một hạt đậu trắng bỏ vào lon trống. Nếu khi đang niệm giữa chừng, vọng niệm khởi lên, hoặc theo quá khứ, hiện tại, vị lai, ta vẫn niệm tiếp tục đến khi hết một chuỗi tràng, ta lấy một hạt đậu đen bỏ vào lon có hạt trắng trước. Khi mãn thời khóa, chúng ta kiểm soát nếu nửa trắng, nửa đen là khá, từ đó cố gắng tăng hạt trắng nhiều hơn đến khi được 90% hạt trắng là định niệm thành công.


– Bước 3 Lịch duyên đối cảnh niệm:

Chúng ta đã thành công niệm thời khóa chúng ta vẫn giữ y như cũ, nhưng chúng ta tăng thêm nhiều thời, theo hoàn cảnh, theo duyên. Như sáng ta có một giờ đi bộ thể dục, ta áp dụng ngay niệm Phật trong khi đi bộ, khi ta ngồi vào bàn may, chúng ta cũng áp dụng niệm Phật suốt giờ may, quét sân lau nhà cũng áp dụng niệm Phật, lặt rau nấu ăn cũng áp dụng niệm Phật suốt thời gian làm việc. Từ sáng đến tối lúc ăn, ngủ, lúc làm việc đều áp dụng niệm Phật.

– Bước 4 Khắc kỳ cầu chứng niệm:

Đã qua bước lịch duyên đối cảnh niệm, chúng ta chọn một đạo tràng tu chung, hoặc một thất nhỏ tu riêng, đả thất niệm Phật. Mỗi ngày thời khóa định niệm 5 thời cộng với đối cảnh niệm chuyên tu thời hạn 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày đến khi thành tựu nhất tâm bất loạn từ 1 đến 7 ngày coi như đã thành biện việc niệm Phật. Khi lâm chung không có chướng nạn, Phật và Thánh Chúng rước về cõi Cực lạc.

Làm sao biết được nhất tâm bất loạn trong ngày? Kiểm soát 6 thời định niệm và các thời lịch duyên đối cảnh là hành giả biết trong ngày niệm Phật tâm không loạn.

Pháp niệm Phật có rất nhiều, nhưng cổ đức tuyển chọn có ba pháp thù thắng.

* Phương pháp lão thật niệm Phật của Tổ Liên Trì. Ngài dạy: “Phương pháp lão thật niệm Phật nầøy rất đơn giản, chỉ cần thành thật trong tâm trì giới niệm Phật thì việc vãng sanh thật dễ dàng. Niệm Phật có thể niệm thầm, niệm cao tiếng hoặc niệm hòa hoãn đều được tùy theo hoàn cảnh mà sử dụng, như người nhiều hôn trầm niệm cao tiếng, cảnh ồn náo niệm thầm, tốt hơn hết là niệm hoà hoãn, không lớn không nhỏ, tiếng phát từ răng lưỡi gọi là Kim Cang Trì. Khi niệm mỗi câu từ miệng vào tai, mỗi tiếng đánh thức tự tâm, như người ngủ say, có người lay gọi chắc chắn người ngủ sẽ thức giấc. Do đó cốt yếu của pháp môn niệm Phật là phải nhiếp tâm. Vì thế, người lòng dạ ngay thẳng diệt ác niệm gọi là thiện nhân. Nhiếp tâm trừ tán loạn niệm Phật gọi là hiền nhân. Ngộ tâm dứt hoặc nghiệp niệm Phật gọi là Thánh nhân.

* Phương pháp sự tu, lý quán của Tổ Trí Húc, Ngài dạy: “Hành giả phải có đủ tin sâu, nguyện thiết rồi chuyên cần thực hành niệm Phật. Niệm Phật có sự tu: Hành giả dùng sổ châu làm phương tiện rồi dùng thời khóa mỗi ngày từ 2 thời lần đến 6 thời, không nên vội muốn viên dung tự tại mà niệm lực khó thành. Đồng thời dùng sổ công cứ làm cây gậy để tiến lên. Về sự tu, ngài có bài kệ: “Một câu Di Đà, nên niệm thế nầøy, lần chuỗi trăm tám, dây dứt đổi dây. Một câu Di Đà, chẳng gắp chẳng huỡn, lòng miệng khắn nhau, rành rõ luân chuyển. Một câu Di Đà, càng nhiều càng tốt, như người học bắn, tập mãi thời giỏi. Một câu Di Đà, như là cọ lửa, gỗ nóng phát khói, tạm dừng thời nguội. Một câu Di Đà, như cứu đầu cháy, gắng hết sức mình, cầu sen thượng phẩm. Về lý quán thì niệm đến diệt hết kiến tư hoặc, và trần sa hoặc sanh về Thượng phẩm.

* Phương pháp thập niệm ký số của Tổ Ấn Quang, Ngài dạy:”Phương pháp thập niệm ký số là phương pháp ghi nhớ số trong khi niệm Phật. Niệm từ câu một đến câu mười phải niệm được rõ ràng và ghi nhớ số được rõ ràng. Thí dụ: Ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhớ một, rồi Nam Mô A Di Đà Phật nhớ hai. Khi niệm đến mười rồi trở lại từ một đến mười, mỗi hiệu Phật từ trong tâm và ghi số từ trong tâm, phải ghi được rõ ràng và nghe được rõ ràng, chắc chắn vọng niệm không do đâu mà có được, dần dần sẽ được nhất tâm bất loạn”.

Nếu người bị sóng vọng niệm quá mạnh, chúng ta dùng pháp “thập niệm ký số” nầøy để điều chế. Đó là phương pháp dùng toàn lực lượng đặt vào một danh hiệu. Dù vọng tưởng muốn khởi lên cũng không theo kịp. Đây là phương pháp cứu cánh để điều phục những tâm khó điều phục đi đến nhất tâm. Có thực hành mới biết pháp môn nầøy mầu nhiệm, là căn bản của người nghiệp nặng được vãng sanh, và cũng nhờ nó mà thời mạt pháp vạn người tu vạn người được vãng sanh.

Ba phương pháp trên đây tuy hành trì có khác, nhưng có thể tu riêng mỗi pháp hoặc tu chung tùy theo căn cơ thích hợp mỗi người, không có pháp nhất định, hành giả cần phải uyển chuyển để tâm mình an lạc là thành công.


c. Trợ hành: Hành giả tu hành vạn thiện, tùy hỉ tùy năng lực bố thí tiền của, khắc in kinh điển, đắp tượng, xây tháp, lập chùa tu trai, cúng dường chư tăng, mãi mạng pháp sanh, xây cầu bồi lộ, giúp đói cứu nghèo, nhà thương dưỡng lão, cứu tai trị bịnh, thí trà thí thuốc. Ngoài ra cứu giúp mọi người bằng cách, mình bảo vệ quốc gia, dạy người bảo vệ quốc gia, mình thọ tam quy dạy người thọ tam quy, mình trì ngũ giới dạy người trì ngũ giới, tự mình niệm A Di Đà Phật dạy người niệm A Di Đà Phật, tự mình tụng đại thừa kinh điển dạy người tụng đại thừa kinh điển. Cho đến khai đại pháp hội, kiến lập đại pháp tràng. Tóm lại, phàm làm việc gì có nhiều lợi lành đều hồi hướng vãng sanh Cực lạc. Có như thế thì muôn thiện cùng về, đồng sanh Tịnh độ.

Tóm lại, người tu pháp môn Tịnh độ nầøy phải có đủ tin, nguyện, hành. Như người vào trong kho tàng lấy vật báu. Lòng tin như con mắt và bản đồ biết chỗ nào có châu báu chỗ nào không – Nguyện như có đôi tay chắc có thể lấy được vật, và tay có thể giữ được vật. Hành như đôi chân khỏe mạnh có thể đi đến nơi để vật báu. Mắt tuy thấy rõ mà chân không đi đến nơi thì tay không thể lấy được châu báu. Chân khỏe có thể đi mà mắt không sáng thì tay không lấy được gì. Mắt thấy, chân đến nơi mà không có tay để cầm vật hoặc không muốn lấy đi thì cũng chẳng được gì. Như thế, mắt tay chân đồng thời vận dụng mới có thể lấy được vật báu. Vì vậy, không thể chỉ có tin mà không có nguyện hành; có nguyện mà không thể không tin hành; có hành mà không thể không tin nguyện. Nói rõ ra nếu khi có tin nguyện không thể không có hành, có nguyện hành không thể không tin, có tin hành không thể không nguyện. Tin nguyện hành như đỉnh 3 chân nếu thiếu một thì đỉnh đứng không vững. Người niệm Phật A Di Đà vãng sanh về thế giới cực lạc cần đủ tin, nguyện, hành kể trên.

Câu hỏi Giáo Nghĩa

1. Vì sao mỗi niệm nhàm chán Ta Bà, ưa muốn về Cực Lạc là động cơ chính yếu để được vãng sanh? Giảng rõ.

2. Người chuyên trì danh hiệu Phật phải trải qua mấy bước thực hành, diệu dụng của mỗi bước như thế nào?

3. Chư Phật Bồ Tát lấy Đại Bi làm sự nghiệp lẽ ra phải ở trong đời dữ cứu độ chúng sanh, vì sao lại nguyện sanh về Tịnh độ, chuyên vì tự lợi?

4. Kẻ sĩ Ngộ Đạt trong Tông Môn, chẳng cần trải qua các giai cấp, thẳng đến địa vị Phật, cần gì phải nguyện sanh Tịnh Độ?

 

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Từ nghìn xưa, ở các quốc gia phát triển đại thừa,Thiền Tông và Tịnh Độ Tông nhiều khi trở thành đối lập, vì một môn chuyên dùng tự lực và một môn dùng tự lực cọng thêm tha lực. Sự đối lập này làm cho người không quán triệt giáo lý cảm thấy phân vân, không biết chọn phương pháp nào để tu hành. Có người tu Thiền vì chắp chặt theo kiến giải của mình, khinh chê người tu Tịnh độ là kẻ hạ căn bạt trí, gây ra nhiều điều tranh luận, dù hai tông đều căn cứ vào Kinh điển, do kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, Ngài Ma Ha Ca Diếp và Tôn Giả A Nan kết tập.


Gần đây, phong trào Thiền học được chấn hưng mạnh mẽ, một số người học Phật ùa theo nghiên cứu, xem Thiền như là một cái Mode mới của thời đại. Dù không có Thiện Tri Thức trực tiếp hướng dẫn, nhưng họ vẫn tìm học trong những băng ghi âm của  một số các Thiền sư hướng dẫn. Ngôn ngữ Thiền khi Thiện Tri Thức hướng dẫn cho Thiền sinh chỉ là ngôn ngữ đương cơ, nhằm mục đích tháo dây mở chốt cho người đối diện. Thế mà có một số người tìm học Thiền trong những băng ghi âm, rồi có ý khinh chê các Pháp môn khác. Họ đâu biết rằng sau những ngôn  ngữ đó, Thiền sư còn có những cái nheo mắt, ra hiệu hoặc làm thinh, để giải bày những chuyển ngữ thì hành giả mới có cơ khế hội. Từ trong những lời đương cơ nhằm phá kiến chấp cho Thiền sinh, Thiền Sư vì muốn đập tan cái gì còn thắc mắc tồn tại, có khi các Ngài bài bát cả nhân quả, tội báo, tha lực… Vì thế, người nghe chuyển ngữ phải vô cùng cẩn thận khéo léo mới có cơ hội nhận ra những chuyển ngữ thích hợp.

Trong thời gian gần đây, giảng dạy một số lớp Thiền học, chúng tôi thấy có một số Thiền sinh đã khinh chê Pháp môn Tịnh độ và chê cả Quý Thầy, vì Quý Thầy phần nhiều là những người tu theo Pháp Môn Tịnh độ. Họ trách rằng: Tại sao Quý Thầy là người xuất gia mà không học lấy cái cốt tủy ngay từ Đức Phật, vì Phật nhờ tu Thiền mà thành, Phật chứ đâu có Niệm Phật mà thành Phật bao giờ ! Như thế đâu xứng danh là trưởng tử của Như lai ? Họ đâu biết rằng: Pháp môn Tịnh độ cũng từ kim khẩu Phật nói ra, khinh chê pháp môn Tịnh độ là khinh chê lời Phật dạy. Đây là một điều tội lỗi rất lớn. Vì thế, trong bài này, chúng tôi sưu tập một số phán định của cổ đức và một số ý kiến của các Thiền sư nổi tiếng, với mục đích chỉ cho những người còn bâng khuâng trước hai nẽo đường Thiền và Tịnh. Đồng thời cũng chỉ rõ phương pháp phối hợp Thiền Tịnh song tu để được bảo đảm giải thoát sanh tử trong đời này và tiến lên Phật quả ở tương lai.
Sự quyết nghi trong bài này, chúng tôi hoàn toàn đứng trên phương diện vô tư khách quan để nhận xét, phần nhiều khai triển những chỗ đồng hơn chỗ dị, để từ đó hành giả phát khởi lòng chánh tín nhiều hơn trong việc tu tập của mình.

I- Nhận Định :

Triệt Ngộ Thiền Sư nhận định :” Thiền từ duyên khởi để minh tánh không, tuy tánh không nhưng không phá hoại duyên khởi; Tịnh từ tánh không để minh duyên khởi, tuy duyên khởi mà không trở ngại tánh không. Đây là chỗ hòa hợp của hai môn Có và Không chẳng hề trở ngại. Chỗ đặc biệt này, chính là dùng duyên khởi nên có tánh không, nếu không duyên khởi thì đâu có tánh không gì để nói. Đó là chỗ liên hệ của tánh không và duyên khởi. Lại nữa, dùng tánh không nên có duyên khởi, nếu chẳng có tánh không thì từ đâu mà có duyên khởi. Đó là chỗ liên hệ của duyên khởi và tánh không. Như thế thời hai môn Không và Có chẳng những chẳng trở ngại lẫn nhau mà lại còn giúp nhau để thành tựu. Vì thế, Cổ nhân thường nói :” Muôn vẽ đầy trời trông giống như không sắc, âm vang rền đất nghe giống như không nghe, càng có nhiều thì càng không nhiều, càng không nhiều thì càng có nhiều.” Vã lại, duyên khởi và tánh không đã có cùng thời, diện mục tỏ bày cùng còn cùng mất, cùng nhau vô ngại tức là cùng hướng thượng viên dung Đệ nhất nghĩa đế không thể nghĩ bàn. Đệ nhất nghĩa đế là tên khác của Phật tánh chúng ta, vì thế, Phật nói các thứ Thiền môn đều để hiển bày Phật tánh của chúng ta, Phật nói các thứ Tịnh môn cũng đều để hiển bày Phật tánh của chúng ta. Từ Phật tánh mà có ra Thiền và Tịnh độ, nên Thiền môn và Tịnh độ môn đều trở về Phật tánh. Trong Kinh nói :” Không có vật gì không từ pháp giới này mà có ra và không có vật gì lại không trở về pháp giới này.”.

Thuở xưa, có người hỏi Vân Thê Đại Sư :” Tham Thiền và Niệm Phật có thể dung thông được không ? Đại Sư đáp : Thiền thuộc về lý, Tịnh thuộc về hành, hai pháp này dung thông không ngại.” Vì thế, chúng ta biết Thiền đó là Thiền của Tịnh độ, Tịnh độ đó là Tịnh độ của Thiền, gốc không phải là hai vật, khi sử dụng thì giúp đở lẫn nhau.  Như thế, hai pháp môn Thiền và Tịnh chỉ có một nguồn không thể chia chẻ được, đã hoà hợp không cần hoà hợp. Hợp và chia còn không thể được, làm sao mà có thể luận về chướng ngại được.”  Qua nhận định kể trên, chúng ta thấy Thiền Tịnh cùng một gốc không thể phân chia. Do đó chúng ta cần phải biện minh thực rõ ràng để hành giả có thêm chánh tín.


II- Biện Minh sự nhận lầm :

Trong phạm vi bài học này, chúng tôi không giải quyết những vấn đề nghi vấn về tông thú, về những sai biệt trong Kinh, vì đã có các Thiền sư giải đáp rõ rồi, mà nhất là Thiền Sư Diên Thọ đã viết Bộ Tông Cảnh Lục gồm một trăm quyển để giải quyết Tông thú và Bộ Vạn Thiện Đồng Quy giải đáp sự sai biệt về giáo lý hành quả của hai Tông Thiền và Tịnh. Ở đây, chúng tôi chỉ biện minh một số nghi vấn của Thiền sinh trong các khoá học Thiền, mục đích tháo dây nhổ cọc một số gút mắc nhỏ mà thôi, để từ đó họ có niềm tin thêm vững chắc.

1- Có người hỏi rằng : Phật Thích Ca tu Thiền được thành Phật chứ đâu có niệm Phật mà được thành Phật, tại sao chúng ta là con Ngài lại không đi đúng con đường của Ngài ?

– Cũng như chúng ta biết, đức Thích Ca Mâu Ni khi còn là Thái tử, Ngài cảm nhận sự khổ sanh tử luân hồi, nên từ bỏ vợ đẹp con ngoan, phụ hoàng và xã tắc, đi tìm Đạo khắp đó đây, đến đâu Ngài cũng tu theo một số phương pháp của các nhà ngoại đạo đương thời. Ngài mò mẫm từ phương pháp này đến phương pháp khác. Ngài đã dấn thân trong khổ hạnh lâm suốt sáu năm trời, cuối cùng Ngài đã không chấp nhận các phương pháp tu ấy, và Ngài quyết định tự tìm ra phương pháp tu do chính mình mà thôi. Suốt 11 năm tìm Đạo, trải qua biết bao nhiêu gian nguy khổ cực, cuối cùng Ngài tìm ra được phương pháp Thiền Định và từ đó, Ngài thực hành phương pháp này đến khi thành Đạo. Suốt thời gian 49 năm thuyết pháp, Đức Thích Ca Mâu Ni tùy theo bệnh cho thuốc, tùy theo căn cơ mà truyền dạy phương pháp tu hành. Các phương pháp Ngài dạy ra, ai tu theo cũng đều được kết quả mong muốn. Càng giáo hoá nhiều năm, Ngài càng khám phá ra nhiều phương pháp mới rất mầu nhiệm, có hiệu năng cao, phù hợp với căn cơ và thời gian, do đó mà nhiều Tông được thành lập. Nếu bản hoài của Đức Thế Tôn là muốn tất cả chúng sanh đều thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứng thành Phật quả, thì phương pháp nào đưa nhiều người đến đích nhất là phương pháp thù thắng. Chúng ta đâu có thể vì chấp trước thủ cựu mà lùi lại ở mức ban đầu, để mất nhiều lợi lớn. Như một nhà triệu phú kia, xuất thân từ một gia đình nghèo, ông ta phải dùng cách buôn bán ve chai làm nghề sinh sống, nhờ cần kiệm dành dụm lâu năm có được chút tiền, rồi buôn bán mà thành triệu phú. Khi sắp mất, ông giao gia tài bạc triệu lại cho con, hy vọng con sẽ lấy số tiền ấy đầu tư làm ăn, ít cực nhọc mà có thêm tiền dễ dàng, vì xưa nay hễ có tiền là đẻ ra tiền. Nhưng người con lại chấp chặt mù quáng, muốn trung thành với cách tạo sự nghiệp của cha thuở xưa, bỏ hết số tiền sẵn có, trở lại nghề bán ve chai của cha ngày xưa để tạo thành sự nghiệp, có phải đó là việc làm kém thông minh và phụ lòng hoài vọng của người cha giao phó không ?

Lại nữa, pháp môn Tịnh độ chính từ kim khẩu của Phật nói ra trong thời Phương Đẳng, chúng ta chê giáo pháp của Ngài là chúng ta chê báng Ngài rồi! Giáo lý của Phật là những phương thuốc hay, ai thực hành đúng theo lời dạy của Ngài sẽ có kết quả chắc chắn. Nhưng thuốc có hiệu nghiệm cũng một phần tùy thuộc vào thời gian, chúng ta lấy thuốc trị vào mùa hè mà uống vào mùa đông sẽ mất đi một phần hiệu nghiệm. Giáo lý của Phật có pháp dùng vào thời chánh pháp, có pháp dùng vào thời tượng pháp, có pháp dùng vào thời mạt pháp. Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật dạy: ” Chúng sanh thời mạt pháp, chỉ nhờ Niệm Phật mà thoát khỏi sanh tử luân hồi.” Sao lại gọi pháp môn Tịnh độ là không đúng thời cơ, cần phải xét kỷ !

2- Có người cho rằng : Thiền là phương pháp tu của Bậc Thượng căn huệ học, còn Tịnh là phương pháp tu của Bậc Trung, Hạ chỉ phù hợp với ông già bà lão và những người ngu dốt mà thôi !

 – Thuốc không luận mắc hay rẽ, chữa lành bệnh là thuốc hay, pháp môn không luận ưu hay liệt, hợp thời cơ, có kết quả nhiều là diệu pháp. Pháp môn Tịnh độ là pháp môn đại thừa viên đốn, nhiếp hết ba căn, bao hàm các giáo. Vì thế, trên Hội Hoa Nghiêm, Đức Thiện Tài chỗ chứng ngộ đã sánh kề với chư Phật mà Đức Phổ Hiền còn dạy cho phát mười Đại nguyện hồi hướng vãng sanh về Tây phương cực lạc, nếu muốn viên mãn quả vị vô thượng Bồ Đề. Tổ Mã Minh, Tổ Long Thọ là Tông Tượng của Thiền Tông, Tổ Trí Giả là Tổ phát huy Tông Thiên Thai, Tổ Thiên Thân là Thiên Bộ luận sư là Cột trụ của Tông Duy Thức. Thế mà các Ngài đều viết luận khuyên mọi người niệm Phật cầu vãng sanh và chính các Ngài cũng phát nguyện vãng sanh. Sở dĩ, pháp môn Tịnh độ được Chư Tổ tán dương là vì thu nhiếp hết các căn, trên thì các Thánh nhân, Đại bồ tát, dưới đến phàm phu đồng tu, đồng chứng Bồ đề, nên trong Kinh Vô Lượng Thọ nói :” Pháp môn niệm Phật là yếu đạo độ sanh của Phật Tổ”.  Nếu nói Pháp môn Tịnh độ là pháp tu của Bậc Trung Hạ thì Đại  Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Chư Tổ sư đều là bậc trung, hạ hết sao?  Đâu thể thấy phương pháp mọi người có thể đồng tu mà cho họ là những người ngu dốt !  Nếu phương pháp chỉ dành cho một số ít người tu thì có phù hợp với bản hoài của Đức Phật không?  Lại nữa, về sự thu nhận đều do chủng tử tập quán từ đời trước, đâu có thể nói tôi thích đọc sách Thiền là bậc thượng căn, còn người ưa đọc sách Tịnh là bậc trung hạ.  Cùng trong một lớp học, cùng một thầy giáo dạy mà có trò giỏi về toán, có trò giỏi về văn, đó chẳng qua là do tập quán nghiệp nhân từ quá khứ, không thể căn cứ vào đó mà cho rằng tôi thích cái này là bậc cao, bạn thích cái kia là bậc thấp được. Việc quan trọng nhất của người tu hành là thực hành phải có kết quả chắc chắn, nặng về kiến giải mà không thực hành thì chỉ là kẻ nói ăn, đếm của cho kẻ khác, đều là những người đứng bên bờ sanh tử mà thôi !


3- Hỏi : Người Tu Tịnh chỉ y cứ vào tha lực là thấp hèn sao bằng người tu Thiền chuyên về tự lực là tự làm chủ lấy mình không nhờ vả một ai ?

Đáp : Ở đời “Mười năm đèn sách không người hỏi, chiếm được bảng vàng cả nước biết tên.”  Sự thành công tự nó đã phân định được giá trị cao thấp. Mục đích của người tu là thoát khỏi sanh tử luân hồi, pháp môn nào giúp hành giả thoát sanh tử là pháp môn thù thắng, không cần tự lực hay tha lực miễn là đạt đến kết quả sau cùng.  Người tu Thiền nương vào giới định huệ để đoạn hoặc tham sân si, khi sức định huệ thực sâu, phiền não dứt sạch không còn mảy tơ mới hy vọng ra khỏi ba cõi. Nếu phiền não hoặc nghiệp chưa dứt sạch, dù có đại trí tuệ, đại thần thông, có thể biết được quá khứ vị lai cũng không thể thoát khỏi sanh tử. Trong thời mạt pháp này, dùng tự lực đoạn hoặc chứng chơn muốn thoát khỏi sanh tử thực vô cùng khó. Người tu Tịnh độ chỉ cần sanh lòng tin, phát nguyện niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc, dù nghiệp lực người ấy chưa dứt sạch, cũng được nhờ từ lực của Phật mà “mang nghiệp vãng sanh”. Khi vãng sanh về cõi cực lạc rồi thì phiền hoặc không cần đoạn tự nhiên dứt, định huệ không cầu tự nhiên được, xa hẳn tam giới, thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứng vào vị bất thối. So sánh người chuyên tự lực và người chuyên tự lực cộng thêm tha lực, kết quả khó và dễ cách xa nhau một trời một vực.

Lại nữa, chúng ta đừng tưởng người tu Thiền là hoàn toàn tự lực mà còn nhờ nhiều tha lực gia trì. Nếu không nhờ lời tĩnh thức của Phật thì chúng sanh vẫn chìm đắm trong giấc mơ muôn đời, nếu không nhờ chuyển ngữ của Thiện tri thức thì làm sao Thiền sinh có thể nhận ra Phật tánh.  Ngày xưa, các Thiền sinh cần phải muôn dậm tìm thầy và Hội Thiền nào có Bậc Thiện Tri thức là móng vuốt của Tông môn thì hội ấy có nhiều người ngộ đạo, vì ngọn đuốc tuệ của thiền sinh, nhờ ngọn đuốc của thiện tri thức mồi vào mà phát sáng, như thế, không nhờ vào một phần tha lực của Thiện tri thức là gì ?  Ngoài ra, hành giả muốn viên mãn quả Diệu giác cần phải có Phật lực gia trì.  Người thực hành theo Thập Mục Ngưu Đồ đến mục thứ tám cần phải có Phật lực gia trì. Trong Kinh Lăng Già Phật bảo : “Các hàng địa thượng từ Đẳng Giác muốn chuyển qua Diệu Giác cần phải có Phật lực gia trì.”  Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Đà La Ni diệt Hành ấm để chứng Bát Địa, Thiền sư Thích Thanh Từ đã giải thích :”giai đoạn này sống trong sự tĩnh lặng tuyệt đối, nên lầm cho là Niết Bàn, cần phải có Phật lực gia hộ.” Như thế, người tu Thiền từ khi mới hạ thủ tiến lần đến quả Diệu Giác không phải hoàn toàn do tự lực mà cũng cần có Phật lực gia trì. Mong Chư vị nhận xét kỷ.

4- Hỏi : Thiền thuộc về lý môn,Tịnh thuộc về hành môn, lý môn đã lập thì Đạo sanh, nếu dạy hành môn e sanh trì trệ?

Đáp : Lý là gốc đạo, hành là cành đạo, nhơn có gốc mà trổ cành sanh ngọn, không gốc chỉ có cành ngọn sao được gọi là cây; nhơn có cành ngọn làm sáng tỏ gốc, nếu không có cành ngọn, gốc đứng trơ trọi cũng không được gọi là cây. Nên Cổ Đức dạy : “Gốc và cành ngọn tuy là những bộ phận khác nhau nhưng cũng được gọi là một cây.” Vì thế, nên biết rằng : Hành giả trước phải hiểu rõ tông chỉ, mới có thể tiến đến hành đạo, nếu cứ thực hành mà không có lý giải minh bạch chỉ thú thì việc làm sẽ bị trở ngại. Trong Kinh dạy :” Không hiểu chơn như mà thực hành, nếu có được thành tựu cũng chỉ là huyễn, hiểu chơn như mà không thực hành cũng chỉ là huyễn, giống như có mà không phải thực, người có viên căn chánh định thì tịch và chiếu không ngại, chính tịch là chiếu nên cả hai tịch và chiếu cùng làm, tức chiế u mà tịch nên cả hai không trái nhau. Không hại cội gốc mà thường có cành ngọn, muôn hạnh rõ ràng. Không hại cành ngọn mà thường có cội gốc, một tâm hằng tịch vậy nên cần phải lý và hành viên dung.

Qua những điểm quyết nghi trên, chúng ta thấy: Thiền và Tịnh cùng nguồn, hổ tương rất mật thiết.  Chính vì thế mà Vĩnh Minh Trí Giác Thiền Sư đã cực lực đề xướng phương pháp Thiền Tịnh song tu. Dù là bậc Tông Tượng bên Thiền Tông, nhưng Ngài vẫn suốt đời niệm Phật. Ngài có viết bộ Tông Cảnh Lục gồm 100 quyển nhằm dung hội tánh tướng các Tông. Sau đó, Ngài có khai thị bốn bài kệ gọi là “Tứ Liệu giản”, trong ấy có chỉ rõ sự lợi hại, được mất của Thiền và Tịnh mà một hành giả chúng ta cần phải biết.


III- Giải Thích Tứ Liệu giản:

Trong Phật pháp có rất nhiều Tông, nhưng chỗ cần yếu tu trì Phật pháp thực chỉ có hai môn Thiền và Tịnh. Thiền là pháp môn chuyên nhờ tự lực, nếu không phải là những kẻ có túc căn thành thục thì không được thực sự lợi ích. Tịnh là pháp môn dùng tự lực và nhờ cả Phật lực, không luận căn cơ, bất cứ người nào có đủ lòng tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật đều có thể mang nghiệp vãng sanh về Tịnh độ lần đến thành Phật. Sự khó và dễ của hai pháp môn này rất rõ, như hai người muốn qua sông lớn để đến bờ kia, một người tin vào sức mạnh đôi tay, nhảy xuống sông bơi sang bờ kia, một người lên thuyền gặp gió thuận, buồm căng đưa đến bờ kia. Chính vì thế, thiền sư Trí Giác đã triệt ngộ nhất tâm, viên tu vạn hạnh, mỗi ngày làm 108 Phật sự, ban đêm chuyên hành đạo niệm Phật. Ngài sợ kẻ hậu học đời sau, chẳng hiểu rõ tông yếu, không biết rõ chỗ được mất, nên Ngài đã làm bài kệ Tứ Liệu Giản để hành giả có chỗ xu hướng rõ ràng. Đây là khuông vàng thước ngọc cho hành giả muốn liễu sanh thoát tử trong kiếp này. Trước khi vào phần giải thích Tứ Liệu Giản, chúng ta cần phải hiểu rõ thế nào là Không và Có.

1- Hiểu rõ Không và Có : Có người không biết, chỉ thấy người tập tọa thiền hay tập tham thiền, hoặc nói vài câu giáo lý thiền cho là có Thiền. Có người chỉ thấy người lần chuỗi, niệm Phật liền cho là có Tịnh. Thực ra, những người này chỉ mới bắt đầu tập theo Thiền, theo Tịnh chứ không được gọi là có.

a- Thế nào là có Thiền ? Thiền chính là chơn như Phật tánh của chúng ta, trong Tông môn gọi là Bản lai diện mục. Nó chính là tâm thể thuần chơn, linh tri ly niệm, không năng không sở, tức tịch tức chiếu. Người hành Thiền khi sức tham cứu đã tột, vọng niệm dừng, vọng tình dứt, suốt thấy Bản lai Diện mục, minh tâm kiến tánh, đó gọi là có Thiền. Trái lại, người có tham thiền mà chưa ngộ, hay ngộ mà chưa thấu triệt đều không được gọi là có Thiền.

b- Thế nào là có Tịnh ?  Tịnh chính là Tin sâu, nguyện thiết, chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, chẳng phải thiên chỉ duy tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà.

Người thực hành Tịnh chơn thực là người phát tâm Bồ Đề, tin sâu, nguyện thiết, chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc được một ngày nhất tâm gọi là có Tịnh. Trái lại, người niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, không có tin nguyện, hay có tin nguyện mà tin không sâu, nguyện không thiệt, làm lấy lệ lấy có, hoặc dù tinh tấn mà tâm luyến cảnh dục trần, hoặc cầu đời sau sang giàu, hoặc sanh lên cõi trời, hoặc cầu đời sau làm Tăng để hoằng dương Phật pháp, phổ lợi quần sanh, tất cả không được gọi là có Tịnh.

2. Giải Thích Bài Kệ Tứ Liệu Giản thứ nhất

Có Thiền có Tịnh độ,
Cũng như cọp thêm sừng,
Hiện đời làm Thầy người,
Đời sau làm Phật Tổ.

Có người đã có thể triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, đó là có Thiền. Rồi lại vào sâu Kinh Tạng, biết đủ các pháp quyền thiệt của Như Lai mà ở trong các pháp chỉ lấy Tin, Nguyện, Niệm Phật để thực hành, cùng khuyến hóa người, đó là có Tịnh.

Trong Thập Lục Quán Kinh nói : Bậc Thượng phẩm thượng sanh là người đọc tụng Đại thừa Kinh điển, hiểu Đệ nhất nghĩa đế, khuyến tấn hành giả chính là người có Thiền, có Tịnh này. Vị này có đại trí tuệ, đại biện tài, tà ma ngoại đạo nghe danh vỡ mật. Như hổ mạnh lại có thêm sừng, không con thú nào dám đối địch.

Có kẻ nào tới học thì tùy cơ thuyết pháp, kẻ đáng học môn Thiền thì dạy cho môn Thiền, kẻ đáng học môn Thiền Tịnh song tu thì dạy cho môn tu Tịnh gồm tu Thiền.  Người đáng học môn chuyên tu Tịnh độ thời dạy cho môn chuyên tu Tịnh độ. Không luận là bậc thượng căn hay hạ trí, một khi đến cầu đạo liền được lợi ích lớn. Thế không phải là hiện đời làm Đạo sư của người ư !

Đến khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Thượng phẩm, hoa nở thấy Phật chứng vô sanh. Bậc cao thời siêu Thập Địa, Đẳng Giác Bồ Tát, thấp nhất cũng ở Viên giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Bậc nầy còn có thể hiện làm Phật độ sanh trong một trăm thế giới không Phật. Thế chẳng phải đời sau làm Phật, Tổ sao ?

3- Giải Thích Bài Kệ Tứ Liệu Giản thứ hai :

Không Thiền có Tịnh độ,
Muôn tu muôn vãng sanh,
Khi gặp Phật Di Đà,
Lo gì chẳng khai ngộ.

Người chưa minh tâm kiến tánh nhưng lại tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh cực lạc, phù hợp với Đại nguyện của Phật A Di Đà, thuận lời Phật dạy, cảm ứng hợp nhau là người có Tịnh. Hạng người tinh tấn tu định huệ được nhất tâm bất loạn hay được niệm Phật Tam Muội chắc được vãng sanh đã đành, nhẫn đến kẻ cả đời tạo ác, lúc sắp lâm chung mà có tâm ăn năn hổ thẹn, chí tâm khẩn thiết niệm Nam Mô A Di Đà Phật dù chỉ được mười tiếng liền tắt hơi, đều nhờ nguyện lực của Phật nhiếp thọ vãng sanh về Tịnh độ. Như thế không phải muôn người tu muôn người được vãng sanh là gì ?

Trong Kinh Vô Lượng Thọ dạy :” Phật A Di Đà phát đại nguyện nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật như mẹ nhớ con, người niệm Phật thiết tha chí thành như con nhớ mẹ thời cùng Phật có cảm ứng, không luận niệm lâu mau, ít nhiều đều được Phật tiếp độ.”  Sau khi vãng sanh về thế giới Cực lạc, người bậc Thượng phẩm thượng sanh trong khảy móng tay thì hoa nở. Kẻ Hạ phẩm hạ sanh sau 12 đại kiếp hoa mới nở, tuy thấy Phật nghe pháp có sớm muộn khác nhau, nhưng tất cả đều dự vào Thánh lưu, chóng hay chầy đồng chứng Thánh quả. Đã chứng Thánh quả rồi cần gì bàn đến vấn đề khai ngộ ?


4- Giải thích bài kệ Tứ Liệu Giản thứ Ba :

Có Thiền không Tịnh độ,
Mười người chín chần chờ,
Lúc ấm cảnh hiện ra,
Chớp mắt đi theo nó.

Người tu Thiền đã được triệt ngộ thiền cơ, minh tâm kiến tánh, nhưng kiến hoặc và tư hoặc chưa dễ gì đoạn trừ. Tuy gió đã dừng mà sóng vẫn còn nổi, lý tuy hiện rõ mà niệm vẫn còn sanh, hành giả phải trải qua nhiều công phu tu trì gọt dủa cho sạch hết phiền não hoặc nghiệp mới thoát khỏi luân hồi sanh tử. Nếu còn một phần phiền não nhỏ chừng bằng mải tơ trong 169 món Kiến Tư hoặc  vẫn còn bị luân hồi trong lục đạo. Biển sanh tử rộng sâu, đường Bồ đề xa tít, thân tứ đại mong manh vô thường, hành giả muốn đạt đạo phải ngàn dậm tìm Thầy, nếu may mắn vừa được liễu ngộ tâm tông, chần chờ lo dẹp phiền não chưa xong thì đò âm dương đã rước về miền dị lộ, những người đại ngộ thì mười người đã hết chín người như thế !

Ấm cảnh là cảnh trung ấm thân. Khi người sắp lâm chung, những cảnh thiện ác đã gây ra trong đời này hay đời trước đều tuần tự hiện ra, trong chớp mắt liền theo cảnh nào mạnh nhất mà đi thọ sanh, không thể tự chủ, như người mắc nợ, chủ nào mạnh thì kéo trước, đầu tâm nhiều mối chỗ nào nặng thì rơi vào, nếu không có Tịnh nghiệp, cực thiện nghiệp hoặc cực trọng nghiệp, thì hầu hết đều phải nhận thân trung ấm và theo nghiệp dẫn mà đến chỗ thọ sanh, dù phiền não chỉ còn bằng chừng mải tơ cũng khó thoát.

5- Giải thích Kệ Tứ Liệu Giản thứ tư :

Không Thiền không Tịnh độ,
Giường sắt cùng cột đồng,
Trải muôn kiếp nghìn đời,
Không nương vào ai được.

Phật dạy có rất nhiều pháp môn, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là phù hợp với căn cơ hơn hết. Người tu hành mà chưa đại triệt đại ngộ là không có Thiền, lại không có tin nguyện, niệm Phật là không có Tịnh. Người đã không có định huệ cùng tu để đoạn hoặc chứng chơn, lại không có cảm ứng đạo giao, nhờ Phật từ lực nhiếp thọ mang nghiệp vãng sanh về cõi cực lạc. Có người hiện đời dù tu hành có phước đức, cảm được phước báo nhân thiên ở đời kế, chưa chứng được Thánh trí, tất bị phước nghiệp xoay chuyển sẽ mê say với cảnh trần dục lạc mà tạo nhiều tội. Đã tạo tội chắc khó trốn khỏi ác quả địa ngục nơi đời sau, cả kiếp chịu khổ trên giường sắt nóng, bên cột đồng đỏ để đền tội tham dâm hại vật. Chư Phật và chư Bồ Tát dù luôn thương xót, nhưng vì ác nghiệp của họ tự chuốc lấy mà không được độ. Nên trong bài Kệ nói : Trải muôn kiếp nghìn đời, không nương vào ai được.

Không có Thiền, không có Tịnh không phải chỉ cho những kẻ vùi đầu tạo nghiệp không tu hạnh lành, mà chỉ cả cho những người tu mà không thoát sanh tử, chỉ được phước trong vòng luân hồi đều gọi là không Thiền không Tịnh. Vì vậy, Cổ Đức nói :” Phàm người tu hành không đoạn hoặc chứng chơn, hoặc không có chánh tín cầu sanh Cực lạc mà đi tu các thiện pháp khác cũng gọi là oan gia ở đời thứ ba.” Vì đời này tu hành, đời sau hưởng phước, rồi ỷ có phước mà tạo nhiều ác nghiệp, chắc chắn đời thứ ba sẽ bị đọa lạc, nếu để mất thân người khó có thể thành Thánh đạo. Vì sao ? Vì nghiệp Trời có quá nhiều phúc lạc, chìm đắm mãi trong dục lạc nên bị lôi cuốn không thể tu trì. Nghiệp Tu La sân hận ép ngặt khó khởi từ bi tâm. Nghiệp súc sanh ngu si không thể hiểu thánh đạo. Nghiệp địa ngục và ngạ quỷ bị khổ ép ngặt nên không thể tu. Chỉ có nghiệp làm người nửa khổ nửa vui quân bình không bị lôi cuốn và ép ngặt có thể thành toàn Thánh Đạo. Vì thế, Phật dạy : “Được thân người như đất dính trong móng tay, mất thân người bị đọa lạc nhiều như đại địa.” Để mất thân người thật muôn kiếp nghìn đời khó gặp lại.

Bốn bài Kệ trên đây Vĩnh Minh Thiền Sư sợ người đời không nhận được chỗ lợi ích rất rộng lớn của pháp môn niệm Phật vãng sanh, nên đặc biệt làm Kệ Liệu Giản để dạy. Đáng gọi là chiếc thuyền báu nơi bến mê, là vị Đạo sư nơi đường hiểm. Nếu người nào đọc kỷ, chắc chắn biết rõ rằng: “Thiền không bảo đảm giải thoát bằng Tịnh” để từ đó chúng ta sanh lòng tin chắc, quyết tâm tu theo phương pháp Thiền Tịnh song tu.


VI- Chọn Chính Phụ:

Hai con thuyền cùng nương nhau sẽ vượt qua những trở ngại dễ dàng hơn, nhưng hành giả không thể một chân ở thuyền bên này và một chân ở thuyền bên kia mà có thể đi đến đích được, vì như thế sẽ bị trở ngại lẫn nhau. Nếu một thuyền chính một thuyền phụ trước sau đề huề thì vững vàng mà mau đến. Vì thế, người theo phương pháp” Thiền Tịnh song tu” phải chọn một pháp môn thích hợp làm chính, pháp môn khác làm phụ thì cuộc hành trình sẽ an toàn hơn.

Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền Sư dạy :” Chúng sanh thời mạt pháp tội nghiệp chất chồng, nếu tội nghiệp của một chúng sanh mà có hình tướng thì chất đầy cả hư không này cũng không hết.” Ngày nay cách Phật đã xa, xã hội phát triển nhiều về tình dục, kỷ thuật cơ giới văn minh làm con người có nhiều nhu cầu, tâm càng thêm vọng động. Kiến hoặc và Tư hoặc có cơ hội phát triển tột độ.Vì thế thời nay, người muốn đoạn được hoặc nghiệp, muôn người không có một, việc thoát sinh tử thực khó khăn vô cùng. Do đó, tổ Vĩnh Minh khuyên người tu thời nay nên lấy Tịnh làm chính, lấy Thiền làm phụ, nhờ Thiền lý giải rõ ràng nên lòng tin nguyện sâu chắc, nếu hiện đời chưa dứt hết hoặc nghiệp, khi lâm chung cũng nhờ từ lực tiếp dẫn vãng sanh, thoát khỏi vòng sanh tử trong Tam giới, lần chứng Quả Vô Thượng Bồ Đề. Đây là kế sách an toàn. Tổ Vĩnh Minh cũng dạy : Sở dĩ cần chọn Tịnh làm chính vì :

1- Thân người vô thường, cõi đời ngắn ngủi : Trong Kinh A Hàm, một hôm Đức Phật hỏi các Thầy Tỳ Kheo: “Thân người sống được bao lâu?  Có Thầy đáp một năm. Có Thầy đáp một tháng. Có Thầy đáp chừng vài ngày. Phật nói: Tất cả đều sai, thân người sống chỉ bằng hơi thở, nếu thở ra mà không thở vào là mất mạng.”  Thực vậy, thân người luôn luôn bị bao vây với những vật giết hại, như một người đứng giữa trận, hằng vạn mũi tên đều hướng về, không biết họ buông tên lúc nào. Chung quanh thân ta biết bao nguy hiểm kề bên. Bên ngoài: chỉ một luồng gió độc, một nọc rắn, một giây lát thời tiết đổi thay, một thứ thức ăn không phù hợp, nạn xe cộ, nước lửa đao binh, bệnh hoạn, cướp giật và lòng người…. Bên trong: Bốn đại luôn luôn chống đối nhau, nước chống với lửa, đất chống với gió, chúng luôn luôn đối nghịch để sanh tồn, nếu có một thứ mạnh hơn thì thân lâm trọng bệnh đến mất mạng.

Thân mạng thì vô thường mà đường giác ngộ thì xa diệu viễn. Dù có người đã giác ngộ rồi, nhưng tập khí từ nhiều đời khó dứt, tuy gió đã dừng mà sóng vẫn nổi, lý đã hiện rõ mà niệm vẫn còn sanh. Nếu còn vọng tưởng, còn niệm là phải luân hồi, chi bằng lấy Tịnh Độ làm chính, Thiền làm phụ dù vọng tưởng và niệm vẫn còn nhưng nhờ từ lực của Phật cũng được vãng sanh về Tịnh độ. Về được cõi Tịnh độ rồi vọng niệm phiền não tự tiêu, quả Phật không còn xa nữa.

2- Đường Luân hồi nguy hiểm : Chúng sanh hết kiếp này đến kiếp khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Sáu cõi này được chia làm hai là thiện thú và ác thú. Thiện thú gồm có hai là Trời và Người. Trời tuy vui vẻ hơn cõi nhân gian, nhưng vẫn còn ngũ suy tướng và bất như ý. Người thì bị ba khổ, tám khổ ép ngặt chẳng có chút gì vui. Ác thú có bốn là A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Cõi Tu La bị khổ vì sự sân hận, gây gổ tranh đua. Cõi Súc sanh bị khổ vì chở kéo nặng nề, banh da xẻ thịt. Cõi Ngạ quỷ bị khổ vì đói khát trong muôn ngàn kiếp. Cõi Địa ngục thì vạc dầu, cột lửa, hầm băng, non gươm, hành hình không xen hở, thống khổ không thể tả xiết.

Trong sáu cõi, chúng sanh cứ sống chết xoay vần, hết nơi này đến nơi khác như bánh xe không có đầu mối. Lại nữa, khi chúng sanh ở thiện thú mà bỏ mất thân mạng thì luân chuyển phần nhiều đi xuống. Nên trong kinh nói : “Chúng sanh được sanh lên cõi trời, người ít như bụi trong móng tay, đọa vào tứ ác thú nhiều hơn đại địa.” Thực vậy, chúng ta có đời sống hiện tại là chúng ta sống trên xác chết của các sinh vật khác, suốt cuộc đời, chúng ta giết biết bao nhiêu là sinh mạng, dù không phải chính mình giết, nhưng bảo người giết hoặc ưa thích muốn giết đều là sát sanh. Theo luật nhân quả trả vay, giết người phải đền mạng thì chỉ trong một đời ta thôi, phải trả mấy ngàn kiếp cho vừa. Lại nữa, kiếp của Tứ ác thú rất dài, ở địa ngục một kiếp bằng năm trăm kiếp ở nhân gian, kiếp súc sanh muốn tiến về thiện thú phải trải qua muôn ngàn kiếp. Trong Kinh A Hàm nói : ” Một hôm, thợ đang xây cất Kỳ Hoàn Tinh Xá, có một con kiến bò ra, Ngài Ma Ha Ca Diếp thấy liền rơi nước mắt mà than rằng : Con kiến này ta đã từng gặp từ thời Phật Ca Diếp còn trụ thế mà đến hôm nay vẫn còn mang thân kiến, thật đáng thương ! “

Vì thế, người tu, chúng ta phải thoát sanh tử ngay trong đời này, không thể đợi đến đời sau, vì Thanh văn còn phải bị biến dịch sanh tử, Bồ Tát còn sợ cái mê Cách ấm, nên phải chọn niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ mới là kế sách an toàn.


3-  Một đời chắc chắn giải thoát :  Như trước chúng tôi đã trình bày :” Người tu Thiền phải dứt sạch hết 88 món Kiến hoặc và 81 món Tư hoặc mới có thể thoát ly sanh tử, nếu trong các món kiến, tư chỉ còn một chút phiền não nhỏ cũng bị nghiệp dẫn vào trong luân hồi. ” Những vị tu theo Thiền Tông, dù đã đại triệt đại ngộ mà các Ngài vẫn còn than :

” Đốn ngộ tuy bằng Phật,
Nhiều đời tập khí sâu,
Gió dừng sóng vẫn vỗ,
Lý hiện niệm còn sanh !”

Người muốn đại triệt đại ngộ, phần nhiều các vị phải mòn gót tìm Thiện Tri Thức, có khi phải trải qua mấy mươi năm mới đại ngộ. Khi đại ngộ rồi, tuổi đã già mà vẫn còn sóng thức và niệm khởi trong tâm thì khó thoát bị nghiệp dẫn vào trong luân hồi. Khi đã bị luân hồi rồi, đâu chắc gì còn giữ được trọn vẹn đạo nghiệp cũ. Trái lại, người tu Tịnh nghiệp chỉ cần có đủ lòng tin sâu, nguyện thiết, dù nghiệp lực chưa sạch, vẫn nhờ Từ lực của Phật mà đời này được vãng sanh về Tịnh độ Cực lạc. Khi đã được vãng sanh về cõi Cực lạc rồi, người ấy thoát khỏi nhà lửa tam giới, được vào chánh định tụ, ở vị bất thối chuyển, với tuổi thọ vô cùng, đạo hạnh chỉ có tiến mà không có lùi, chắc chắn một đời được giải thoát. Lại nữa, trong Quán Kinh dạy :” Người suốt đời tạo ác không biết hổ thẹn, khi lâm chung nhờ Thiện tri thức hướng dẫn chỉ niệm mười niệm cũng được vãng sanh.” Do đó, Chư Tổ thường cho Pháp Môn Niệm Phật là muôn người tu muôn người được vãng sanh. Người tạo ngũ nghịch, thập ác còn được vãng sanh, hà huống gì chúng ta làm lành, trì trai, giữ giới mà không chắc được vãng sanh sao?  Vì thế, muốn chắc chắn đời này giải thoát cần phải lấy Tịnh làm chính Thiền làm phụ.

4- Một đời thành biện : Trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Bồ Tát Long Thọ dạy :” Bồ tát ở trong đời ngũ trược, lúc Phật không còn tại thế, muốn chứng vào” Vị Bất Thối Chuyển” rất khó, nếu người muốn dễ được “Vị Bất Thối Chuyển” này, nên dùng tâm cung kính, gìn giữ danh hiệu Phật A Di Đà, khi mãn báo thân sẽ sanh về cõi cực lạc, tự nhiên chứng được” Vị Bất Thối Chuyển”, vì cõi ấy có Phật hiện đang thuyết Pháp.” Như thế, người muốn tiến đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề phải chỉ có tiến mà không có lùi mới viên thành 52 vị và chứng được quả Diệu Giác. Bồ Tát muốn được Vị “Bất Thối Chuyển” trong đời không có Phật còn rất khó huống chi hạng phàm phu, tội dày phước mỏng như chúng ta ngày nay. Vì thế, nếu muốn tiến đến Phật quả chỉ có con đường dễ đi là Niệm Phật nguyện vãng sanh về cõi Cực lạc.  Đã về cõi ấy rồi liền chứng ngay vào Vị Bất Thối thì quả Đại Bồ Đề chắc chắn được viên mãn. Do đó, phải lấy Tịnh độ cầu sanh Cực lạc làm chính.

TỔNG KẾT : Qua những phần quyết nghi trên, chúng ta thấy Thiền và Tịnh cùng nguồn,  thường hổ tương nhau trong việc tu tập. Thiền là Huệ, Tịnh là Định, nếu định không có huệ thì định dễ bị trầm tịch, huệ không có định thì tánh chất không được hiển dương, nếu Thiền Tịnh đồng tu là định huệ nhất như, tịch chiếu viên mãn. Dù vậy, muốn có kết quả chắc chắn, chúng ta cần phải phân biệt rõ môn nào chính, môn nào phụ để dễ dàng trong việc thực hành. Thiền tông dùng sức nhiều mà khó thành công, như con kiến bò lên núi cao, vì hoàn toàn nhờ vào tự lực. Tịnh Tông khế hợp thời cơ, dùng sức ít mà thành công dễ như thuyền xuôi gặp nước thuận, vì nhờ vào tự lực thêm Phật lực.

Ngày nay, nhằm thời mạt pháp, nghiệp lực chất chồng, thân tứ đại mỏng manh, những cơ khí giết người càng tinh xảo như máy bay, đại bác, tia sáng, núi sông không thể ngăn, hầm núp không thể chống, kiếp sống như sương gá đầu cành, vô thường một khi đã đến kỳ thì vạn sự đều bỏ lại. Vì thế, muốn lìa khổ được vui, phải kịp thời gắng sức niệm Phật, đồng thời giữ tâm thanh tịnh, dẹp ý phang duyên, đến khi lâm chung, nếu nghiệp lực vẫn còn cũng có thể mang nghiệp vãng sanh về thế giới Cực lạc. Khi sanh về Tịnh độ Tây phương thì vĩnh viễn chẳng còn lui sụt, hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói : “Các Đẳng giác Bồ Tát muốn mau viên mãn Phật quả, cần cầu sanh về cõi Cực lạc ở Tây phương.”  Chúng ta ngày nay, sanh ra nhằm thời mạt pháp, nghiệp căn sâu nặng, nếu chẳng dùng “Thiền Tịnh song tu “cầu vãng sanh về Tây Phương cực lạc là bỏ cái dễ mà đi tìm lấy cái khó, thực đáng tiếc biết bao! Mong Quý vị lắng tâm xét kỷ.

Câu hỏi Thiền Tịnh

1. Thiền sư Diên Thọ là cháu Đích Tôn của dòng Pháp nhãn cũng là bậc nanh vuốt của Tông Môn, Ngài viết Tứ Liệu giản có đúng không? Giải thích rõ.

2. Theo Ngài nên chọn Tịnh làm chánh, Thiền làm phụ với lý do gì?

3. Tâm vốn vô niệm, Pháp vốn vô sanh, nay dạy người Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ làm gì?

4. Chư Phật đều có thể Niệm, Tịnh Độ đều có thể sanh, hà tất chỉ Niệm có Phật A Di Đà và cầu sanh về Cực Lạc?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Phát B Đ tâm là mc tiêu hướng thượng

Trong đường vào cõi Phật, chúng ta có bốn bước để lên Thuyền Từ đến thẳng bờ kia, mà một trong những bước chánh đó là phát tâm Bồ đề . Vì thế, phần nầy được khai triển một cách tỉ mỉ, rõ ràng để con đường lên thuyền dễ dàng tiến bước.


Ở đời, bất cứ làm việc gì, muốn có một kết quả thù thắng, chúng ta cần phải phát khởi tâm hướng thiện, lấy mục tiêu cao cả làm chỗ nhắm, rồi đem hết năng lực của mình ra thực hành để đạt đến kết quả sau cùng.  Cái kết quả sau cùng mới được gọi là kết quả cứu kính. Đức Phật thị hiện ra đời chỉ có một hoài bão duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập vào tri kiến Phật của chính mình để thoát khỏi sanh tử.  Chứng được quả cứu kính giác ngộ gọi là quả Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, là một Phật tử, chúng ta không vì cầu an lạc cho đời nầy, hoặc cầu phước báo ở cõi trời, cõi người, hoặc cầu quả Thinh Văn, Duyên Giác, hay Quyền Thừa Bồ Tát, chỉ y cứ theo Vô Thượng Bồ Đề mà phát tâm.

Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật dạy: Các yếu tố ắt có và đủ để hành giả thẳng đến cõi Phật thì phát tâm Bồ Đề là một yếu tố vô cùng quan trọng. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Tu các pháp lành mà quên mất tâm Bồ đề, đó là Ma Nghiệp.’  Lời nầy dạy rất đúng, ví như có người cất bước khởi hành mà chẳng biết mình sẽ đi đến đâu, và đến với mục đích gì! Thì cuộc hành trình sẽ trở thành quanh quẩn, mỏi mệt, vô ích, chỉ có lui mà không tiến.  Chúng ta phải xác quyết rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh viên giác, nhưng vì vô minh che ngăn mà chịu sanh tử luân hồi.  Người trở về với tánh Viên Giác của mình là người chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề.  Đức Phật khô cổ cạn lời chỉ vì muốn chúng ta thể nhập vào tánh ấy.  Vì thế người tu Tịnh độ, nếu dụng công khó nhọc mà quên mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình lợi người, thì bao nhiêu kết quả lành chỉ có kết quả hưởng phước nhân thiên, chung cuộc chỉ chìm đắm quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ mà không bao giờ ra khỏi.  Do đó, người tu Tịnh nghiệp phải phát khởi tâm Vô thượng Bồ đề, trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh. Đó mới là mục tiêu cứu kính mà hành giả nhắm đến.

I – Định nghĩa:

Phát tâm là khởi lên lòng quyết thực hành một vấn đề gì như phát tâm niệm Phật, phát tâm ăn chay…. Bồ đề là chữ Phạn, Tàu dịch là giác ngộ.  Phát tâm Bồ đề là phát khởi lòng quyết thực hành đến viên mãn quả vị Vô thượng Bồ đề.  Người tu Tịnh độ phát tâm Vô thượng Bồ đề là quyết thực hiện để được vãng sanh về Tịnh độ Cực lạc, một đời thành mãn quả vị Vô thượng Bồ đề.

II – Động cơ phát tâm của người tu Tịnh Độ:

Người tu Tịnh Độ  cần phải phát tâm chỉ vì:

Đường sanh tử nguy hiểm.

Thân người không khác bọt nước, sống chết vô thường, ta chỉ thấy người già đâu biết ta mỗi lúc mỗi già đang đi vào cõi chết.  Ta hằng ngày tạo biết bao nhiêu ác nghiệp, không có lúc nào không, khi nào nhắm mắt xuôi tay, phải theo nghiệp thức lôi đi, trong trạng thái mờ mờ mịt mịt còn biết về đâu?  Hoặc vào địa ngục nhận chịu các khổ, hoặc vào súc sanh để người giết hại, hoặc vào ngạ quỷ đói khát đốt mình, hoặc vào Tu La lửa giận ép ngặt.  Dù có tạo được chút lành sanh lên cõi trời, cõi người, khi phước báo đã tận, liền quay lại chịu cảnh luân hồi, chìm nổi xuống lên không bao giờ dứt.  Thời gian ở trong ba đường dữ rất dài, một quả báo trong địa ngục dài bằng năm ngàn kiếp, biết bao giờ trở lại kiếp người!  Trong kinh Phật dạy: ‘người khi mất thân nầy được lên cõi Thánh ít như đất trong móng tay, kẻ bị đọa tam đồ nhiều hơn đất trong đại địa;  nếu một phen bị đọa vào ba đường dữ thì muôn kiếp khó ra.  Đường sanh tử thực vô cùng nguy hiểm cần phải thoát ly, nếu muốn thoát ly cần phải phát tâm Bồ đề cầu sanh Tịnh độ.

Cần phải giải thoát trong đời nầy.

Đức Phật dạy: Thân người khó được, Phật pháp khó nghe.’Thân khó được chúng ta đã được, Phật pháp khó nghe chúng ta đã được nghe, đó là nhờ nhiều đời gieo trồng căn lành nên mới được sự may mắn như thế.

Trong kinh đức Phật có thí dụ: có một con rùa mù cứ một trăm năm nổi lên mặt nước một lần để tìm bọng cây trôi.  Có bọng cây trôi, trôi dạt từ Đông sang Tây, một hôm con rùa mù trồi lên mặt nước gặp được bọng cây trôi, thật là một việc vô cùng hi hữu.  Cũng thế, chúng ta bị mất thân người muốn tìm lại được thân người cũng hi hữu như con rùa mù gặp bọng cây trôi.  Thực vậy, nếu chúng ta không quyết tâm thoát sanh tử trong đời nầy chắc chắn vạt than, chảo dầu ở Địa Ngục đang chờ đợi chúng ta.  Chúng ta thử gan dạ mà xét:    Nếu theo đúng luật nhân quả trả vay, thì từ lúc sanh ra  đến giờ trong ‘nghĩa địa bao tử’ của chúng ta đã chôn  biết bao nhiêu là xác chết.  Tội nghiệp phải trả cho đúng lẽ công bằng chỉ trong đời nầy thôi, chúng ta phải đầu thai muôn kiếp cũng chưa trả hết, chưa kể mỗi kiếp mỗi vay thêm, như người gánh nặng bị sa lầy, mỗi lúc càng lúng sâu thêm, khó thể được lên;  nếu kiếp nầy chúng ta không phát tâm Bồ Đề, tu Tịnh Độ, nhờ đại nguyện ‘mang nghiệp vãng sanh’ thì không bao giờ còn có cơ hội được thoát.

Báo Phật thâm ân. Đức Thế Tôn chỉ vì hoài bão cứu chúng sanh ra khỏi nhà lửa tam giới, thoát ly sanh tử, mà từ vô lượng kiếp, Ngài đã tu Bồ tát hạnh. Trong kinh nói: ‘Đức Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp tu Bồ tát hạnh, độ chúng hữu tình ra khỏi  biển khổ sanh tử,   nếu nói về công hạnh độ sanh thì trên cõi đất nầy không có chỗ nào trống mà không phải là nơi Bồ tát bỏ thân mạng vì cứu độ chúng sanh. Ân đức ấy thực thâm sâu vô cùng.  Nếu chúng ta muốn thực hiện hoài bão của Đức Phật để gọi là đền đáp thâm ân trong muôn một, chúng ta cần phải phát tâm Bồ đề cầu sanh Tịnh độ đó là biện pháp an toàn để báo Phật thâm ân.

Cần thành mãn quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Trong kinh Hoa Nghiêm Bồ tát Phổ Hiền phát mười đại nguyện.  Ngài khuyên tất cả đại chúng cần theo mười đại nguyện cầu sanh Cực lạc, nếu muốn viên mãn quả vị Bồ đề.  Trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận dạy:  Bồ Tát muốn tiến thẳng lên Diệu Giác cần phải chứng vào địa vị bất thối, mà ở cõi đời ngũ trược ác thế nầy, gặp lúc không có Phật, muốn chứng được vị Bất Thối Chuyển thực khó vô cùng, vì thế, Bồ tát cần cầu sanh về cõi Tịnh độ Cực lạc, vì về được cõi ấy rồi liền chứng ngay địa vị Bất Thối Chuyển, thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề, đây là cách dễ làm.  Qua hai dẫn chứng trên cho chúng ta thấy, muốn được viên mãn quả vị Vô Thượng Bồ Đề, trong thời mạt pháp nầy chỉ còn có một cách duy nhất là niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.

Tóm lại, hành giả muốn xa lìa tam giới, thoát khỏi sanh tử luân hồi cần phải trở về với quả vị Viên Giác, vì hàng nhị thừa vẫn còn biến dịch sanh tử.  Bồ Tát hóa độ hữu tình còn phải sợ trạng thái cách ấm, chỉ có Phật quả mới vĩnh viễn thoát ly sanh tử, vì vậy, người tu Tịnh độ phải vì sanh tử mà phát tâm Vô thượng Bồ đề.


III – Những điểm cần phát tâm:

Tĩnh Am Pháp Sư trong Văn Phát Tâm Bồ Đề có dạy:  Cửa yếu vào đạo trước phải phát tâm, việc gắp tu hành trước nên lập nguyện. Vì thế nếu không lập nguyện bền chắc, không phát tâm rộng lớn, dù trải qua nhiều kiếp vẫn y nguyên trong nẻo luân hồi, vì vậy người phát tâm lập nguyện phải thực hiện đúng cách mới có kết quả.  Thông thường có tám cách phát tâm như sau:

Có người tu hành không chịu tham cứu tự tâm, chỉ    biết chạy theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, hoặc tham đắm cảnh vui hiện tại, hoặc mong có được quả phước ở tương lai mà phát tâm Bồ Đề, phát tâm như  thế gọi là tà.

Có người phạm lỗi không sám hối chừa cải, bên ngoài nhìn dường như trong sạch, bên trong thật nhơ nhớp, trước tinh tấn sau lười biếng.  Dù có tâm tốt nhưng còn chen lẫn danh lợi, có pháp lành nhưng bị lỗi lầm làm ô nhiễm, người phát tâm còn những điều nầy gọi là ngụy.

Có người xem ba cõi như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người.  Phát tâm như thế gọi là tiểu.

Người tu thấy chúng sanh và Phật đạo ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, chỗ thấy hiểu không dứt.  Phát tâm như thế gọi là thiên.

Tóm lại, có một số người phát tâm làm Phật sự, nhưng cứ chạy theo hư giả bên ngoài, mua danh trục lợi, dối hiện oai nghi, chỉ nghĩ ích lợi cho riêng mình, muốn về chỗ an lạc để trốn oan gia, mê danh chấp ngã, mong cầu phước quả hữu lậu đều là sự phát tâm sai lầm.

Có người tu không màn danh lợi, không tham cảnh vui, không cầu quả phước, chỉ vì thoát ly sanh tử, lợi mình lợi người mà cầu đạo Bồ Đề, phát tâm như thế gọi là chánh.

Có người tu, mỗi niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn quả vị Bồ Đề cao mà không     khiếp sợ, thấy loài hữu tình khó độ mà chẳng sờn lòng.  Tâm bền vững như lên núi quyết đến đỉnh, như leo tháp quyết đến từng chót, phát tâm như thế gọi là chơn.

Có người tu, thấy cõi nầy chúng sanh được giải thoát hết nguyện mới hết, đạo Bồ Đề thành nguyện mới thành, phát tâm như thế gọi là đại.

Biết chúng sanh và Phật đạo đều trong tự tánh nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy chúng sanh được độ, phát tâm như thế gọi là viên.

Tóm lại, người phát khởi tâm quyết chứng quả vị Vô Thượng Bồ Đề là người muốn thoát ly sanh tử, nên trên cầu thành Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, quyết tâm thực hiện cho đến kỳ cùng, không phải vì vui riêng mà vì giải thoát cho mình và cho tất cả mọi người, do đó phát thệ nguyện rộng lớn độ tất cả chúng sanh.  Người phát tâm như thế mới gọi là người phát tâm chơn chánh.


IV – Những điểm lập nguyện:

Sau khi đã phát tâm hành giả cần phải lập nguyện rộng lớn. Thông thường người tu Tịnh Độ phát bốn điều nguyện lớn:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ:

Giáo lý của đức Phật đều nhằm xây dựng hai phương diện sự và lý, vì thế, chúng ta cần phải hiểu thâm ý cả sự lẫn lý mới khỏi rơi vào thiên kiến, dù vậy, sự và lý bao giờ cũng dung thông không ngăn ngại nhau.

* Về sự:  Chúng sanh là những sanh mạng có tình thức, do tứ đại ngũ uẩn họp thành, do cha sanh mẹ đẻ mà có ra thân.  Nếu đã có thân thì phải gánh chịu muôn ngàn nỗi khổ, nào ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ cứ vây quanh.  Tuy chúng sanh có khổ vô lượng mà chúng ta cũng nguyện độ hết, chúng sanh có vô biên mà nguyện chúng ta cũng vô biên.  Đây là duyên theo Khổ Đế mà lập nguyện.

* Về lý:  Trong tự tánh của chúng ta, vô minh vọng tưởng luôn luôn sanh diệt, sự sanh diệt tiếp nối gọi là tâm chúng sanh, vọng tưởng sanh diệt vô biên nhưng người phát tâm Bồ Đề cương quyết (nguyện)  độ hết.

2.  Phiền não vô tận thệ nguyện dứt trừ.

* Về sự:  Phiền não tức là ba hoặc.  Hoặc là vọng tưởng mê hoặc.  Kiến hoặc và tư hoặc là phiền não của chúng sanh trong sáu đường.  Trần sa hoặc là phiền não của Nhị thừa.  Vô minh hoặc là phiền não vi tế của Bồ Tát, chỉ có Phật mới hoàn toàn thanh tịnh không còn phiền não.  Chúng sanh nhơn mê mà thêm mê, suốt ngày gom chứa các vọng tưởng phiền não, chúng ta nguyện làm cho dứt sạch, phiền não tuy vô tận mà nguyện dứt trừ của chúng ta cũng vô tận.  Đây là duyên theo Tập Đế mà phát khởi thệ nguyện.

* Về lý:  Tâm thể chúng ta từ xưa nay vốn vẫn thanh tịnh, ở Thánh không thêm ở Phàm không bớt, nhưng vì một niệm vô minh vọng tưởng tạo ra, phiền não vô tận, vì vậy, hành giả phát tâm Bồ Đề cần trở về với tự tánh thanh tịnh của mình thì huyễn phiền não dù vô tận cũng dứt sạch.

3.  Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

* Về sự:  Chúng sanh trong chín cõi căn cơ có ngàn sai muôn khác, nên Như Lai nói pháp có rất nhiều cách, chúng ta cũng nguyện học hết.  Chư Phật có vô lượng pháp môn, nguyện chúng ta cũng vô lượng.  Đây là duyên theo Đạo Đế mà phát thệ.

* Về lý:  Tự tánh chúng ta có đầy đủ vô lượng pháp môn, vì vậy, người phát tâm vô thượng Bồ Đề cần trở về tự tánh đầy đủ muôn pháp của chính mình.


4.  Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

* Về sự:  Như Lai ba hoặc đều sạch, hai sanh tử đều tiêu, thanh tịnh làu làu, mãi bụi chẳng dính, chín giới đồng nương.  Địa vị của Phật không có ai trên.  Nguyện của chúng ta cũng không ai trên.  Đây là duyên theo Diệt Đế mà phát thệ.

* Về lý:  Tất cả chúng sanh đều có tánh viên giác, nhưng bị vô minh đưa vào huyễn cảnh, đổi vóc thay hình, nhưng tánh viên giác vẫn không thay đổi, sáng suốt chẳng có ai hơn.  Người phát tâm Bồ Đề cần phải biết huyễn để xa lìa, lìa huyễn thì Phật đạo vô thượng tự nhiên thành tựu.

Tóm lại, chúng sanh sở dĩ có thánh phàm, nhiễm tịnh đều từ đương niệm mê và ngộ.  Nếu đương niệm mê thì theo cái dụng của nhiễm duyên mà có sanh tử trong chín cõi.  Nếu đương niệm ngộ thì tùy theo cái dụng của tịnh duyên mà có cảnh Phật diệu minh.  Vì    thế, chúng sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo đều là cái dụng sẵn có trong thể tánh của chúng ta. Tuy cái dụng có nhiễm, có tịnh mà thể tánh của chúng ta không hề thay đổi, như mặt gương hiện ra cảnh tốt, xấu mà thể của tấm gương vẫn không thay đổi. Nếu chúng ta đương niệm mà được lãnh ngộ thì chúng sanh, phiền não vốn không cần dứt trừ mà nó liền bị dứt trừ.  Pháp môn và Phật đạo vốn không cần chứng mà tự nhiên chứng được.  Sự và lý rõ ràng không còn gì đáng nghi nữa!  Như thế, người phát tâm Bồ Đề cần phải quyết tâm về Tịnh Độ để trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh.

V – Phải quyết tâm thực hành.

Phát tâm Bồ đề là một quyết tâm thực hành chứ không phải là những lời nói suông, vì thế, hành giả cần phải y cứ vào việc tùy thuận Tâm Bồ Đề mà thực hành mới được gọi là phát tâm Bồ Đề.  Tùy thuận tâm Bồ Đề có Vô Nhiễm Thanh Tịnh Tâm, An Thanh Tịnh Tâm và Lạc Thanh Tịnh Tâm.

1. Vô Nhiễm Thanh Tịnh Tâm: Người y cứ vào trí huệ môn, không vì tìm cầu các điều vui cho riêng mình, vì Bồ Đề là chỗ vô nhiễm và thanh tịnh.  Vì thế, hành giả phải có tâm giác ngộ và bình đẳng.

Thế nào là tâm giác ngộ?  Chúng ta  thường chấp sắc thân này là của ta, nhưng thực ra thân người như bọt tụ, tâm như gió, huyễn hiện vô căn không thức tánh.     Nếu giác ngộ được thân và tâm như huyễn thì không còn chấp trước, lần lần đi vào cảnh ‘Ngã tướng không’.  Cái Ngã của ta đã không thì cái Ngã của người khác cũng không, nên ‘ Nhơn tướng cũng không’.  Cái Ngã của mình và người cũng không thì ‘ Chúng sanh tướng cũng không’.  Cái ngã đã không, nên không có cái bản ngã lâu bền, nên không có ‘ Tướng thọ giả’ do đó cảnh chứng Niết Bàn thường trụ cũng không.

Nhơn đã không, thì pháp cũng không, người tu giữ lòng thanh tịnh trong sáng, giác ngộ ngã pháp không, không chấp trước mà niệm Phật.  Dùng lòng như thế mà hành đạo gọi là phát Bồ Đề tâm.

Thế nào là tâm bình đẳng?  Đức Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nhưng bị tâm phân biệt khởi niệm thiện ác làm lu mờ chơn tánh, như gương trong bị vết mực bôi vào trở thành lu mờ.  Lại   nữa, tâm chúng ta từ vô thỉ đến nay luôn luôn thanh tịnh sáng suốt mà ta cứ bỏ quên, như chàng Cùng Tử có viên ngọc như ý bỏ trong túi mà vẫn chịu nghèo khó đi làm thuê, làm mướn.  Do đó, người dẹp được tâm phân biệt để niệm khởi không còn, nhớ và sống với tánh giác, dùng tâm bình đẳng như thế mà hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

2. An Thanh Tịnh tâm:  Người y cứ vào Từ Bi Môn, vì nhổ hết tất cả khổ não của chúng sanh, để họ xa lìa khỏi sanh tử, tâm thường an ổn thanh tịnh, muốn thế hành giả phải dùng tâm từ bi và hỷ xả để độ mình và người.

Thế nào là tâm Từ Bi?  Chúng ta và mọi người đều sẵn có đức tướng Như Lai, nhưng vì bị khởi hoặc làm mê mờ chơn tánh nên phải chịu cảnh luân hồi.  Đã rõ được như thế, chúng ta phải dứt trừ tâm thương ghét phân biệt, khởi lòng cảm hối, lấy từ bi làm phương tiện độ mình cứu người để cùng an vui giải thoát.  Dùng lòng từ bi hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Thế nào là tâm hỷ xả?  Đã có lòng từ bi phải thể hiện lòng ấy qua tâm hoan hỷ, thấy người làm được việc lành gì, mình cũng đều tùy hỷ, thấy họ làm những điều tội lỗi nào cũng đều ẩn nhẫn hỷ xả bỏ qua.  Người có lòng hỷ xả sẽ trừ được chướng tật đố nhỏ nhen, lòng hỷ xả giải được chướng hận thù báo phục.  Dùng lòng hỷ xả hành đạo gọi là phát Bồ Đề tâm.


3. Lạc Thanh Tịnh Tâm :  Người y cứ theo phương tiện môn, muốn làm cho chúng sanh được quả vị Đại Bồ Đề nên nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh về cõi Cực Lạc,  chỉ có nước An Lạc kia mới làm cho chúng sanh tâm được hoàn toàn an lạc.  Do đó người phát tâm Bồ Đề phải thực hiện tâm sám nguyện và tâm tinh tấn lâu bền.

Thế nào là tâm Sám nguyện?  Trong kiếp luân hồi, mỗi người tạo vô biên tội nghiệp, ngày nay đã giác ngộ phải hỗ thẹn ăn năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối để dứt sạch lỗi xưa và nguyện không còn khởi vọng lại.  Có tâm sám nguyện thì tội chướng tiêu trừ, công đức ngày càng thêm lớn đi đến chỗ Phước Huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám nguyện để hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Thế nào là tâm tinh tấn lâu bền?  Con đường đi     đến Phật quả dẫy đầy chông gai nguy hiểm, nếu người không bền chí quyết tâm tiến lên sẽ bị lui sụt.  Vì thế, người phát tâm Bồ Đề phải phát nguyện kiên cố, thề không thối thất tâm ban đầu.  Thân nầy dù tan nát cũng không vì thế mà làm những điều ác.  Dùng lòng tinh tấn lâu bền mà hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Tóm lại, người thực hành tùy thuận tâm Bồ Đề, trước phải giác ngộ. Ngã và pháp đều không, niệm thiện và ác không khởi, nhớ tánh giác rõ ràng để trừ dứt sự mê lầm về thân và tâm, kế đó, phải dùng lòng từ bi, hỷ xả dẹp hết lòng thương ghét phân biệt, tâm tật đố nhỏ nhen, lấy lòng thương cứu độ chúng sanh làm cho mọi người dứt khổ, đồng thời chuyên tâm niệm Phật để dẹp trừ phiền não, quyết tâm làm cho mình và người được vãng sanh về cõi Cực Lạc.  Đây là những điểm then chốt để người phát tâm làm tiêu chuẩn thực hành, nếu không nương nơi đây mà lập chí thì việc nói phát tâm chỉ là nói suông, chẳng có ích lợi gì!

Bản hoài của đức Thích Ca Mâu Ni là ‘Khai thị cho chúng sanh Ngộ nhập tri kiến Phật’ của chính mình để từ đó thoát ly hẳn khổ sanh tử.  Ngài không dạy chúng ta tu hành để được phước báo ở nhơn thiên như sanh làm người giàu sang, gia đình hạnh phúc, làm vua chúa uy quyền tột bậc, hoặc sanh về cõi trời để hưởng phước lạc ngàn muôn năm.  Ngài không dạy chúng ta đạt thành quả vị Thinh Văn, Duyên Giác an lạc trong   Niết Bàn vô dư Tiểu Thừa chuyên được tự lợi, hoặc Bồ Tát Quyền Thừa,  mà Ngài chỉ dạy cho chúng ta y cứ vào Phật Thừa mà phát tâm.  Tại sao thế?  Vì sanh tử là việc lớn của kiếp người, chúng ta đang luân hồi trong phần đoạn sanh tử, xuống lên trong ba nẻo sáu đường,  đổi mặt thay hình chịu khổ vô cùng.  Hàng Nhị thừa tuy khỏi phần đoạn sanh tử trong ba cõi, nhưng vẫn còn bị biến dịch sanh tử.  Tuy trạng thái khổ vui có khác nhau nhưng vẫn còn trong sanh tử là còn khổ.  Bồ Tát Quyền Thừa tuy khỏi biến dịch sanh tử nhưng vẫn còn bị mê trong lúc cách ấm, nên vẫn coi là chưa thoát hẳn khổ sanh tử.  Chỉ có quả Vô Thượng Bồ Đề hay Phật quả mới là  quả vị cứu kính thoát hẳn ngoài vòng sanh tử.

Vì thế, người tu hành đạo Phật cần phải phát tâm làm Phật, quyết định lấy quả vị Vô Thượng Bồ Đề làm mục tiêu, dẹp bỏ những tư tưởng Tà, Ngụy, Tiểu, Thiên mà phát tâm theo Chánh, Chơn, Đại, Viên.  Đồng thời lập bốn nguyện lớn và thực hành ba tâm tùy thuận Bồ Đề. Có phát tâm được như thế chắc chắn quả Vô thượng Bồ Đề sẽ có ngày thành mãn.

Câu hỏi Phát Tâm Bồ Đề

1. Giải thích vì sao trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Người tu không phát Tâm Bồ Đề mọi công tác đều thuộc Ma Nghiệp”. Lý ấy thế nào?

2. Hàng Thanh Văn, khi chứng được quả A La Hán cũng được gọi là thoát khỏi sanh tử. Như thế Phát Tâm Bồ Đề để làm gì?

3. Chia Tịnh chia uế, bỏ uế lấy Tịnh đều thuộc vọng tưởng nhị nguyên sao gọi là thật tu?

4. Tâm chính là Phật thì chỉ cần quán tưởng vào tâm là được cần gì phải niệm ông Phật khác?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Hạnh Hân Yểm là xu hướng tất yếu của người tu Tịnh Độ

Bảng tổng kết những người vượt biển bị tổn thất trong năm 1988 cho biết số người vượt biển bị cướp biển Thái Lan, bị cuồng phong bão táp, bị lạc hướng giữa bể khơi đã thất thoát khá nhiều, có lúc lênđến 1/3 tổng số.  Dù biết ra đi là đem sanh mạng thử thách với tử thần, với nguy hiểm, nhưng số người ra đi vẫn tiếp tục mỗi lúc mỗi cao.  Động cơ nào đã làm cho họ bất chấp gian nguy bỏ nước ra đi, chỉ vì họ nhàm chán chế độ cai trị tàn ác vô nhân, quyết ra đi tìm chân trời mới, mà nơi đó họ tin là hít thở được không khí tự do.  Như thế, muốn rời bỏ chỗ nầy để quyết đến chỗ kia lòng nhàm chán và lòng ham muốn là động cơ chính đưa người ta vượt mọi gian nguy để tìm đến bến bờ an lạc.


Trong kinh Phật có thí dụ:  Trong lâu đài của ông trưởng giả kia đã mục nát gãy đổ, lúc bắt đầu cháy, nguy hiểm gần kề, nhưng các con ông vẫn không biết gì, cứ một lòng vui chơi đùa giỡn.  Ông trưởng giả trở về gặp các con, ông chỉ cho các con biết sự gãy đổ mục nát của ngôi nhà và cái họa thiêu thân sắp tới.  Trong các con của ông có người biết được lẽ thật của sự khổ vội vã tìm cách ra ngoài, một số lớn còn lại cứ ham mê ngũ dục, không chịu nghe lời cha dạy chỉ nhìn cha mà thôi.  Thấy thế, người cha dùng phương tiện bảo với các con rằng: ‘Các con chưa muốn ra khỏi nhà nầy vì muốn tìm đồ chơi.  Ở ngoài cửa kia ta có ba loại xe: xe dê, xe nai và xe trâu trắng, trên mỗi xe đều có đầy đủ những thứ đồ chơi mà các con  cố tìm, hãy chạy ra ngoài kia ngay để có đồ chơi tốt.’  Các con nghe nói có đồ chơi vội chạy ra khỏi ngôi nhà nguy hiểm.  Khi ra ngoài, người cha liền cho tất cả các con xe trâu trắng, vì xe này có nhiều đồ chơi nhất.

Người tu Tịnh Độ muốn ra khỏi nhà lửa Ba cõi, cần phải có đủ hai Tâm là Yểm Ly Tâm và Hân Ngưỡng Tâm, nếu người có đủ một tâm trong hai tâm này thì chắc được ra khỏi nhà lửa sanh tử, cũng như con ông trưởng giả kia, vì chán biết cái khổ của họa thiêu thân mà mau mau rời khỏi, hoặc vì ham muốn các thứ đồ chơi bên ngoài mà mau ra khỏi.  Người  tu niệm Phật cầu vãng sanh cần phải biết rõ cõi Ta Bà khổ  não họa hại gấp xa lìa, biết cõi Cực Lạc an vui quyết tâm mauđến.  Nếu người có đủ hai hạnh Yểm, Hân nầy thì chắc được vãng sanh dù trăm con trâu kéo cũng không thể trở lại.  Để tìm hiểu hai hạnh nầy thì chúng ta cần phải cố nhận định rõ ràng, biết rõ những điểm khổ ở cõi Ta Bà, hiểu được cái vui ở cõi Cực Lạc, thì lòng tin mới kiên cố và ý nguyện mới thực sự bền vững.

I – Nhận định:

Thế nào là Yểm Hạnh?  Yểm là nhàm chán, Hạnh là việc làm.  Yểm Hạnh là việc khảo cứu rõ ràng những cảnh khổ, những nỗi bất hạnh để từ đó quyết tâm xa lìa.  Thế nào là Hân Hạnh?  Hân là ưa muốn, Hạnh là việc làm.  Hân Hạnh là khảo cứu rõ ràng những cảnh giới an lạc, thù thắng , để từ đó chúng ta quyết tâm hướng đến.  Công năng của hạnh Hân, Yểm là làm cho lòng tin sâu chắc hơn và ý nguyện thực hành trở nên cương quyết hơn.  Đó là yếu tố chính của người muốn vãng sanh Cực Lạc.  Như thế hạnh Hân, Yểm là khảo cứu cái khổ của cõi Ta Bà để chúng ta nhàm chán muốn xa lìa và khảo cứu cái an lạc ở cõi Tịnh Độ Cực Lạc để từ đó ta quyết lòng hướng đến.  Người đã có tâm nhàm chán cảnh giới mình đang sống, muốn đến một nơi an vui hơn thì không có năng lực nào lôi kéo nỗi.


II –  Hạnh Yểm Ly:

Sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định, Đức Thích Ca Mâu Ni đã khám phá ra rất nhiều chơn lý để chứng thành đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.  Buổi thuyết pháp đầu tiên ở vườn Lộc Uyển Ngài nói ra bốn lẽ thật, đó là phương pháp Tứ Diệu Đế, bởi bốn lẽ thật nầy lớn nhất và bao trùm tất cả lẽ thật khác, nó bất di bất dịch muôn đời, không hạn cuộc thời gian và không gian.  Nó giải quyết được nỗi thắc mắc muôn đời của nhân loại, đó là phương pháp giải thoát sanh tử luân hồi.  Diệu Đế đầu tiên Ngài chỉ cho chúng ta thấy cõi đời là bể khổ, phải tìm ra nguyên nhân diệt khổ để chứng vào quả vị Thanh Tịnh Niết Bàn. Trong phạm vi của bài Dựa Vào Lẽ Thật chúng ta cần phải biết rõ những cảnh khổ của cõi đời nầy, những cái thiêu đốt mà ta đang chịu, những cái uế trược mà ta đang mang, để từ đó chúng ta sanh lòng nhàm chán.

1 –  Đời là một biển khổ đầy nước mắt. Trong kinh dạy: ‘Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển’.  Thật vậy, cõi đời không có vui, cõi đời toàn nhận chịu những cái đau khổ.  Những nỗi vui nếu có , cũng chỉ là những thứ tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sơn bên ngoài ở trong trạng thái thay đổi nhất thời, thật sự cười là tiếng khóc khô không lệ mà người đời muốn che lấp đau thương.  Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sanh đang bơi lội, hụp lặn, trôi lăn chìm nổi đó là sự thật. Kể cho biết tất cả sự khổ của thế gian thì không bao giờ cùng, nhưng theo kinh Phật có thể chia làm ba  khổ và tám khổ.

a. Ba khổ: Ba thứ khổ này là Khổ Khổ, Hành Khổ, Hoại Khổ.

* Khổ khổ:  Là cái  khổ chồng chất lên cái khổ, con người bản thân đã khổ mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác. Thân của chúng sanh rất mong manh. Một nhà y học nổi tiếng đã xác nhận, trong thân của mỗi người chứa không biết bao là bệnh tật nan y, chúng nằm sẵn ở đó chờ khi bộc phát, là tử thần đến đón.  Chúng như những con rắn độc nằm phục sẵn dưới chân ta, chỉ cần xuất hiện là mất mạng, thân người vô cùng yếu ớt chỉ cần một nọc rắn, một cây gai, một luồng gió độc là có thể chết.  Vì thế, cổ nhân thường dạy: thân người khác thể phù du, sớm còn tối mất công phu lỡ làng.  Lại nữa, thân này cũng là nạn của cái khổ, cái xấu xa: thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một ngày không săn sóc rửa ráy thì thối tha không thể chịu được.  Thêm cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được nó, còn nhiều cái khổ khác nữa chất chồng không sao tránh khỏi được, như áp bức sưu cao, thuế nặng, chiến tranh, thiên tai bão lụt, hỏa hoạn, đói khát bệnh tật cứ chồng chất lên nhau.  Nếu chúng ta để tâm mà xét thì thân người bị chồng chất không biết bao là sự khổ.

* Hoại khổ:  Vạn vật trong vũ trụ, tất cả đều bị luật vô thường chi phối không có một cái gì tồn tại, loài động vật thì chi phối bởi luật sanh lão bệnh tử, loại thực vật thì bị chi phối bởi luật sanh, trụ, dị, diệt, loài khoáng chất thì bị chi phối bởi luật thành, trụ, hoại, không.  Cứng rắn như sắt đá lâu năm cũng mục nát, to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã.  Yếu ớt, nhỏ nhen là thân người thì mạng sống cũng ngắn ngủi phù du.  Cái áp bức tàn ác của thời gian đập nát tất cả, mỗi phút mỗi giây ta sống cũng là mỗi phút mỗi giây bị hủy hoại.  Dù người có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể ngăn cản, chống đỡ không cho thời gian hủy diệt cuộc đời.  Chúng ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là một khổ đau mà ta phải gánh chịu!

* Hành khổ:  Về phương diện vật chất, chúng ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối phá hoại làm cho đau khổ cùng cực;  còn về phương diện tinh thần ta vẫn bị sai sử không thể yên ổn tự chủ được.  Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây.  Tư tưởng ta luôn luôn biến chuyển nhảy vọt từ chuyện nầy sang chuyện khác, như ngựa không cương mặc tình giong ruổi, vượn không dây mặc sức nhảy chuyền không bao giờ ngừng nghỉ.  Ngoài ra chúng ta còn bị tiềm thức chi phối sai sử vô cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, lời nói, hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ nầy, ta thích thứ nọ, phần nhiều là do vọng thức sai sử, ra lệnh. Suốt cuộc đời  chưa lúc nào ta được tự do.  Chúng ta bị chi phối bởi những ý tưởng phân biệt, những dục vọng thấp hèn.  Chúng ta luôn luôn vâng theo mệnh lệnh của chúng để rồi tạo vô vàn tội nghiệp bị dẫn đi trong lục đạo luân hồi.  Đó là điều khổ lớn của chúng sanh.


b. Tám khổ: Nếu phân tích tỉ mỉ hơn thì khổ thế gian có thể chia làm tám loại, tám loại nầy tựu trung cũng không ngoài ba khổ kia.  Để thắm thía nỗi khổ của thế gian, chúng ta cần phải biết rõ tám nỗi khổ nầy.

* Sanh khổ:  Gồm có khổ lúc sanh và khổ về đời sống.  Đứa con từ khi mới đầu thai đến lúc chào đời phải chịu nhiều điều khổ sở.  Trải qua chín tháng mười ngày con bị giam hãm trong khoảng tối tăm chật hẹp còn hơn cả lao tù.  Mẹ đói cơm khát nuớc thì con ở trong bào thai lỏng bỏng như bong bóng phập phều.  Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối khó bề cựa quậy.  Đến kỳ sanh sản, thân con chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bề, nên khi thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang khổ a! khổ a! Về đời sống thì đời sống có rất nhiều khổ sở.  Về vật chất con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, nhà ở, thuốc men.  Muốn có những nhu cầu ấy con người phải chịu khổ sở, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, làm lụng vất vả mới có được chén cơm, manh áo, ngôi nhà nhỏ để trú thân.  Người nghèo khổ thì thiếu ăn mặc ở đã khổ rồi, nhưng người giàu muốn có tiền cũng phải thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối mới có ra tiền. Khi có được tiền phải khổ sở giữ gìn, ăn không ngon, ngủ không yên, sợ người cướp mất.  Về phương diện tinh thần đời người cũng có nhiều khổ nhục có khi còn khổ hơn những thiếu thốn về vật chất.  Khi xưa, Thái Tử Sĩ Đạt Ta chứng kiến cảnh hạ điền.  Một lưỡi cày vừa đi qua, những côn trùng đang  quằn quại trên luống cày thì có một con chim nhỏ đến đớp lấy ăn, rồi một con bò cắt đến bắt con chim nhỏ, Ngài tự nghĩ: ‘Cõi đời nầy người ta sống trên sự quằn quại và trên xác thân của kẻ khác!  Thật là bất nhẫn.’  Ngoài ra cõi đời đầy gian trá lọc lừa, vì một miếng ăn mà con giết cha, vợ giết chồng gia đình ly tán. Vì một lời nói vô tình mà gây oán thù không đội chung trời.  Khi sống chung trong xã hội, ta sẽ bị người nầy phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ, do đó, người ở trong cõi đời nếu suy xét kỹ ta phải chịu biết bao điều khổ nhục không thể kể xiết.

* Lão khổ :  Con người càng về già thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ cả thể xác và tinh thần.

– Khổ về thân xác:  Người càng già khí huyết càng hao mòn, bên trong ngũ tạng lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt, bên ngoài các giác quan lần hồi hư hoại như mắt lờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.  Đã vậy mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như trời mới nắng đã sốt, mới lạnh đã rét không có gì là vui thú.

– Khổ về tinh thần:  Người càng già thân thể càng suy kém thì trí huệ cũng lu mờ, do đó sanh lẫn lộn, quên trước mất sau, hành động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn, nói năng giống như người mất trí, ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chưởi bới, nói nhảm nhí, làm trò cười cho lũ trẻ.  Thật đúng là lão khổ.

* Bệnh khổ:  Bệnh hành hạ xác thân con người làm cho khổ sở.  Đã đau, bất luận là đau cái gì từ cái đau lặt vặt như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm kha như phong, lao, ung thư đều làm cho người phải rên xiết khó chịu, khổ sở.  Nhất là những bệnh lâu ngày lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống không được, cầu chết không xong, thật là khổ não.  Khi bị bệnh thì tất cả tiền bạc tài sản đều tiêu hết.  Có người sau một trận đau, chỉ còn 2 bàn tay trắng, nên ngạn ngữ có câu: ‘Không đau làm giàu biết mấy.’  Ngoài ra bệnh tật còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu lo sợ.  Mỗi lần trong nhà có người đau thì cả nhà đều rộn rịp băn khoăn, ngồi đứng không yên, quên ăn mất ngủ,biếng nói biếng cười, bỏ công ăn việc làm thật đúng là bệnh khổ.

* Tử khổ:  Bốn hiện tượng sanh già bệnh chết thì cái chết làm cho chúng sanh kinh hãi nhất.  Con người sợ chết đến nỗi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên sống làm gì, thế mà nghe nói cái chết cũng sợ không dám nghĩ đến.  Những người xấu số bị bệnh nan y như ung thư, bệnh hủi sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước vẫn ham muốn sống.  Cái chết phá hủy thể xác:  có mục kích người bệnh hấp hối bị hành xác ta mới thấy cái chết là đáng sợ.  Người sắp chết, mệt ngộp không ngằn, trợn mắt méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình vặn tay, bẻ chân.  Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũihết thở, miệng hết nói, rờ vào người thân lạnh ngắt như đồng, xác chết cứng đơ như khúc gỗ.  Xác chết dần dần sình lên trông rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, hôi tanh khó chịu vô cùng. Về tinh thần, khi sắp chết tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng, phần xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em con cái từ đây đoạn tuyệt, phải lo cho mình cô quạnh bước sang thế giới mịt mù khôngbiết về đâu.  Nào bị gió nghiệp cắt xương, hồn dật dờ phiêu phưởng thực khổ vô cùng.

* Ái biệt ly khổ:  Trong các tình yêu thương đang mặn nồng thắm thiết mà phải chia ly thì không còn gì đau đớn hơn.  Sự chia ly có hai loại là sanh ly và tử biệt.  a. Sanh ly khổ:  Một gia đình đang sống trong cảnh đầm ấm vui vầy, bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy ra như giặc giả, bão lụt làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi:  Kẻ từ đầu nầy trông đợi, người nơi góc kia nhớ chờ.  Thật đau lòng xót dạ.  Người đời thường nói: ‘Thà lìa tử chứ ai lìa sanh.


b. Tử biệt khổ:  mặc dù cách xa người sống còn có ngày gặp gỡ chứ người đã chết rồi là thiên thu vĩnh biệt, không bao giờ được sum vầy. Vì vậy, đứng trước cái chết là một sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chẳng  khổ đau.  Do đó, lâm phải cảnh tử biệt nầy, có người rầu rĩ đến quên ăn bỏ ngủ, có người đau đớn tuyệt vọng toan chết theo người quá vãng.  Đó là cái khổ nhất của sanh ly tử biệt.

* Khổ cầu không được :  Người đời hễ hy vọng càng nhiều thì  thất vọng càng lớn.  Bất luận trong vấn đề gì !  Số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại, bất như ý thì không sao kể xiết.  Người ta khi làm một cái gì muốn có kết quả tốt đẹp phải vận dụng biết bao là năng lực, hao tâm, tổn trí, mất ăn bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến.  Những điều mà người đời thường bị thất vọng phần nhiều là thất vọng vì công danh, thất vọng vì phú quý, thất vọng vì tình duyên, mà công danh ở đời như áng phù vân mới hợp rồi tan, phú quý bóng chớp chỉ cần một trận hỏa hoạn, một trận cuồng phong, một trận bão lụt là tài sản sự nghiệp tạo dựng trăm năm trở thành mây khói.  Tình duyên cũng làm người ta điêu đứng khổ sở, trong tình trường mấy ai được toại nguyện.  Tất cả đều là bọt nước ngoài khơi, vì thế, tham cầu không được là một điềukhổ lớn.

* Khổ oán ghét thường gặp gỡ :  Con người ở trong cảnh thương yêu chẳng ai muốn chia lìa, cũng như trong cảnh hờn ghét chẳng ai muốn gặp gỡ.  Nhưng oái oăm thay!  Ở đời khi mong được hội ngộ lại phải chia lìa, trái lại khi mong ước được chia lìa, lại sống chung đụng nhau  hằng ngày.  Cái khổ thương yêu mà chia lìa nhau như  thế nào thì cái khổ oán ghét mà gặp gỡ nhau cũng khổ như thế ấy.  Người ta thường nói: ‘Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt, ở chung người nghịch như nếm mật nằm gai.’ Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, vợ chồng, anh em, khi có lý do gì bất hòa cũng đủ khó chịu rồi.  Muốn lánh mặt mà khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng.  Muốn tuyệt giao  hẳn ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dù cố sức tránh cũng không thoát được thật là khổ.  Đó là bà con, nếu người dưng đã bất hòa mà còn gặp gỡ thì oán hận đau khổ càng nhiều, thế nào cũng lâm đại họa.

* Khổ năm ấm hẩy hừng:  Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.  Sắc là thân tứ đại thuộc về vật chất, còn bốn ấm kia thuộc về tinh thần.  Với thân ngũ sắc ấm nầy con người chịu nhiều điều khổ, vì sự xung đột mâu thuẫn của chúng, nên thân người mới chịu những điều khổ như sau:  vì mâu thuẫn lúc cái nầy thạnh cái kia suy nên luật vô thường chi phối không ngừng làm cho con người phải trải qua sanh, già, bệnh, chết, khổ não vô cùng.  Vì mâu thuẫn mà bị thất tình lục dục lôi cuốn làm con người đắm nhiễm sáu trần, khổ lụy thân tâm.  Vì mâu thuẫn mà bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên nhận định sai lầm chịu trầm luân sanh tử.

Tóm lại:  Đây là những cái khổ ép bức thân tâm mà không ai tránh khỏi ở thế gian.


2. Ta Bà là nhà lửa thiêu đốt:  Kinh Pháp Hoa, Phật có thí dụ: Trong quốc ấp tụ lạc có vị đại trưởng giả tuổi đã già suy giàu có vô lượng, nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, con ông ở rất nhiều trong đó, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc lửa bỗng nổi lên, đốt cháy nhà cửa.  Các con ngu dại, tự thân ở trong chỗ hiểm nguy, họa diệt vong ập đến mà vẫn mê say vui đùa không hay, không biết.  Ông trưởng giả vì cứu con mà phải tự mình vào nhà lửa, đôi ba phen dốc hết tâm tư, tìm phương dụ dẫn để đem các con ra khỏi nạn chết.  Trước nói thật trạng nguy hiểm mà các con không hiểu, không nghe theo, sau cực chẳng đã phải quyền nói cho ba thứ xe để ngoài cửa.  Trước hứa ba xe, sau đồng ban cho một thứ xe trâu báu cao rộng đẹp nhất trong đời.  Cảnh nhà cháy đức Phật chỉ rõ vòng sanh tử khốn khổ trong cõi Ta Bà này, chúng sanh vì mê lầm tham chấp mà không biết thế nào là khổ, đức Thế Tôn đã dốc hết tâm tư chỉ rõ nẻo khổ mà chúng sanh vẫn không có ý xuất ly đành phải chỉ rõ chỗ vui để chúng sanh ham ra khỏi chỗ nguy hiểm, khi ra khỏi rồi Ngài sẽ ban cho một Phật thừa.
Qua tỷ dụ nhà lửa, cho chúng ta thấy cõi nầy là cõi khổ cần phải xa lìa.

3. Ta Bà là đời trược:  Chữ Ta Bà dịch là kham nhẫn, cũng dịch là nhẫn giới, nhẫn khổ (chịu đựng những điều khổ não). Tức là cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới của Phật Thích Ca Thế Tôn làm Giáo chủ.  Trong thế giới Ta Bà do năm việc uế trược nó khuấy trộn lẫn nhau làm nhơ đục chơn tánh của chúng sanh.  Đời nào không có năm món trược gọi là đời Tịnh Thiện.  Năm trược là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược.

a. Kiến trược:  Chúng sanh ở cõi Ta Bà lấy năm món lợi sử là: Thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ, kiến thủ, tàkiến làm thể.  Chia ra thành sáu mươi hai món phiền não nó trói buộc và dẫn chúng sanh đi vào sanh tử, nhưng tánh cách nó rất nhậm lẹ làm hại chẳng phải nhỏ.  Những thứ tà kiến này cũng như rừng rậm, quấn buộc quanh co, người đời không thể ra khỏi.  Nó luôn luôn quấy rối chơn tánh nên gọi là trược.

b. Phiền não trược:  Phiền não là những thứ nóng bứcrộn ràng, ép ngặt tâm thần, làm tâm không bao giờ được yên, nó khuấy động chân tánh làm cho không thể xán lạn.  Phiền não nầy lấy năm thứ độn sử: tham, sân, si, mạn, nghi làm thể, nó trói buộc chúng sanh và cùng đi vào vòng sanh tử.  So sánh với năm sử trước thì nó nặng nề chậm chạp hơn, nhưng là phiền não căn bản vì nó theo chúng sanh thọ sanh nên gọi là câu sanh nghiệp. Tất cả tội nghiệp của chúng sanh đều do phiền não này sai khiến quyết định nên gọi là trược.
c. Chúng sanh trược:  Chúng sanh là chỉ cho chơn tánh bị vô minh vọng khởi, nhận thân ngũ ấm thọ thai trong mỗi trường hợp, theo ba nẻo sáu đường luân hồi không bao giờ ra khỏi.  Vì chấp  ngã, chấp ái, chạy theo vọng thức, chịu quả báo vô cùng.  Đây là danh từ chỉ cho những chúng sanh nhơ bẩn, luân hồi trong sáu đường.  So sánh với Phật tánh tịnh, chúng sanh là thể tánh trược, nên gọi là chúng sanh trược.

d. Mạng trược:  Lấy sắc thân và vọng tưởng tâm nối giữa làm thể.  Mạng sống nầy y theo nghiệp lực dẫn hột giống của thức thứ tám.  Do hơi thở, chất ấm và thần thức gìn giữ nhau như hồ keo không cho tan rả gọi là mạng căn.  Nếu trong ba cái trên rời rả không gìn giữ được nhau thì mạng căn liền đoạn. Trong kiếp sống hiện nay mạng căn con người sống không đến trăm năm, so với dòng thời gian thì mạng căn nầy như bọt bóng, như đèn trước gió, trong giây lát liền tắt, rất là ngắn ngủi nên gọi là trược.

e. Kiếp trược:  Kiếp là chữ Phạn đọc đủ là Kina dịch là thời phần.  Vì trong thời phần sống của chúng sanh bị các điều trược cấu kể trên khuấy cặn cáu lẫn lộn với nhau làm thật tướng của nó.  Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp là thành trụ hoại không, mỗi trung kiếp đều có hai mươi tiểu kiếp  xây vòng tăng giảm.  Thuở loài người tuổi sống tăng lên đến 84,000 tuổi là số tăng đã tột, từ đó cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, cứ giảm như vậy đến khi con người còn sống 20,000 năm là thời kỳ kiếp trược hoành hành.  Chúng ta ngày nay mạng sống chỉ còn dưới một trăm tuổi rõ ràng là kiếp trược sau chót rồi.

Qua ba điểm kể trên ta thấy cõi Ta Bà nầy quả là một cõi khổ, một nhà lửa hừng hực, một kiếp đời nhơ đục.  Đứng trước nỗi đau khổ đó, nếu chúng ta để tâm suy nghĩ một chút thì không còn lòng dạ nào lưu luyến, nếu chúng ta không muốn bị cháy thêm, hoặc chôn vùi trong kiếp trược sanh tử.  Hiểu rõ được thực trạng của cõi Ta Bà từ đó ta sanh tâm nhàm chán muốn xa lìa, đó là một hạnh lớn của người tu Tịnh Độ.


III.  Hân mộ hạnh:

Chúng ta đã nhàm chán cõi Ta Bà khổ, ác trược quyết xa lìa, mà không có một chỗ nơi an toàn không  khổ, thoát khỏi nhà lửa, có cuộc sống thanh tịnh thì chúng ta còn biết phải đi về đâu?  Vì lòng đại bi, thương chúng sanh bơ vơ không bến đỗ, nên Đức Từ Phụ A Di Đà đã từ vô lượng kiếp xây dựng cõi Cực Lạc trang nghiêm để tiếp dẫn chúng sanh về cõi ấy. Muốn biết được nơi trở về an toàn thế nào, chúng ta cần phải hiểu rõ thắng nghĩa của cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

1. Cực Lạc là cõi vui:  Trong kinh A Di Đà, Phật dạy: ‘ Này Xá Lợi Phất, từ đây hướng về phương Tây, trải qua mười muôn ức cõi Phật có một thế giới tên là Cực Lạc.  Cõi kia có Phật hiệu A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp.  Nầy Xá Lợi Phất, vì sao nước kia gọi là Cực Lạc?  Bởi chúng sanh nước kia chỉ hưởng những điều vui, không có các điều khổ nên gọi là Cực Lạc.’

a. Cõi Cực Lạc ở ngoài nhà lửa:  Trong An Lạc Tập có người hỏi:  Cõi Tịnh Độ An Lạc có nhiếp thuộc vào tam giới không?  Đại sư Đạo Xước dạy:  Bản chất cõi Tịnh Độ an lạc vô cùng thắng diệu, phát xuất từ hạnh xuất thế gian mà ra.  Ba cõi nầy là nhà tối của hàng sanh  tử phàm phu, tuy có người vui khổ nhiều ít khác nhau, do phước dày mỏng không đồng.  Nhưng xét tổng quát tất cả đều là bến bờ của hữu lậu.  Đau khổ tiếp theo, tuần hoàn không dứt, tạp sanh xúc thọ, bốn đảo quay vòng, nhân xấu quả khổ, tập khí sâu dầy không bao giờ nhàm chán.  Vì thế, Tịnh Độ hoàn toàn ra ngoài ba cõi ác trược nầy.  Trong Trí Độ Luận đã xác định : ‘Quả báo Tịnh Độ toàn tịnh nên không có dục giới, nhân dân chư thiên đồng ở dưới đất nên không phải là sắc giới. Người sanh về cõi ấy Liên hoa hóa sanh có hình sắc nên không phải là vô sắc giới. Tuy nói là ở dưới đất nhưng là cõi đất thù thắng tuyệt vời.’  Trong Vãng Sanh Luận, Tổ Thiên Thân nói: ‘Quán tướng thế giới kia, vượt qua cả ba giới, rốt ráo như hư không, rộng lớn không bờ mé.’  Trong Đại Kinh cũng nói: ‘Diệu độ kia rộng lớn vượt qua tất cả hạn lượng, bảy báu tự nhiên hợp lại mà thành, do bổn nguyện lực của đức Phật mà thành, tiếp độ tất cả chúng sanh trong mười phương, ánh sáng thù diệu cao tuyệt, toàn  vui không có chút khổ, không có tứ thời khí hậu thay đổi, tự lợi mình và lợi người lần đến viên mãn Phật quả, vượt khỏi ba cõi.’

Qua dẫn chứng trên cho chúng ta thấy, người về được cõi ấy là ra ngoài ba cõi; vì ở đó không có ba ác đạo, ở trong chánh định tụ, chứng vào vị bất thối, tiến  thẳng đến quả Phật nên không có cái khổ trong nhà lửa.

b. Không có ngũ trược:  Ở cõi Cực Lạc vốn nguồn gốc thế gian thanh tịnh, ở cõi nước Cực Lạc mọi người đều có chánh định tụ và đủ sức chánh kiến, hằng ngày Phật thuyết pháp, Bồ tát là bạn, chim, nước, cây, rừng, đều xiển dương diệu pháp không có tà kiến nên không mắc phải cái kiến trược như chúng sanh ở cõi nầy.

Ở cõi Cực Lạc mỗi người đều có trí huệ trong sạch lại thêm thắng cảnh thắng duyên làm cho vọng thức không có cơ hội nảy mầm, các phiền não tự nhiên tiêu diệt, năm món độn sử không có cơ hội phát khởi, như tham vàng ngọc thì cõi ấy trân bửu lan  tràn, như sân thì bạn là Bồ Tát, không có duyên khởi, si thì có ánh sáng Phật chiếu rọi, ngã đã không thì  mạn cũng không và có Pháp vương bên cạnh nên không còn nghi hối.  Vì thế, cõi Cực Lạc không có phiền não trược.

Ở cõi Cực lạc, người sanh từ hoa sen, không do năm ấm hòa hợp, tâm luôn luôn ở trong chánh định tụ, nên vọng thức không thể sanh, và người ở trong cõi ấy đều là bậc thượng thiện đồng họp về một xứ nên không có tên chúng sanh mang danh ác trược như cõi này.

Ở cõi Cực Lạc, nhân dân thọ mạng đồng với Phật Vô Lượng Thọ, vì vậy không có mạng căn ô trược như cõi nầy.  Đồng thời ở cõi Cực lạc Phật A Di Đà hiện tại thuyết pháp, vì thời gian toàn thanh tịnh nên không có kiếp trược.  Cõi Cực Lạc không có năm trược, vì sao chúng ta đành ở trong đời trược nầy mà không cầu sanh về nước kia có đủ năm thứ thanh tịnh.


2. Nhân dân ở Cực lạc chưa bao giờ có một giọt nước mắt:  Vì ở cõi ấy nhân dân chư Thiên không có ba khổ và tám khổ.

a)Về ba khổ:  Ở cõi Cực lạc thân từ liên hoa hóa sanh, được kim cang bất hoại thân, tuổi thọ vô lượng, ở cõi ấy ăn mặc tự  nhiên, tưởng liền có đem đến không phải cực khổ về thân.  Cõi đất là trân báu, hương hoa và ánh sáng, hoàn cảnh là pháp bảo thanh tịnh nên không có khổ khổ.  Ở Cực Lạc, vạn vật vũ trụ đều chơn thường, không bị chi phối theo luật thành trụ hoại không miên viễn không hoại diệt nên không có khổ về hoại khổ.  Ở Cực lạc về vật chất không bị ngoại cảnh và thời gian chi phối, về phương diện tinh thần luôn luôn ở trong chánh định tụ, vì thế, tàng thức không thâu nhận chủng tử ác mà còn đào thải chủng tử ác, như lúa tốt thì cỏ tiêu, cần chuyển từ tạng thức thành Bạch Tịnh Thức hay Như Lai Tàng, vì không bị tiềm thức sai sử hoàn toàn thanh tịnh, nên không có hành khổ.

b)Về tám khổ:  Ở cõi Cực Lạc liên hoa hóa sanh, ăn mặc tự nhiên nên không có sanh khổ, tuổi thọ vô lượng, không có nóng lạnh thay mùa, thân kim cương cứng chắc không thay đổi nên không có già, bệnh, chết khổ.  Được ngũ thần thông, tất cả  nhu cầu đều được toại nguyện, muốn gì có nấy tự nhiên, bạn là Bồ Tát sống chung với các bậc thượng thiện, thân tâm đều thanh tịnh nên không có ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ.

Tóm lại, cõi Cực Lạc toàn vui không có một chút khổ, thoát ngoài tam giới, không có ác trược là nơi an lạc để tiến tới thành Phật độ sanh.  Đây là nơi mà tất cả chúng sanh cõi Ta Bà đều mong ước, tại sao chúng ta không cố gắng nguyện về.

IV.- làm cho lòng tin sâu và nguyện chắc hơn :

Pháp môn niệm Phật chư Tổ thường nói là ngàn người tu ngàn người được vãng sanh, muôn người tu muôn người được vãng sanh, thế mà đời nay, có người niệm Phật mà ít người được vãng sanh. Vì sao, vì họ không hiểu rõ cuộc sống mà họ đang sống có gì vui, có gì đáng nhàm chán, như người ở trong tù họ thấy những ngày ở trong tù là bị đày ải khổ sở, nhục nhã đáng chán, thì họ không còn lòng dạ nào còn lưu luyến nhà tù nữa. Đồng thời họ nhớ ngày vui vẻ khi còn tự do đi lại, sum họp với gia đình, thì lòng quyết thoát khỏi nhà tù càng kiên cố hơn. Nếu họ có một cách để thoát ly nhà tù dù có khổ cực đến đâu họ cũng cố gắng làm. Cũng thế, người tu hạnh hân yểm để làm cho lòng tin sâu chắc, ý nguyện vững bền và việc thực hành mau đến kết quả hơn.

Tóm lại người thấu triệt  hạnh hân yểm là người có các điều kiện sau đây :

1. Đủ khả năng phóng hạ các duyên :

Tất cả chúng ta ai cũng đều có lúc giác ngộ, nhưng vì vô minh nhiều đời trùm kín làm cho ánh sáng giác ngộ trở thành yếu ớt, và không thể bỏ trần để trở về giác được. Chúng ta có người thân trong gia đình vừa mất, ai cũng nghĩ cõi đời nầy thật vô thường và vô nghĩa, người thân của ta mới hôm nào còn sống rất mạnh khỏe mà chỉ bị một luồng gió độc là hóa ra người thiên cổ, sự nghiệp tài sản gây dựng suốt đời có đem được gì đâu? Chỉ có đem theo hai bàn tay trắng và cái nghiệp theo mình. Chúng ta cảm thấy cõi đời sanh tử vô thường và cuộc sống ganh đua thực vô nghĩa, chúng ta muốn bỏ hết để không còn tạo nghiệp nữa nhưng chỉ vài ngày là sự tĩnh thức bị lãng quên để vào vòng sanh tử luân hồi như cũ. Chỉ vì chúng ta không thấy được chơn lý về cuộc đời là khổ, là trược, là nhà đang cháy, họa hậu sẽ  đến với thân ngay và biết chắc cõi tịnh độ là an lạc, là Niết bàn thì dù có bị trói buộc chúng ta cũng hết sức tìm phương thoát ly nơi khổ để đến cõi vui. Vì thế, Cổ Đức nói : ‘Người tu hạnh hân yểm rồi thì dù có một trăm con trâu kéo ở lại Ta Bà họ quyết không ở lại’. Do đó, người đã biết được hân yểm rồi chắc chắn có khả năng buông bỏ hết các duyên để thực hành niệm Phật đến nhất tâm như người biết mình đang ở trong nhà cháy, họa chết cháy đến gần, thì dù có vàng ngọc cũng quyết buông bỏ để tìm cách thoát thân.


2. Động cơ chính của Vãng Sanh :

Có người hỏi Tổ Ngẫu Ích : Người tu thiền được Tam muội chánh định khi lâm chung có được vãng sanh không ? Tổ đáp : Không.  Vì người tu thiền không có đủ lòng tin và nguyện nên không được vãng sanh về Cực Lạc. Mà muốn có tin sâu, nguyện chắc thì hành giả phải tu hạnh hân yểm nầy. Vì thế, người tỵ nạn ly hương dám bỏ cả tài sản, không kể hiểm nguy vượt biển ra đi, vì họ quá nhàm chán chánh sách áp bức bất công của chế độ, nên họ cố tìm cuộc sống tự do mà họ tin là một nơi đáng sống nên họ quyết ra đi. Lại nữa, khi con người sắp lâm chung báo thân trước không còn trói buộc, được tự do là thần thức sẽ đến những chỗ nào mà họ muốn do đó tu hạnh hân yểm lâm chung chắc Phật tiếp dẫn vãng sanh, như cây nghiêng về phía nào, khi trốc gốc sẽ ngã về phía đó. Đấy là lẽ thực còn lo ngại gì.

Trong Kinh Vô Lượng Thọ, đại nguyện thứ ba mươi lăm Phật A Di Đà có nguyện : lúc tôi thành Phật, ở trong các thế giới Phật vô lượng bất khả tư nghì trong mười phương, nếu có người nữ nào nghe danh tự của tôi, hoan hỷ tin ưa, phát tâm Bồ Đề, nhàm chán thân nữ trược ác xấu xa, muốn sanh về nước tôi, nếu sau khi thọ chung còn làm thân người nữ nữa thì tôi không ở ngôi chánh giác.’ Trong đại nguyện kể trên cho chúng ta thấy nếu ai tu hạnh nhàm chán cõi Ta bà muốn thoát ly, quyết cầu sanh về Tịnh độ thì chắc được toại nguyện. Hân yểm hạnh là hạnh tương ưng với đại nguyện phù hợp với kinh giáo do Đức Bổn Sư nói ra. Chúng ta còn ngại nghi gì nữa mà không quyết tâm thực hành.

Câu hỏi Hạnh Hân Yểm

1. Cõi Ta Bà có gì khổ mà ta nhàm chán. Trong tất cả khổ mà ta đã biết, cái khổ nào được gọi là khổ nhất?

2. Cõi Cực lạc có gì vui mà ta ưa thịch. Trong tất cả điều vui, cái nào là vui nhất?

3. Duy tâm là Tịnh Độ, cầu sanh về Cực Lạc làm gì?

4. Hàng phàm phu tuy Niệm Phật mà tham sân si chưa hết, Tâm thật chẳng Tịnh làm sao được vãng sanh?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Người xưa thường nói: “Trồng Dưa được Dưa, trồng Đậu được Đậu” đó được coi như là một lẽ tất nhiên. Nhưng thực ra, quá trình từ trồng Dưa đến được Dưa, phải trải qua biết bao giai đoạn, biết bao trợ duyên; nếu không có những trợ duyên tốt, dù chúng ta có những hạt giống tốt, chưa chắc gì chúng ta có được kết quả như ý muốn. Một hạt giống muốn được nẩy mầm xinh tươi cần phải có biết bao nhiêu thứ trợ duyên khác như đất, nước, thời gian, không gian, thời tiết, độ ấm, phân bón, ánh sáng và bàn tay chăm sóc…


Ngược lại, không có những trợ duyên hỗ trợ, không những làm hạt giống không thể sanh sôi nẩy nở mà còn làm cho hạt giống lần bị tiêu diệt. Như thế, muốn một hạt giống, một cây trồng được đơm hoa kết trái, ngoài chánh nhơn ra, các trợ duyên cũng là những thành tố chính yếu. Cũng thế, người tu tịnh nghiệp đã có chánh nhơn niệm Phật là huệ công đức, nhưng vẩn phải cần những trợ duyên phước đức mới dễ dàng đạt đến thành công quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Trong kinh dạy: “Phước đức và Huệ đức gồm đủ mới có thể làm Phật (Phước Huệ lưỡng toàn phương tắc Phật.). Do đó, ngoài chánh nhơn niệm Phật ra, chúng ta cần phải tu thêm phước nữa thì tịnh nghiệp mới trọn vẹn, dễ dàng sanh về cõi Cực Lạc.

Trong kinh A Di Đà Phật dạy: “Người ít thiện căn, ít phước đức, ít duyên phần đâu có thể sanh về cõi Cực Lạc được!”. Như thế, người muốn sanh về cõi Cực Lạc, ngoài việc niệm Phật đến nhất tâm bất loạn còn phải có đủ phước đức, duyên phần và căn lành mới phù hợp. Phước đức, duyên phần, căn lành tuy nói là ba mà chỉ cần có một là đủ, vì muốn có duyên phần phải có phước đức, muốn có phước đức phải có căn lành, nên trong Quán Kinh dạy tu ba căn lành còn gọi là ba phước. Thế nào là ba phước? Ba phước là phước thực hành thiện căn thế gian, phước thực hành thiện căn trì giới và phước thực hành xuất thế gian. Người tu ba thiện căn cũng gọi là tu tịnh nghiệp.

Trong phạm vi bài này, chúng ta khảo sát về thế gian thiện căn. Sỡ dĩ nói thế gian thiện căn là căn lành này được thực hiện theo tục đế. Hầu hết những phước đức này là phương pháp tu sửa của chúng sanh trong xã hội mà mục đích là giúp đời giữ đạo, rồi sau đó, đem chung công đức đã làm hồi hướng vãng sanh Cực Lạc, khi làm chung giữ được mười niệm cũng được vãng sanh. Người tu thế phước, ở trong gia đình phải hiếu dưỡng cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, ra ngoài xã hội phải có lòng nhân ái với tất cả mọi người, làm việc bố thí, đắp cầu bồi lộ, tạo tự, độ tăng. Đối với súc vật giữ lòng lành không giết hại, tu tâm sửa tánh làm mười việc lành. Đó là phương pháp tạo hạnh phúc cho gia đình, bản thân, xã hội. Khi cuộc sống được hạnh phúc làm nền tảng thì công việc tu hành dễ tiến và mau thành tựu. Để hiểu rõ thiện căn này chúng ta cần phải khảo sát từng điểm một.

I. NHẬN ĐỊNH:

Thế là đời, gian là trong. Thế gian là chỉ cho xã hội mà ta đang sống. Thiện là lành, căn là cội gốc. Thiện căn là cội gốc của việc lành. Thế gian thiện căn là cội gốc việc lành của con người sống trong xã hội. Nói một cách khác là chúng ta thực hiện trọn bổn phận của con người ở trong xã hội mà nhà Phật gọi là trọn đạo nhân luân. Rồi từ đó phát tâm niệm Phật đồng thời đem công đức này hồi hướng vãng sanh Cực Lạc cũng được vãng sanh. Căn lành này là cội gốc của các căn lành khác và cũng là bước đầu vững chắc để bước vào Phật đạo, nên Tổ Huệ Năng cũng dạy: Phật Pháp chẳng lìa thế gian mà Giác Ngộ. Người tu xuất thế gian mà không tu thiện căn thế gian tiến lên là người bỏ gốc theo ngọn dễ bị thối thất tâm Bồ Đề.


II. NHỮNG THIỆN CĂN CHÍNH YẾU:

Thiện căn thế gian rất nhiều nhưng tóm lại có 4 điểm chính:

1. Hiếu dưỡng phụ mẫu:

Tục ngữ ta có câu: “Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ”. Công sanh thành dưỡng dục như trời cao bể cả, bổn phận làm con phải hết dạ báo đền. Nếu niệm Phật là điều cốt yếu của người tu Tịnh Độ thì hiếu thảo là điều trước tiên của trăm hạnh lành. Vì thế trong kinh dạy: Lòng hiếu là lòng Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật, muốn được đạo đồng chư Phật trước phải hiếu dưỡng mẹ cha.

Thành Thiền sư dạy: “Chữ hiếu là cửa ngõ của đạo nhiệm mầu, nên lời Phật lấy hiếu làm Tông, việc Phật lấy hiếu làm gốc, vì người hiếu thảo là người có lòng tri ân đấng sanh thành dưỡng dục, đã có lòng tri ân tất nhiên Phật ân, đàn việt ân cũng phải báo đáp, để làm tròn xứ mạng của người tu đạo Phật.

Hiếu có hai hạng: hiếu của người tại gia và hiếu của người xuất gia.

a. Hiếu của người tại gia là phụng dưỡng cha mẹ trọn đời. Cha mẹ có yêu thương vui mà không quên bổn phận, cha mẹ có ghét dù cực nhọc cũng chẳng dám giận hờn. Cung phụng đầy đủ vật chất, tinh thần luôn luôn vui vẻ nuôi dưỡng suốt đời. Khi cha mẹ mất tang lễ vẹn toàn, cầu siêu độ bố thí để vong hồn cha mẹ được siêu thăn, giữ theo chí cha mẹ làm lành không dám sái phạm.

b. Hiếu của người xuất gia là lo hiếu dưỡng về phần tinh thần. Dù không có gần gũi mẹ cha, quạt nồng ấp lạnh, nhưng luôn luôn làm cho cha mẹ tinh thần thoải mái, khỏi vòng nghiệp lực, khi lâm chung được giải thoát linh hồn. Người xuất gia vì chữ hiếu mà trước tự tu để được giác ngộ, sau đó, độ vong linh cha mẹ về cõi tịnh an vui, nên các Ngài dứt hết tình ái, không nhận miếng ngon, hiểu rõ pháp yếu vô vi, nhưng cũng không quên đồng tu muôn hạnh. Đức Như Lai nửa đêm vượt thành, đắc đạo nơi núi Tuyết, sau đó lên cung trời Đao Lợi vì mẹ hết lòng thuyết pháp. Tổ Huệ Năng để tiền cung cấp mẹ rồi sau đó mới đến thọ pháp ở Ngũ Tổ Huỳnh Mai. Tổ Hoằng Nhẫn có cất nhà dưỡng mẫu và phụng dưỡng hết lòng. Trần Lục Châu Thiền sư dệt vải để nuôi dưỡng song thân. Lãng Pháp sư đi tham vấn tha phương trên vai luôn luông cõng mẹ. Nên biết, người xuất gia lấy pháp vị làm vui, vẫn còn nhớ ơn mẹ cha nghĩa nặng, dù lìa tướng mà vẫn không quên lễ nghĩa ở đời. Báo đáp ơn cha mẹ một đời là độ tất cả cha mẹ nhiều kiếp. Độ cha mẹ một đời là độ tất cả cha mẹ cho tất cả chúng sanh, cái hiếu của người xuất gia thật vô cùng to lớn. Như hoặc nhân duyên chưa đủ, cha mẹ chẳng chịu nghe, nên làm hết chữ hiếu của người tại gia, trước phải trả ơn mang nặng đẻ đau, vì tục tức là chơn, trái đạo làm người là sai vì chơn không lìa tục, không lìa chơn tục đó là chỗ tu hành của tại gia Bồ Tát. Nếu chỉ biết thờ Phật mà không thờ cha mẹ thì không phải là đệ tử của đấng giác ngộ.

2. Tôn thờ sư trưởng:

Sanh thân ta là cha mẹ, làm cho ta nên người là sư trưởng. Thực vậy, sư trưởng là người mở mang trí tuệ cho ta, tạo cho ta có một nghề nghiệp vững chắc, có một địa vị trong xã hội làm hiển tổ vinh tông. Đối với người tu, sư trưởng là một hướng đạo sư dẫn ra khỏi đường tối, là ngọn đuốc tuệ chiếu sáng làm tan biến đêm tối vô minh, là thuyền bè vớt chúng sanh ra khỏi bể khổ, là đôi mắt của người trời. vì thế, ơn sư trưởng đối với người tu đồng ơn cha mẹ, đức nặng tợ càn không. Do đó, người xưa, bỏ thân mạng mình để cầu nửa bài kệ, chặt một cánh tay (Huệ Khả) để được hỏi Chơn thừa, đem thân làm tòa ngồi để thờ thầy, đạp chày vát đá (Huệ Năng) mà tiếp truyền Tổ vị. Sư trưởng đối với người tu là bậc khai tâm điểm đạo, mở con mắt huệ muôn đời, lấy tâm in tâm, đèn linh minh lưu ở hậu thế.

Dù vậy, người tu cần có chánh kiến, tha phương học đạo, đừng nhận tà tông. Vì thầy mù mà dẫn trò mù kết quả đều rơi vào hầm hố, nên bạn lành thường nương cậy, gặp thầy tà phải lánh xa, cần phải hiểu nhân tạo thành tội phước, thấu lợi hại của chánh tà. Chánh thời thành Phật, tà thời thành ma, theo thầy mà chọn lầm nhà, luống uổng một đời lơ láo. Huống chi trong đời mạt pháp có nhiều duyên tà, muốn được thành công cần phải cẩn thận.

Trường hợp không gặp được minh sư hướng dẫn, ta hãy lấy giới luật làm thầy, y kinh giáo tu hành cũng có thể thành tựu. Nếu may mắn gặp được minh sư phải hết lòng thân cận.

Muốn đền đáp ơn của sư trưởng, trong lúc thầy còn sanh tiền phải hết lòng cúng dường phụng dưỡng như cha mẹ, hầu hạ sớm hôm, nhận rõ tâm tông để trên đền đáp ơn nặng, dưới cứu độ chúng sanh. Khi thầy mất phải hết lòng nối đèn tiếp lửa, làm rạng rỡ tông môn mới gọi là hiếu đồ trọn vẹn.


3. Lòng từ bi không giết hại:

Thế nào là lòng Từ Bi? Từ là đem niềm vui cho chúng sanh, bi là thường cứu chúng sanh thoát cõi khổ. Người tu không giết hại chúng sanh vì muốn ban vui và cứu khổ chứ không vì một mục đích nào khác.

Ở đời, trong các ác nghiệp sát sinh là ác nghiệp thứ nhất. Trong khắp thế gian chưa có người nào không tạo ác nghiệp sát sanh. Dù có người nói tôi chưa nhúng tay vào việc sát sanh, nhưng hằng ngày ăn thịt, tức hằng ngày sát sanh, nếu không có sát sanh làm gì có thịt. Những người hàng heo, hàng bò, lưới cá, săn thịt, vì cung cấp thịt cho mọi người nên tìm giết sinh vật. Việc ăn ngon là nguyên nhân gây ra sự thăng trầm trong thiên hạ. Nếu chúng ta thương mình, yêu nhân dân, muốn được sống an lạc, thoát mọi thứ tai họa, chỉ có cách đừng tham miếng ăn ngon, đừng tham vật sở hữu của người khác, đừng giết hại sinh vật là phương pháp tiêu diệt tai họa hữu hiệu nhất.

Nên biết, các loài vật đều có linh tánh hiểu biết như chúng ta, chỉ vì nghiệp đời trước nặng nề làm cho thân thể khác lạ, miệng không thể nói ra, nhưng chúng ta thấy nó vẫn tham ăn, sợ chết, thương con so với chúng ta không khác gì. Chúng ta nhờ phúc đức đời trước sanh ra đặng làm người, có trí tuệ khôn ngoan hơn, nhưng vẫn tham sống sợ chết như chúng. Chúng ta ỷ vào sự không ngoan của trí tuệ, lấy thịt chúng để ăn cho no bụng, ngon miệng. Đến khi phúc hết, sát nghiệp hiện ra muốn cải hối cũng không còn kịp nữa. Huống chi trong thịt có nhiều chất độc và truyền nhiễm, làm cho người ăn thịt bị đoản mạng, tâm thần mê muội, cơ thể mỏi mệt là mối họa lớn để đi đến bệnh hoạn. Còn người không ăn thịt, hơi thanh trí sáng, mạnh khỏe lâu già, sức khỏe dồi dào là phương pháp vệ sinh hay nhất. Đó là những điều mà các bác sĩ y khoa Đông Tây đều công nhận. Như thế, ăn thịt không phải là những thực phẩm cho những động vật có răng bằng, mà chỉ thích hợp cho những động vật có răng nhọn. Do đó, ăn thịt chỉ là những tập quán sai lầm đi dần đến chỗ tai hại cho cơ thể và tâm hồn. Nếu chúng ta bỏ được tập quán ấy, bỏ trược theo thanh, chắc chắn ta sẽ có một cơ thể tráng kiến trong một tinh thần minh mẫn.

Đối với người tu theo đạo Phật, trọng tâm của sự không giết hại là lòng từ bi, ban vui cứu khổ cho tất cả muôn loài. Do đó, ta không nhẫn tâm thấy gà trong nồi, cá trên thớt mà chẳng động lòng! Lại nữa, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay luân hồi trong sáu nẻo, cha mẹ, anh em, vợ chồng, quyến thuộc thường sanh tử xuống lên lộn xộn, oan gia gặp nhau trả vay, vay trả, nếu ta sát sinh biết đâu là ta đang giết lục thân quyến thuộc của chính mình. Trong kinh dạy: “Đại thừa Bồ tát vì lòng đại bi sanh vào các loài”. Chúng ta sát sinh biết đâu chúng ta sát hại Bồ tát tội nặng vô cùng.

Vì thế, người niệm Phật nên ăn chay trường, nếu không quen nên ăn mỗi tháng 6 ngày, 10 ngày lần đến trường trai trọn vẹn. Lúc còn ăn mặn, nên ăn loại tam tịnh nhục là loài thịt không tự mình giết, không bảo người giết, không thấy giết mà vui theo. Tuyệt đói không được sát sinh trong nhà. Nếu mỗi ngày trong nhà mỗi sát sinh, nhà trở nên sát trường, làm nơi tụ hội của các oan hồn ma quỷ. Nhà không còn là nơi kiết tường nữa.

Người tu Tịnh Độ không giết vật lớn như trâu, bò, gà, vịt mà cũng tuyệt đối không giết vật nhỏ như trùng, kiến, ruồi, muỗi, kể cả những loài bò bay mái cựa cũng rũ lòng từ bi thương xót. Hột giống từ bi càng được vun quét thì đạo Bồ Đề mới sớm viên thành.


4.Tu thập thiện nghiệp:

Chỗ huyền yếu của Đại thừa gốc ở nhất tâm, chánh nhơn của tịnh nghiệp trước phải Tu Thập Thiện. Thập Thiện là cội gốc của tất cả pháp lành thế gian và xuất thế gian. Người muốn vượt khỏi ba cõi để chứng tam thừa không thể bỏ qua môn Tu Thập Thiện. Người muốn chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề cũng không thể bỏ qua môn tu Thập Thiện. Thập Thiện là một nấc thang quan trọng cần phải vượt qua nếu muốn lên cao hơn nữa. Nó là cơ sở căn bản, là hạ tầng vững chắc để xây dựng lầu đài cao lớn lên trên. Trước khi tu pháp này chúng ta cần phải hiểu rõ những điều cốt yếu.

a. Định nghĩa: Thập Thiện Nghiệp là gì? Thập Thiện Nghiệp là mười nghiệp lành. Nghiệp chữ Phạn là Karma, Trung Hoa dịch là Nghiệp, có nghĩa là tạo tác, hành động. Nghiệp có chia ra làm ba thứ nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp vô ký.

b. Hành tướng của mười nghiệp:
Sở dĩ chúng sanh bị luân chuyển trong lục đạo luân hồi là do hoặc (vô minh) tạo ra nghiệp (3 nghiệp) để nhận chịu quả khổ (thọ thân). Muốn dứt khổ trước tiên phải dứt nghiệp. Nghiệp đã không còn thì vô minh hoặc cũng theo đó mà chất dứt. Vì thế, trong tất cả phương pháp Phật dạy tu hành đều nhằm dứt trừ nghiệp. Chỗ pháp khởi ra nghiệp là từ thân, miệng và ý.

* Những nghiệp ác:
Những nghiệp ác tuy nhiều nhưng được tóm lược từ ba động cơ xuất pháp như sau:

– Nghiệp ác về thân: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm.

– Nghiệp ác về miệng: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.

– Nghiệp ác về ý: Tham, giận và si mê.

* Những nghiệp lành:

– Nghiệp lành về thân: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.

– Nghiệp lành về miệng: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác.

– Nghiệp lành về ý: Không tham, không sân, không si.

c. Phương pháp tu Thập Thiện:
Tu Thập Thiện có hai cách là tu dừng nghiệp và tu chuyển nghiệp.

* Tu dừng nghiệp: Là người không làm những việc ác. Hành động này chỉ ở trong phạm vi tiêu cực, chỉ có khả năng tự lợi mà không có lợi tha.

– Không sát sanh: Là không sát hại chúng hữu tình. Chúng hữu tình đây gồm có người và vật. Không có vui mừng nào bằng vui mừng khỏi bị giết, không ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng. Chúng ta không giết hại mạng người, vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò, gà, vịt, mà cũng không giết hại vật nhỏ như trùng, kiến, ruồi, muỗi. Hằng ngày không sát sanh thì trong đời sống hiện tại sẽ mở rộng thêm lòng từ bi là một chánh nhân tu hành thành Phật.

– Không trộm cướp:
Không trộm cướp là không lấy vật gì không thuộc về quyền sở hữu của mình và người ta không cho mình. Người đời quý trọng tài sản có khi còn hơn sinh mạng. Nếu bị người cướp mất tài sản thì khổ chủ cũng đau buồn như mất một phần sinh mạng. Tiền của là huyết mạnh nên người bị cắp hết tài sản của cải, đau khổ, thất vọng có khi đến phải quyên sinh. Vì vậy, người trộm cướp hiện đời bị tù tội khổ sở, khi chết phải bị đọa vào địa ngục. Người không trộm cướp lòng đã được thảnh thơi, theo lẽ công bình, tâm hồn luôn nhẹ nhàng thư thái.

– Không tà dâm: Tà dâm là việc làm lang chạ ngoại tình, không phải là vợ chồng có cưới hỏi chính thức. Đối với người tại gia, người có tâm tà dâm thường làm gia đình mất hạnh phúc, làm ăn đình trệ, sự nghiệp dễ tiêu tan. Đối với người xuất gia thì tuyệt hẳn dâm dục, vì nó là cái nhân sinh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Bởi vậy, người tu cần phải đoạn trừ dâm dục ở thân cũng như ở tâm.

– Không nói dối: Không nói dối là nghĩ thế nào nói ra thế ấy, trong lòng và lời nói không trái nhau, việc phải thì nói phải, việc quấy thì nói quấy, việc có thì nói có, việc không thì nói không. Người không nói dối là người có đủ niềm tin với mọi người, gan dạ quyết lòng sửa chữa và tránh được tội đại vọng ngữ.

– Không nói thêu dệt: Không nói thêu dệt là không dùng lời nói trau chuốt, không thêu hoa dệt gấm, không ngọt ngào đường mật lung lạc lòng dạ của người, để làm điều sai quấy. Những kẻ nói lời thêu dệt là những kẻ có lòng dạ bất chính, lợi dụng lòng dễ tin của người để trục lợi. Những người này thường bị đời chê cười, khinh bỉ và tránh xa để khỏi bị tổn hại tài sản, danh giá và sinh mạng.

– Không nói lưỡi hai chiều:
Không nói lưỡi hai chiều là không đến bên này nói xấu bên kia, không đến bên kia nói xấu bên này. Không đem chuyện người này ra dèm pha và cũng không đem chuyện người kia ra nhạo báng, không làm cho đôi bên sân hận đấu tranh, cũng không đứng trung gian gây ác cảm cho cả hai thù oán. Tóm lại, người không nói hai lưỡi là người không có ác tâm muốn xui giục: “Cò ngao cắn lộn ông câu được lợi”, không dùng lời trái ngược, để trả thù làm cho kẻ gần thành xa.

– Không nói lời hung ác: Không nói lời hung ác là không nói những lời độc ác, chưởi rủa cộc cằn thô lỗ làm cho người nghe khó chịu. Không mắng nhiếc đay nghiến làm cho người hổ thẹn tủi đau. Không bươi móc những việc không hay của người để chế giễu làm cho người ta phải buồn khổ. Có người vì nghe những lời độc ác mà cả đời căm tức khổ sở khôn nguôi, có kẻ bị người sỉ nhục mạ lỵ mà quyên sinh tử tiết. Người nói lời hung ác thật tạo tội vô cùng to lớn.

– Không tham muốn:
Ở đời có 5 món người ta thường ham muốn đó là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Năm món ấy nếu xét cho kỹ thực ra vui ít khổ nhiều. Người tham tiền của phải đọa đày thân xác, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để thủ lợi về mình, chỉ vì tiền tài mà con giết cha, em giết anh, vợ xa chồng gia đình ly tán. Khi tiền mất thì đau khổ vô cùng. Người tham sắc thì tốn nhiều tiền lại mất sức khỏe và hao tổn tinh thần, nhiều khi tìm ra những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng ước muốn, nếu không được thì ghen tương thù hận giết chóc lẫn nhau. Người tham danh vọng thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí, mất ngủ bỏ ăn, có người vì tham danh mà bán vợ, đợ con, không biết phẩm giá, chỉ làm trò cười cho người chung quanh. Người tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Người tham ngủ nghỉ, ngủ sớm dậy trưa, thì trí não đần độn tối tăm, cuộc đời sẽ không có gì là ánh sáng, thân hình mệt mỏi, tuổi thọ giảm dần.

Tóm lại: Ngũ dục là nguyên nhân chính ràng buộc con người vào sanh tử luân hồi. Người không tham muốn ngũ dục là người biết thiểu dục tri túc, sẽ có một đời sống giản dị thanh cao và an nhàn.


– Không hờn giận: Người không hờn giận là người giữ được sự bình tĩnh, điềm đạm, nhu hòa trước những cảnh trái ý nghịch lòng. Hờn giận là một tánh xấu rất tai hại, nó như ngọn lửa đốt cháy cả mình lẫn người chung quanh. Kinh Phật có câu: “Một niệm giận hờn nổi lên thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở, lửa tức giận một phen pháp ra, có thể đốt tất cả rừng công đức.”

– Không si mê: Không si mê là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rõ ràng đúng đắn, không cố chấp theo sự hiểu biết riêng của mình, không tin những tà thuyết không phù hợp với chơn lý, nhất là không mê tín dị đoan. Người không si mê là người có trí tuệ giảng trạch, tin có nhân quả luân hồi, nên không tạo tội mà cố làm phước, thường tu hạnh bát nhã, dứt trừ vô minh để tiến mãi trên đường giải thoát.

Nếu chúng ta không làm mười nghiệp ác trên gọi là tu dừng nghiệp. Muốn trở thành mười nghiệp lành trọn vẹn ta phải tu chuyển nghiệp.

* Tu chuyển nghiệp:
Trạng thái không làm đã là thiện, nhưng trong sự tiêu cực, muốn nghiệp thiện được tích cực, ta phải chuyên tu hành động không làm ác đến làm thiện. Sự chuyển nghiệp này nghiệp thiện mới được toàn hảo, mới có đủ phước đức vô lậu.

– Không sát sanh:
Mục đích mở rộng lòng từ bi. Vì thế, người tu đã không giết hại chúng sanh mà còn mua mạng phóng sanh. Đồng thời cũng ăn chay trường và khuyên mọi người cùng ăn chay như mình.

– Không trộm cướp: Trong sáu hạnh của Bồ Tát, hạnh thứ nhất là bố thí, người tu đã không trộm cướp mà còn đem tiền của bố thí cho những người kém phước hơn mình, luôn luôn tu hạnh hỉ xả. Đồng thời cũng thực hành những hạnh lành như tạo chùa, đắp tượng, cúng dường Tam Bảo đó là hạnh phước của người tu Tịnh Độ cần có.

– Không tà dâm: Dâm dục là cội gốc của sinh tử luân hồi. Người tu ở tại gia đã không tà dâm mà luôn luôn tu chánh hạnh tiết dục. Người có chánh hạnh đều được làng nước kính vì. Người xuất gia thì chuyên tu tịnh hạnh dứt hẳn dâm dục. Tuy là người tại gia chúng ta cũng cần phải tiết dục, tập tu tịnh hạnh lần lần đến tuyệt dục. Tuyệt dục là phương pháp bảo thọ trường sinh.

– Không nói dối: Người tu Tịnh Độ chúng ta đã không nói dối mà luôn tu theo hạnh chánh ngữ trong Bát Chánh Đạo. Tổ Huệ Năng cũng dạy: “Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là Tịnh Độ.” Chính là ý nghĩa này.

– Không nói lưỡi hai chiều:
Chúng ta đã không nói lưỡi hai chiều mà luôn luôn nói lời hòa hợp, thường tu theo hạnh lục hòa.

– Không nói lời thêu dệt: Đã không nói thêu dệt mà luôn luôn nói đúng chơn ý, thực hành chánh ngữ trong Bát Chánh Đạo.

– Không nói lời hung ác: Đã không nói lời hung ác mà luôn luôn nói lời dịu dàng, khuyên người làm việc thiện, sử dụng ái ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp.

– Không tham muốn:
Đã không tham muốn mà chúng ta luôn luôn bớt dục, tri túc, thực hành khổ hạnh, dẹp bỏ tình trần, ưa đời thanh tịnh.

– Không hờn giận: Đã không hờn giận mà chúng ta luôn luôn dùng quán từ bi và quán nhẫn nhục là phương châm sống cho chính mình.

– Không si mê:
Đã không si mê mà chúng ta luôn luôn dùng trí tuệ để nhận ra chơn lý, lấy quán giới phân biệt để làm phương pháp đối trị.

Tóm lại:
Muốn tu Mười Nghiệp lành trước tiên chúng ta phải dừng nghiệp là không làm những việc ác ấy, đó là phương diện tiêu cực, muốn trở thành nghiệp thiện hoàn toàn ta phải chuyển sang tích cực như: Ta không sát sanh mà con mua mạng phóng sanh, ta không trộm cướp mà còn bỏ tiền ra bố thí… Có chuyển được như thế mới được gọi là tu Thập Thiện Nghiệp.


III. THẾ THIỆN CỦA NGƯỜI TU TỊNH ĐỘ:

Người tu Tịnh Độ trong khi thực hành các điều thế thiện cần phải niệm Phật và hồi hướng:

1. Cần phải niệm Phật: Người tu thế gian thiện căn dù trong lúc bình thường phải làm tròn bổn phận của mình đối với xã hội, nhưng trong thời gian 24 giờ chúng ta phải để một thời gian ngắn để niệm Phật, vì niệm Phật luôn luôn là chánh nhân của việc vãng sanh. Tùy theo hoàn cảnh, chúng ta có thể niệm công cứ, lịch duyên đối cảnh niệm, thời khóa niệm, hay khắc kỳ cầu chứng niệm. Nhưng nếu hoàn cảnh quá bận rộn và bức bách, chúng ta cũng cần phải giữ tròn thập niệm. Thập niệm là gì? Là 10 hơi thở niệm Phật. Người tu theo pháp Thập niệm, cứ mỗi sáng lễ Phật 3 lễ rồi đứng hoặc quỳ trước bàn thờ Phật niệm Nam Mô A Di Đà Phật đến trọn một hơi thơ kể là một niệm, niệm đủ mười hơi thở là đủ mười niệm, sau đó niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần), Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần), Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần). Rồi lạy 3 lạy là xong. Thời khóa Thập Niệm. Thời khóa này mất tối đa từ 10 đến 15 phút.

Trong trường hợp, chúng ta không có thờ Phật tại nhà hoặc chúng ta đang ở chỗ khác, chúng ta cũng có thể hướng mặt về phía Tây, xá ba xá xong rồi niệm Phật và Tam Thánh xong lại xá ba xá cũng coi như xong thơi khóa Thập Niệm. Người tu Thập Niệm thường chia làm hai thời vào buổi sáng và buổi tối, trong những giờ thích hợp. Từ Vân Đại Sư dạy: “Người tu Thập Niệm nếu giữa được trọn đời thì cũng được vãng sanh”.

2. Cần phải hồi hướng: Công việc làm có hồi hướng là công làm có mục đích nên dễ thành tựu, người tu thiện căn có mục đích duy nhất là nguyện được vãng sanh về cõi Tịnh độ. Người tu thế gian thiện căn trong lúc làm mọi việc xã hội, nhưng trong lòng thường nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều vãng sanh Cực Lạc. Có được như thế, khi lâm chung đức Phật A Di Đà và Thánh chúng sẽ rước hành giả về cõi Cực Lạc.

IV. LỢI ÍCH:

Người tu thế gian thiện căn có 10 điều lợi ích như sau:

1. Người đời đều tôn trọng kính nể.

2. Sự nghiệp mau thành.

3. Mọi người đều tín cẩn và biết ơn.

4. Giữ trọn đạo nhân luân gia đình hạnh phúc.

5. Con cháu hiếu thuận, bạn bè thương yêu kính nể.

6. Hiện đời không có oan gia, gặp nhiều phúc lạc, khi mất nếu không cầu sanh Cực Lạc cũng được hưởng ở cõi Trời.

7. Thế thiện là nền tảng tốt cho con đường giải thoát.

8. Có đầy đủ phước đức và phước cáo.

9. Dễ dàng tiến lên quả vị Vô Thượng Bồ Đề

10. Khi lâm chung sẽ được Phật rước về cõi Phật.

Một chàng dũng sĩ đến xứ lạ quê người, tuy có tài siêu quần bạt tụy, nhưng không có hành lý và tiền bạc trong tay cũng lâm vào cảnh khó khăn, và có khi chỉ vì miếng cơm manh áo mà mai một thanh danh. Người có tài mà có đầy đủ hành lý tiền bạc trong tay thì dù ở hoàn cảnh nào cũng được ung dung tự tại. Cũng thế, người tu hành nếu chuyên tu huệ, mà không tu thiện căn sẽ trở nên bần cùng khó tiến, người chuyên tu phước mà không tu huệ trở nên phóng đảng đạo lực khó thành, nên trong kinh dạy: “Phước huệ đầy đủ mới có thể làm Phật”. Người tu Tịnh Độ muốn về cõi Cực Lạc mà thiếu phước đức, căn lành bắt đầu từ thế gian thiện căn. Vì vậy, người tu Tịnh độ trước tiên phải hiếu dưỡng cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại và tu mười nghiệp lành, vì đây là nền tảng vững chắc. Người có nền tảng vững chắc thì sau đó tha hồ xây cất những lâu đài lên trên. Trái lại nền tảng không vững, mà vội vàng xây cất lâu đài thì không khác gì xây cất trên bãi cái chùi hoặc xây trên hư không, muốn được thành tựu thật không có lý đó.

Dám mong, toàn thể quý liên hữu muốn tiến cao hơn cần phải có nền tảng thực chắc chắn, đó mới là một kế sách an toàn.



Câu hỏi Thế Gian Thiện Căn:


1. Thế gian thiện căn là cội gốc của các căn lành khác, có mấy thức căn bản? Thứ nào là quan trọng nhất?

2. Người tu Tịnh Độ ở trần học đạo cần phải làm gì? Và việc lợi ích như thế nào?

3. Người trọn đời tạo tội ác, khi sắp lâm chung chỉ cần 10 niệm mà được vãng sanh về Tịnh Độ điều này giải thích thế nào?

4. Kinh dạy: “Mỗi Niệm Danh Hiệu Phật A Di Đà diệt được 80 ức kiếp sanh tử trọng tội”, điều đó thực khó tin, xin vui lòng giải rõ?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Trì Giới Thiện Căn

Bất luận một đoàn thể hay một tổ chức nào muốn được tiến triển phải có kỷ luật, giới điều. Giới luật càng chặt chẽ thì công việc thực hành càng mau tấn tới. Trái lại, một đoàn thể hay một cá nhân nào không có kỷ luật, cuộc sống sẽ trở thành mâu thuẩn, dù đoàn thể đó hùng mạnh, cá nhân đó có xuất sắc, nhưng công việc thực hành cũng chẳng đi đến đâu, như con ngựa không có dây cương thì không thể đi xa ngàn dậm. Người tu không giữ giới luật thì không thể thẳng tiến đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề.


Sở dĩ giới luật của Phật có ra là do khi Đức Phật còn trụ thế, đoàn thể tăng già lúc nào cũng có 1250 Tỳ Kheo và một số Bồ Tát cùng theo. Trong một cuộc sống đông đảo như vậy, dĩ nhiên trăm người ngàn ý. Để điều hòa thanh tịnh thân tâm nên Phật chế ra giới luật. Có nhiều vị Bồ Tát đã vì lòng đại bi mà trong giữ hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng phàm phu để hướng dẫn đời sau. Vì vậy, giới mà Phật chế ra không phải là do suy nghĩ đặt ra, mà do đúc kết từ thực tế, nên nó rất chính xác và bổ ích.

Đạo Phật là đạo có mục đích đưa người đến chỗ giác ngộ để tâm được định, không còn có những phang duyên theo vọng thức, làm cho trí tuệ hiện bày thì giới luật là điểm then chốt. Nhờ có giới luật mà tâm được định, nhơn có định mà tâm mới phát huệ, muốn cho định huệ đồng đẳng, tâm thể nhứt như thì điều kiện tiên quyết là phải nghiêm trì giới luật. Lại nữa, giới luật này là do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một Đấng Giác Ngộ hoàn toàn, đúc kết những hoàn cảnh thực tế mà chế ra. Do đó, nó có một giá trị tuyệt đối, một công dụng quý báu, bổ ích rất nhiều cho những người muốn tu theo đạo Phật.

Chính vì sự quan trọng và lợi ích lớn lao của giới luật, nên trước khi vào Niết Bàn, Ngài đã nhắn nhủ với các hàng đệ tử “Gặp thời không có Phật phải lấy giới luật làm Thầy”. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Giới sáng như mặt nhật, quý báu như ngọc anh lạc, các vị Bồ tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành chánh giác.” Như thế, giới là nhịp cầu giải thoát, là đường đến quả Phật mà các hàng đệ tử của Ngài đều phải tuân theo. Nhưng bể giới luật mênh mông, là một tông phái lớn của 10 tông phái, chúng ta không thể học hết. Trong phạm vi trì giới thiện căn của pháp môn Tịnh độ, chúng tôi chỉ trình bày những giới luật cần yếu cho việc tu tịnh nghiệp mà thôi. Vì đây là đường đến quả Phật, nên chúng ta cần phải khảo sát, để theo từng bước giới luật tu hành hầu tránh được cái hại: “Sai một li đi ngàn dậm”.

I. ĐỊNH NGHĨA

Trì là giữ chặt chẽ, giới là điều răn dạy, ngăn cấm, những quy luật mà Đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử của Ngài đi vào con đường ngay lẽ phải, và tránh cho họ những hầm hố sâu hiểm mà họ có thể rơi vào, trên con đường đi đến quả Phật.

Thiện là lành, làm lợi ích cho chúng sanh trong hiện tại và tương lại. Căn là cội gốc.

Trì giới thiện căn là cội gốc phước đức do sự giữ gìn giới luật tạo nên.

II. CÁC LOẠI GIỚI LUẬT

Giới luật có nhiều từng bậc tùy theo căn cơ, tùy theo sự phát nguyện của người tu mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là Giới Tiểu Thừa và Giới Đại Thừa.

1. Giới Tiểu Thừa:

Giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có một mục đích tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới luật Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình thì người khác cũng được lợi, như giữ giới không trộm cướp thì mình được lợi là kiềm giữ lòng tham mà người khác cũng được lợi là khỏi bị cái khổ vì mất của. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng liệt vào giới Tiểu Thừa, vì trong khi giữ giới mục đích chính trực tiếp là giữ cho mình, còn cái lợi cho người là ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Giới Tiểu Thừa gồm có:

a. Giới của người tại gia: gồm có:

– Ngũ giới (Năm giới Phật chế cho người tại gia.)

– Bát Quan Trai Giới (Tám giới Phật chế cho người tại gia sống như người xuất gia.)

b. Giới của người xuất gia:
gồm có:

– Sa di và Sa Di Ni giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia)

– Thức Xoa Ma Na (6 điều học giới cho Sa Di Ni)

– Tỳ Kheo Giới (250 giới cho Tỳ Kheo Tăng)

– Tỳ Kheo Ni Giới (348 giới cho Tỳ Kheo Ni)

2. Giới Đại Thừa

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhằm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi thì thuộc về Đại Thừa Giới. Giới này thường gọi là Bồ Tát Giới, gồm có ba nhóm gọi là Tam Tụ Tịnh Giới.

a. Nhiếp luật nghi giới:
Người thọ trì nhiếp luật nghi giới là người quyết tâm giữ trọn những giới trọng và những giới khinh, quyết tâm không làm các điều xấu ác.

b. Nhiếp thiện pháp giới:
Người thọ trì nhiếp thiện pháp giới là quyết tâm làm tất cả các việc lành.

c. Nhiêu ích hữu tình giới: Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hành từ, bi, hỉ, xả, làm tất cả những điều lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Những giới Đại Thừa gồm có:

– Tại gia Bồ Tát Giới (6 giới trọng và 28 giới khinh, dành cho những vị chưa thoát tục tu Bồ Tát Hạnh)

– Xuất gia Bồ Tát Giới (10 giới trọng và 48 giới khinh, dành cho những vị đã xuất gia)

Bồ Tát giới chung cho Đại Thừa và Tiểu Thừa. Người thọ giới Tiểu Thừa rồi có thể thọ ngay Giới Bồ Tát. Những vị Sa Di thọ giới Bồ Tát gọi là Bồ Tát Sa Di, Tỳ Kheo thọ giới Bồ Tát gọi là Bồ Tát Tỳ Kheo. Tỳ Kheo ni thọ giới Bồ Tát gọi là Bồ Tát Tỳ Kheo Ni. Người ngũ giới thọ Bồ Tát gọi là tại gia Bồ Tát.


III. TRÌ GIỚI THIỆN CĂN CỦA NGƯỜI TU TỊNH ĐỘ:    

Như chúng ta đã biết, trong phần Thập Thiện Nghiệp, thì nghiệp là động cơ chính dẫn ta vào nẻo luân hồi. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống của chúng ta. Nghiệp có ba loại là nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói, và nghiệp của ý nghĩ, nếu nghiệp ấy không tạo các điều ác, được luôn luôn thanh tịnh, thì trong lúc ấy tâm chúng sanh trở thành Phật tâm. Trong kinh dạy: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây Phương”. Muốn ba nghiệp ác ấy được thanh tịnh, thì hành giải phải nghiêm trì giới luật.

Căn cứ vào Quán Kinh thì thọ trì giới thiện căn có 3 điểm chính yếu là Thọ trì Tam Quy, giữ đầy đủ các giới đã thọ và chẳng phạm oai nghi. Để dễ dàng cho việc tu thiện căn này, chúng ta cần phải lần lượt khảo sát từng điểm một.


1. Thọ Trì Tam Quy

Phật dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh ấy rất sáng suốt, ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt. Chúng ta từ vô thỉ, vân ở nơi nguồn chơn vắng lặng sáng suốt vô cùng, nhưng vì một niệm bất giác khởi vô minh, vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong sanh tử, trôi nổi trong ba nẻo sáu đường. Sống trong cảnh trôi lăn ấy, chúng ta khó có thể tìm được một nơi nương tựa. Chúng ta muốn thoát cõi khổ luân hồi, nhưng không làm sao thoát được! Ai là người rủ lòng thương đưa đường chỉ lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp chúng ta ra khỏi bể khổ sanh tử? Ai là những người thanh tịnh thiện tri thức trực tiếp hướng dẫn chúng ta. Nếu không có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã chứng quả bất sanh bất diệt, thương chúng sanh như mẹ thương con thì còn ai bằng lòng dìu dắt chúng ta, nếu không có Tam Tạng Giáo Điểm của Ngài, còn ai giúp chúng ta được giải thoát vô minh phiền não? Nếu không có đoàn thể thanh tịnh, nguyện suốt đời tu hành, trên thành Đạo Phật, dưới cứu độ chúng sanh, thì ai là người trực tiếp hướng dẫn chúng ta, nếu chúng ta muốn quay về với bến bờ giác ngộ, phương cách thần diệu trực tiếp hướng dẫn chúng ta ra khỏi sanh tử luân hồi là trước nhất phải thọ trì Tam Quy.

– Thế nào là thọ trì Tam Quy? Thọ là nhận lấy một cách hài lòng, trì là giữ gìn một cách chặt chẽ. Tam là ba, quy là nương về. Tam quy nói cho đủ là Quy Y Tam Bảo là nương về ba ngôi quý báu Phật, Pháp, Tăng. Thọ trì Quy y Tam Bảo là bằng lòng gìn giữ chặt chẻ việc nương về với Ba ngôi Phật, Pháp và Tăng.

– Thế nào là Ba Ngôi Báu? Ở đời thường cho vàng bạc ngọc ngà là quý báu, nhưng đem so sánh với mạng sống của con người thì không có vật nào quý bằng. Có người đương số đã tận, nếu có ai giúp cho họ sống được chừng năm mười năm là họ có thể đối hết tất cả tài sản. Còn Phật Pháp Tăng có khả năng dẫn dắt con người ra khỏi vòng sống chết, thọ mạng vô lượng, nên gọi Phật, Pháp, Tăng là Ba Ngôi Quý Báu.

– Tại sao phải Quy Y Phật? Vì Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn. Ngài đã thoát vòng sanh tử, chứng đạo vô thượng Niết bàn, nên Ngài là người dẫn đường cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử có kinh nghiệm và vĩ đại nhất.

– Tại sao phải Quy Y Pháp? Suốt 49 năm thuyết giáo, tùy bệnh cho thuốc, Ngài đã nói ra nhiều phương pháp có công năng đưa chúng sanh ra khỏi bể khổ sanh tử đến bờ giải thoát.

– Tại sao phải Quy Y Tăng? Tăng là một đoàn thể hòa hợp thanh tịnh, là những người tu hành theo giáo pháp của Phật, tình nguyện thay Phật dẫn dắt cho chúng sanh trên đường đạo.

Thọ trì Tam Quy có hai phương diện Sự và Lý

a. Sự Quy Y Tam Bảo: Thực hành Quy Y Tam Bảo bằng sự tướng qua sự biểu hiện bên ngoài, như tổ chức lễ quy y, cung kính cúng dường, hộ trì Phật Pháp Tăng cũng gọi là Quy Y Tam Bảo.

– Sự Quy Y Phật Bảo: Hằng ngày chúng ta thờ Phật, cúng Phật, nhớ tưởng luôn luôn đến Phật, niệm danh hiệu Ngài, chiêm ngưỡng tượng Ngài, chí tâm thật ý lễ bái để tỏ lòng thành kính và nguyện suốt đời theo bước chân của Ngài. Đó là sự quy y Phật.

– Sư Quy Y Pháp Bảo: Hằng ngày đọc tụnh Kinh Luật Luận trên giấy trắng mực đen, sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo, không biết rõ nghĩa mà tụng suông cũng nhiếp được ba nghiệp không phải là vô ích. Khi đọc tụng kinh điển, tâm lý chúng ta không nghĩ những điều xằng bậy, không nhớ tưởng đến việc chẳng lành, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành thanh tịnh gọi là sự quy y Pháp.

– Sư Quy Y Tăng Bảo: Thế gian thường nói: “Trọng Phập phải kính Tăng” cho nên chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta phải thực dạ kính tăng bấy nhiêu. Người thực sự quy y Tăng, khi gặp các Thầy chân chánh, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể quý trọng xem như đó là đại diện của đức Phật. Nương theo học hỏi gọi là sự quy y Tăng.

Tóm lại:
Thờ Phật cốt, Phật tượng, tụng kinh, giữ giới, nghiên cứu Phật pháp, kính trọng bậc tăng già chơn chính. Đó là sự quy y Tam Bảo.

b. Lý Quy Y Tam Bảo:
Lý quy y tam bảo là quy y tam bảo trong tự tánh chúng ta. Vì trong tự tánh của chúng ta cũng có đủ tam bảo, nên chúng ta cần phải quy y tam bảo của chính mình.

– Tự quy y Phật: Tự quy y Phật là tự mình về với tánh sáng suốt của mình. Mỗi người chúng ta, từ xưa đến nay đều sẵn có Phật tánh; nếu chúng ta giác ngộ, chúng ta sẽ thành Phật. Đó là lời Phật Thích Ca và của chư Phật đã dạy. Sở dĩ chúng ta hiện chưa thành Phật được là vì Phật tánh ấy bị vọng tưởng mê lầm che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng sáng, mây mờ có thể che khuất chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng.

Phật tánh chúng ta dù bị vô minh che lấp kín đến đâu nó vẫn hằng còn. Vậy sao chúng ta bỏ quyên Phật tánh sáng suốt của mình mà đi cầu khẩn Phật bên ngoài, như cùng tử có hạt ngọc quý trong túi áo mà không biết lại đi xin ăn khắp mọi nơi. Chúng ta tự nương về với Phật tánh sáng suốt đầy đủ, thanh tịnh của chính mình gọi là tự quy y Phật.

– Tự quy y Pháp: Là vâng theo pháp tánh của chính mình. Trong tâm ta có đủ các pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng, nhẫn nhục, tinh tấn, nên Tổ Huệ Năng khi ngộ đạo Ngài đã nói: “Nào ngờ tự tánh có đủ muôn pháp”. Chúng ta cần phải phát huy tánh ấy để nhận được bản lai diện mục của mình gọi là Tự quy y Pháp.

– Tự quy y Tăng: Là nương theo ông Thầy trong tâm mình đó là đức tanh thanh tịnh hòa hợp của chính mình. Tổ Huệ Năng khi ngộ đạo cũng đã khám phá ra: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh.” Tăng già là hiện thân của sự thanh tịnh hòa hợp. Bấy lâu vì mê muội không thấy được ông thầy thanh tịnh trong tâm, nay nhờ Phật chỉ mà mình thấy được tự tánh thanh tịnh của mình. Nương vào tánh thanh tịnh của mình thì gọi là Tự Quy y Tăng.

Tóm lại: Nương về với tánh sáng suốt của mình là tự quy y Phật. Nương về với tánh có đủ muôn pháp của mình là tự quy y Pháp. Nương về với tánh thanh tịnh hòa hợp của mình là tự quy y Tăng. Như thế gọi là Lý quy y.

Người quy y phải lấy sự hiển lý, lấy lý hiển sự hòa hợp trọn vẹn, mới gọi là trọ thì Tam Quy.



2. Trì đầy đủ các giới:

Người tu Tịnh Độ phải trì đầy đủ các giới mà mình đã thọ không cho phạm hay sai sót. Muốn trì đầy đủ các giới chúng ta cần phải biết rõ trình tự và những điểm chủ yếu của giới luật mà mình đã thọ.

– Trình tự trì giới:

Giới có giới luật cho người tại gia và người xuất gia. Để dễ dàng cho người thọ trì, Cổ Đức đã lập thành những trình tự thông thường như sau:

a. Trình tự trì giới của người tại gia: Người tại gia bắt đầu phải trì tam quy rồi mới thọ ngũ giới, kế tiếp đó thọ Bát quan trai giới trong những ngày chay lạc, cuối cúng thọ giới Tại gia Bồ Tát. Cũng tuần tự như thế, người tu Tịnh độ trước ăn chay 2 ngày một tháng lần đến 6 ngày, 10 ngày, mỗi năm ăn chay ba tháng lần đến trường chay.

b. Trình tự trì giới của người xuất gia:
Người xuất gia bắt đầu thọ giới Bồ Tát Sa Di lần lên thọ Bồ Tát Tỳ Kheo, hoặc Bồ Tát Tỳ Kheo Ni. Cần phải theo trình tự thọ giới từ thấp lên cao thì việc thọ giới mới được dễ dàng. Không được vượt đẳng sẽ khó hoàn thành được giới nghiệp.

Về giới luật xuất gia có rất nhiều và có nhiều điểm cần học mà người thọ giới từ trước khi thọ đã học kỹ. Ở đay chúng tôi chỉ tóm lược những giới chính của hàng tại gia mà thôi.

IV. GIỚI TIỂU THỪA CỦA NGƯỜI TẠI GIA:

Gồm có Ngũ giới và Bát quan trai giới.

a. Ngũ giới:

Ngũ giới là 5 điều răn cấm mà Phật chế ra để ngăn ngừa những niệm tưởng ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn cấm ấy là:

– Không được sát sanh

– Không được trộm cướp

– Không được tà dâm

– Không được nói dối

– Không được uống rượu

Năm giới này là năm thành trì ngăn chận không cho chúng ta lạc vào tội lỗi, là năm hàng rào ngăn không cho chúng ta rơi và vực thẳm, tạo cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc an vui.

b. Bát Quan Trai Giới:

Bát quan trai giới là giới tu xuất thế gian của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm, vì nó mang tính cách xuất thế, nên người tu phải thực hành một cách triệt để suốt thời gian thọ giới. Bát quan trái giới là giới chuyên gìn giữ cho thân tâm được thanh tịnh bằng cách ngăn chận tám điều tội lỗi, là không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát. Không được ngồi nằm giường cao đẹp rộng lớn. Không được ăn quá giờ Ngọ.

Người tu Bát Quan Trái giới là người tập tu hạnh xuất gia một ngày một đêm, giới này có công năng làm cho thân và tâm an lạc. Đó chính là thềm bậc của quả vị xuất thế.


V. GIỚI ĐẠI THỪA CỦA NGƯỜI TẠI GIA:

Là giới tại gia Bồ tát, giới này được trích ra từ Ưu Bà Tắc giới kinh, trong phần tại gia tu hạnh Bồ tát, Phật đã nói ra: Tại gia Bồ Tát giới gồm có 6 giới trọng và 28 giới khinh, nội dung được tóm trong bài kệ:

Đùng làm các điều ác
Chuyên làm các điều lành
Tự trong sạch ý mình
Đó là lời Phật dạy.

Bài kệ này thu nhiếp 3 điểm cốt yếu là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp Thiện pháp giới và Nhiêu ích Hữu tình giới.

1. Sáu giới trọng:

Đây là những giới nặng: Theo giới Tiểu Thừa thì người phạm giới này như cây Sa La mất đầu không thể sống lại, nên không cho sám hối. Theo giới Đại Thừa người bị phạm trọng giới có thể sám hối, nhưng phải sử dụng chơn thể sám. Các giới này tuy giống với danh xưng của ngũ giới, nhưng giới tướng và giới thể của nó rất tinh tế, như giới sát, ngoài tự giết, bảo người khác giết, hoặc thấy người giết vui theo, cũng không dùng phương tiện giết, khen ngợi giết, chê bai giết, chú giết, nhơn giết, duyên giết, pháp giết, nghiệp giết…. mà luôn luôn khởi tâm từ bi, tâm hiếu thuận, tâm phương tiện cứu giúp tất cả chúng sanh. Sáu giới trọng là:

– Không sát sanh

– Không trộm cướp

– Không tà dâm

– Không nói dối

– Không nói lỗi của tứ chúng

– Không bán rượu

Các giới này trong tại gia Bồ Tát giới có nói rõ.

2. Hai mươi tám giới khinh:

Giới này là giới nhẹ người bị phạm có thể sám hối làm sạch tội. Dù vậy, giọt nước tuy nhỏ mà nhiễu nhiều lần có thể đầy cả chum lớn, giới tuy nhỏ nhưng nhiều sai phạm sẽ có hại cho đạo quả Bồ Đề, do đó chúng ta phải cố gắng giữ gìn đừng cho sai phạm. Các giới khinh là:

– Giới 1: Không cúng dường cha mẹ và sư trưởng

– Giới 2: Không được uống rượu

– Giới 3: Không chăm sóc bệnh nhân

– Giới 4: Không tuỳ nghi bố thí

– Giới 5: Không kính chào các bậc tôn túc thiện trí thức

– Giới 6: Thấy người phá giới chẳng nên khinh mạn

– Giới 7: Không giữ ngày trai cúng dường Tam Bảo

– Giới 8: Không đi nghe Pháp

– Giới 9: Thọ nhận vật dụng của Tăng

– Giới 10: Uống nước có trùng

– Giới 11: Không đi một mình trong chỗ hiểm nạn

– Giới 12: Không ngủ một mình ở chùa ni hoặc chùa tăng.

– Giới 13: Vì của đánh người

– Giới 14: Cúng cho tứ chúng đồ thừa dỡ

– Giới 15: Nuôi mèo chồn

– Giới 16: Nuôi súc vật

– Giới 17: Không chứa pháp cụ cúng dường

– Giới 18: Gieo trồng không lựa chỗ đất tốt

– Giới 19:  Buôn bán phải chơn chính

– Giới 20: Hành dâm phi thời phi xứ

– Giới 21: Buôn bán trốn thuế

– Giới 22: Phạm luật nước

– Giới 23: Không ăn trước khi cúng Tam Bảo

– Giới 24: Thuyết pháp nên thỉnh ý Tăng

– Giới 25: Không đi trước năm chúng

– Giới 26: Cúng dường Tăng không phân biệt

– Giới 27: Không nuôi tằm

– Giới 28: Đi đường gặp bệnh nhân phải chăm sóc gởi gấm.

Giới Bồ tát nặng về lợi tha mục đích nhiếp hóa hữu tình, vì vậy người trì giới này luôn luôn phải mở rộng tâm từ bi, thực hành pháp lục độ thì nới phù hợp với giới luật.

3. Chẳng phạm oai nghi:

Đây là phương pháp áp dụng giới luật tùy theo mỗi phương pháp tu hành. Oai nghi đây là chỉ bốn phạm vi hoạt động của người tu, trong mỗi phạm vi đều có phép tắc để điều hòa phù hợp, làm cho thân tâm được an lạc. Bốn oai nghi đó là oai nghi khi đi, đứng, ngồi, nằm đều có dáng điệu phù hợp để không tổn đến oai đức. Người tu theo Luật Tôn, Sa Di phải có 24 oai nghi như Kỉnh đại Sa Môn, hầu Thầy, tham phương, nhập chúng… Tỳ kheo có 3,000 oai nghi, tám muôn hạnh nhỏ. Người tu theo Thiên Thai Tông có Lịch duyên tu chỉ quán, Người tu theo Mật Tông đi, đứng, nằm, ngồi đều trì kệ chú. Người tu Tịnh độ trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều nhất tâm niệm Phật. Vì khi niệm Phật tụ hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối thì đâu còn động cơ nào để gây tội. Nên Tổ Huệ Năng cũng nói: “Tâm bình còn nhọc công chi để trì giới” là thế.

VI. PHƯƠNG CÁCH THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI TU TỊNH ĐỘ:

Người muốn vãng sanh cần phải có căn lành mà cội gốc của căn lành là nhờ trì giới. Dù vậy, trì giới cũng tùy theo khả năng và căn cơ của mọi người, đừng vì quá ham mê vượt bực mà đạo lực khó thành. Vì thế, Cổ Đức đã lập thành những bực thang trì giới cho người tu Tịnh độ như sau:

1. Người tu tịnh nghiệp tại gia:
Người tu vốn là người đi ngược với tình trần, mà đi ngược bao giờ cũng khó khăn và mệt nhọc. Vì vậy, bước đầu trì giới chúng ta tuần tự từ thấp đến cao, đồng thời cũng khuyên những người trong quyến thuộc cùng làm thì mới tiến lên dễ dàng. Bước đầu chúng ta thọ Tam Quy, Trì Ngũ Giới. Tiếp theo đó mỗi nửa tháng chúng ta lên chùa thọ Bát Quan Trai giới và lần tiến lên, thọ Bồ Tát giới. Trong việc làm Phật sự cũng như ăn chay, chúng ta lần lượt tiến lên để cho gia đình cùng tiến, thì việc làm sẽ trở nên dễ dàng hơn. Đồng thời chúng ta cũng lần lượt từ thế gian tiến lên xuất thế gian. Ngày xưa Bàng Công Uẩn cư sĩ cả nhà đồng tu thiền định đều được sinh tử tự tại, chứng quả vô sanh.

2. Người tu tịnh nghiệp xuất gia:
Người xuất gia tu tịnh nghiệp rất dễ và khi được vãng sanh sẽ được về Thượng Phẩm. Tuy vậy, khi trì giới cũng không được vượt bực, phải từ thấp lên cao. Đồng thời phải lấy niệm Phật làm chánh nhơn thì vãng sanh chắc được thành tựu.

3. Phải tụng kinh niệm Phật: Tụng kinh được kể là phương pháp chánh tu, vì khi tụng kinh thu nhiếp ba nghiệp, tâm trụ một chỗ. Khi tâm được định thì trí huệ phát sáng, dẹp sạch vô minh, ngàn mối nghi ngờ tự dưng tiêu diệt. Vì thế, Tổ Thiên Thai tụng kinh Pháp Hoa mà chứng được Tổng Trì, Tổ Huệ Năng nghe kinh Kim Cang mà chứng thành Tổ vị. Người xưa nghe một câu thẳng đến đạo Bồ Đề, ngộ nửa bài kệ mà chứng thành Phật đạo. Năng lực của việc tụng kinh thật vô cùng to lớn. Dù vậy, người tu Tịnh độ chỉ chuyên tụng ba kinh là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà và Kinh Quán Vô Lượng Thọ vì ba kinh này có thể làm sáng tỏ và giúp cho hành giả dễ dàng trong việc tu hành. Đồng thời người trì giới thiện căn cũng cần phải niệm Phật, vì niệm Phật là chánh nhân của vãng sanh, nếu hành giả muốn vãng sanh về Tịnh Độ. Niệm Phật cũng phải trình tự từ dễ đến khó, lần theo năm bước từ thấp lên cao thì dễ có kết quả.

4. Cần phải phát nguyện: Cổ Đức thường dạy: Tu Hành không nguyện Đạo quả khó thành. Người trì giới thiện căn cần phải phát nguyện vãng sanh về cõi Cực lạc. Có nguyện là có quyết tâm đem việc trì giới thiện căn hỗ trợ cho việc cầu sanh Cực lạc, thì việc vãng sanh chắc được thành tựu.


VII. LỢI ÍCH:

Người tu trì giới thiện căn có 7 điều lợi ích:

1. Mười phương chư Phật đều thương tưởng hộ trì

2. Lúc lâm chung tâm thường giữ được chánh niệm, lòng hằng an vui.

3. Đời sau sanh ra gặp bạn đều là Bồ Tát.

4. Các công đức nhờ trì giới thiện căn mà được thành tựu viên mãn.

5. Đời này và đời sau đủ giới đức và phước huệ.

6. Khi lâm chung được Phật rước về Cực lạc.

7. Người trì giới dễ thành tựu được Phật quả.

Mục đích của giáo pháp mà Đức Phật dạy cho chúng ta là để mọi người thấy tánh thành Phật, hoặc được vãng sanh về Tịnh độ lần tiến lên quả Phật. Muốn được thấy tánh hay được vãng sanh, chủ yếu là làm thế nào để cho tâm chúng ta được định, khi tâm đã định thì trí tuệ tự nhiên phát sanh, bản lai diện mục muôn đời tự nhiên hiển lộ, thấy rõ tự tánh vốn Di Đà, duy tâm là Tịnh độ mà muốn cho tâm được định trước tiên phải trì giới vì giới làm cội gốc để phát sanh ra định và nhơn định mới có huệ. Đó là 3 món vô lậu học và tất cả pháp môn đều phải ứng dụng. Vì thế, người trì giới thiện căn là người thực hành đầy đủ căn bản để được vãng sanh về Cực lạc.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Người thuần tưởng thì sẽ sanh về các cõi Trời, nếu người thuần tưởng mà trong tâm tu phước tu huệ và có nguyện sanh về Tịnh độ tự nhiên tâm tỏ ra thấy 10 phương Phật, tất cả Tịnh độ tùy theo nguyện mà được vãng sanh”. Chúng ta những người tu Tịnh độ lấy niệm Phật làm tu huệ, lấy ba phước làm tu phước, mà trong ba phước lấy trì giới thiện căn làm căn bản, chắc chắn thấy được mười phương chư Phật tùy nguyện vãng sanh. Lời Phật trong kinh đã nói rõ ràng, chúng ta còn gì nghi nữa mà không bắt tay hạ thủ công phu?


Câu hỏi Trì Giới Thiện Căn

1. Giới luật Tiểu Thừa và Đại Thừa khác nhau thế nào? Vì sao người thọ giới trước Thọ Giới Tiểu Thừa sau Thọ Giới Đại Thừa?

2. Người tu Tịnh độ Trì Giới Thiện Căn phải thực hành như thế nào để có nhiều lợi ích?

3. Mang nghiệp vãng sanh có thể hiểu được, nhưng chứng vào vị bất thối thật rất khó tin. Xin vui lòng giảng rõ?

4. Tịnh độ Cực lạc cách 10 muôn ức cõi, người lâm chung khoảnh khắc rất ngắn làm sao đến được? Phải hiểu lý ấy thế nào?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Từ khi xuất gia đến khi vào Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni canh cánh trong lòng một hoài bão làm thế nào “Khai thị cho chúng sanh ngộ vào tri kiến Phật” của chính mình, để từ đó thoát hẳn khỏi sanh tử luân hồi.


Lúc còn là một thái tử, sau khi mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết của cuộc đời, thái tử Tất Đạt Đa đã quyết tâm xuất gia tìm đạo, tìm ra một phương pháp nhiệm mầu để cứu chúng sanh ra khỏi nẻo sanh tử. Ngài đến xin với phụ hoàng đi xuất gia tìm đạo, nhưng vua Tịnh Phạn quyết liệt từ chối. Ngài thưa: “Thưa phụ hoàng con bằng lòng ở lại hoàng cung tiếp tục trị vì thiên hạ, nhưng xin cha thỏa mãn cho con 4 điều: Cha làm cho con trẻ mãi không già. Xin cha cho con mạnh mãi không đau. Xin cha cho con sống hoài không chết và xin cha cho con một đời sống thật hoàn toàn hạnh phúc; Nếu cha không cho con được 4 điều trên, con phải ra đi tự tìm lấy.” Rồi Ngài xuất gia tìm đạo. Như thế động cơ đầu tiên của Ngài là muốn cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử, mà muốn thoát khỏi sanh tử thì phải tu Chánh Nhân Xuất Thế.

Trong kinh Pháp Hoa có một thí dụ: Trong một ngôi nhà kia, bỗng nhiên lửa cháy rất dữ, một số con ông trưởng giả, có nhóm 20, nhóm 30, nhóm 50 không biết gì là nguy hiểm của nhà lửa, nên cứ chạy giỡ rong chơi. Ông trưởng giả kêu gọi hết lời nhưng các con cứ mê mang trong sự vui chơi chỉ đứng nhìn cha mà thôi. Thấy nhà lửa sắp sập, họa khổ sẽ đến với các con, nên ông bày chước phương tiện, nói với các con rằng: “Các con đừng ham vui chơi ở đây, ở ngoài cửa kia cha có sắm sẵn cho các con 3 loại xe lớn, có trang bị đầy đủ đồ chơi và các con có thể đi từ chỗ này đến chỗ khác thật an vui, các con hãy mau ra!” Các con ông trưởng giả nghe có đồ chơi ở ngoài cửa ham vui chạy ra khỏi nhà lửa, thoát khỏi khổ diệt thân. Ông trưởng giả rất vui mừng đem toàn những xe lớn tặng cho các con. Thí dụ trên cho chúng ta thấy bản hoài của Đức Thế Tôn là muốn cho chúng sanh thoái khỏi nguy hiểm của nhà lửa tam giới, mà muốn thoát khỏi ba cõi phải tu Nhơn Xuất Thế.

Chính vì lòng hoài bão trên, nên Ngài mở lòng đại bi triệt để nói pháp môn tu Tịnh Độ, niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, khi đã về Cực Lạc rồi thì dòng sanh tử ở ba cõi tự nhiên dứt hẳn. Do đó, người tu Tịnh Độ luôn luôn phải lấy Xuất Thế Thiện Căn làm chánh nhân thì việc Vãng Sanh mới có kết quả chắc chắn.

Xuất Thế Chánh Nhân của người tu Tịnh Độ gồm có Phát Tâm Bồ Đề, Tin Sâu Nhân Quả, Đọc Tụng Kinh Điển Đại Thừa và Khuyến Tấn Hành Giả, vì đây là thiện căn vô lậu mà mọi người tu Tịnh Độ cần phải có đủ, nên chúng ta cần phải phân tích kỹ từng điểm một.

I. ĐỊNH NGHĨA:

Thế nào là Xuất Thế? Theo nghĩa thông thường xuất thế là ra khỏi cõi đời ô trược mà ta đang sống. Theo nghĩa rộng người xuất thế là người ra khỏi nhà lửa 3 cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, đồng thời cũng ra khỏi phiền não trần lao.

Thế nào là Thiện Căn? Thiện Căn là cội gốc của việc lành. Thiện Căn Xuất Thế là cội gốc lành có khả năng đưa hành giả ra khỏi vòng sanh tử trong 3 cõi, thực hiện đúng bản hoài của chư Phật. Vì thế, người tu Thiện Căn Xuất Thế được gọi là đấng trượng phu của trời người, là pháp khí tiếp nối dòng Phật. Do đó trước tiên hành giả phải có mục tiêu lý tưởng để pháp tâm đó là quả vị Vô Thượng Bồ Đề, muốn tiến cao như thế cần phải có niềm tin vững chắc vào chơn lý Nhân Quả. Sau khi đã có mục đích và có niềm tin rồi, hành giả phải có bản đồ chi tiết, ở đây có gộp đá, ở kia có suối ngăn, chỗ nọ chông gai, chỗ kia lầy lội, biết rõ như thế rồi thì mục tiêu có thể thành đạt. Những thành quả muốn có được trọn vẹn cần phải mình và người cùng lợi thì cội lành mới được viên mãn. Như thế, Xuất Thế Thiện Căn là cội gốc, phước đức vô lậu mà người muốn vãng sanh Tịnh Độ cần phải có đầy đủ.


II. NHỮNG THIỆN CĂN XUẤT THẾ CHÍNH YẾU:

Có 4 điểm chính:

1. Phát Tâm Bồ Đề: Trong đường vào cõi Phật, chúng ta có 4 bước để lên thuyền từ thẳng tới bờ kia, mà một trong những bước chánh đó là Phát Tâm Bồ Đề. Vì thế, phần nầy cần được khai triển một cách tỉ mỉ, rõ ràng để con đường lên thuyền dễ dàng tiến bước.

Ở đời, bất cứ làm việc gì, muốn có một kết quả thù thắng, chúng ta cần phải phát khởi tâm hướng thượng, lấy mục tiêu cao cả làm chỗ nhắm, rồi đem hết năng lực của mình ra thực hành để đạt đến kết quả sau cùng. Cái kết quả sau cùng mới được gọi là kết quả cứu kính, đức Phật ra đời chỉ một hoài bão duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập vào tri kiến Phật của chính mình để thoát hẳn sanh tử. Chứng được quả cứu kính giác ngộ gọi là quả Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, là một Phật Tử, chúng ta không vì cầu an lạc cho đời này, hoặc phước báo ở cõi trời, cõi người, hoặc cầu quả Thanh Văn, Duyên Giác hay Quyền Thừa Bồ Tát, mà chỉ y cứ theo Vô Thượng Bồ Đề mà phát tâm.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy: các yếu tố ắt có và đủ để hành giả thẳng đến cõi Phật thì phát tâm Bồ Đề là một yếu tố vô cùng quan trọng. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tu các pháp lành mà quên mất Tâm Bồ Đề, đó gọi là Ma Nghiệp.” Lời này dạy rất đúng, ví như có người cất bước khởi hành mà chẳng biết mình sẽ đi đến đâu, và đến với mục đích gì, thì cuộc hành trình sẽ trở thành lẩn quẩn, mỏi mệt vô ích. Chỉ có lùi mà không tiến, chúng ta phải xác quyết rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh viên giác, nhưng vì vô minh che ngăn mà chịu sanh tử luân hồi. Người trở về với tánh Viên Giác của mình là người chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề, đức Phật khô cổ cạn lời chỉ vì muốn chúng ta thể nhập vào tánh ấy. Vì thế, người tu Tịnh Độ, nếu dụng công khó nhọc mà quên mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình, lợi người, thì bao nhiêu kết quả lành chỉ có kết quả hưởng phước nhân thiên, chung cuộc chỉ chìm đắm quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ mà không sao ra khỏi. Do đó, người tu Tịnh Nghiệp phải phát khởi tâm vô thượng Bồ Đề, trên thành Phật Đạo, dưới cứu độ chúng sanh. Đó mới là mục tiêu cứu kính mà hành giả nhắm đến.

* Định Nghĩa: Phát tâm là khởi lòng quyết thực hành một vấn đề gì, như pháp tâm niệm Phật, phát tâm ăn chay… Bồ Đề là chữ Phạn, Tàu dịch là giác ngộ. Phát tâm Bồ đề là phải khởi lòng quyết thực hành đến viên mãn quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Người tu Tịnh Độ pháp tâm Vô Thượng Bồ Đề là quyết thực hiện để được vãng sanh về Tịnh Độ Cực Lạc, một đời thành mãn quả vị Vô Thượng Bồ Đề.

a. Động cơ phát tâm của người tu Tịnh Độ:

Người tu Tịnh Độ cần phải phát tâm chỉ vì:

– Đường sanh tử nguy hiểm: thân người không khác bọt nước, sống chết vô thường, ta chỉ thấy người già đâu biết thân ta mỗi lúc một già, đang đi vào cõi chết. Ta hằng ngày tạo biết bao nhiêu ác nghiệp, khi nào nhắm mắt xuôi tay, phải theo nghiệp thức lôi đi, trong trạng thái mờ mờ mịt mịt chưa biết về đâu? Hoặc vào địa ngục nhận chịu các khổ, hoặc vào súc sanh để người giết hại, hoặc vào ngạ quỷ đói khát đốt mình, hoặc vào Tu La lửa giận ép ngặt, dù có tạo được chút lành sanh lên cõi trời, cõi người, khi phước báo đã tận, liền quay lại chịu cảnh luân hồi, chìm nổi xuống lên không bao giờ dứt. Thời gian ở trong ba đường dữ rất dài, một quả báo ở địa ngục dài bằng trăm ngàn kiếp, biết bao giờ trở lại kiếp người! Trong kinh Phật dạy: Người khi mất thân nầy được lên cõi thánh ít như bụi trong móng tay, kẻ bị đọa Tam Đồ cầu sanh Tịnh Độ.

– Cần giải thoát trong đời này, Đức Phật dạy: “Thân người khó được, Phật Pháp khó nghe”. Thân khó được chúng ta đã được, Phật Pháp khó nghe chúng ta đã nghe, đó là nhờ nhiều đời gieo trồng căn lành nên mới có sự may mắn như thế.

– Trong kinh đức Phật có thí dụ: Có một con rùa mù cứ một trăm năm nổi lên mặt nước một lần để tìm bộng cây trôi, có bộng cây trôi, trôi dạt từ đông sang tây. Một hôm con rùa mù trồi lên mặt nước, gặp được bộng cây trôi, thật là một việc vô cùng hi hữu. Cũng thế, chúng ta bị mất thân người muốn tìm lại được thân người cũng hi hữu như con rùa mù gặp bộng cây trôi. Thực vậy, nếu chúng ta không quyết tâm thoát khỏi sanh tử trong đời này chắc chắn lò lửa chảo dầu ở địa ngục đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta thử gan dạ mà xét. Nếu theo đúng luật nhân quả trả vay, thì lúc mới sanh ra đến giờ, trong “Nghĩa địa bao tử” của chúng ta đã chông bao nhiêu là xác chết. Tội nghiệp phải trả cho đúng lẽ công bằng chỉ trong đời này thôi, chúng ta phải đầu thai muôn kiếp cũng chưa trả hết, chưa kể mỗi kiếp càng lún thêm sâu, khó thể được lên. Nếu trong kiếp này chúng ta không Phát Tâm Bồ Đề, tu Tịnh Độ, nhờ đại nguyện “mang nghiệp vãng sanh” thì không bao giờ còn có cơ hội được thoát.

– Báo Phật thâm ân: Đức Thế Tôn chỉ vì hoài bão cứu chúng sanh ra khỏi nhà lửa tam giới, thoát ly sanh tử, mà từ Vô Lượng Kiếp, Ngài đã tu Bồ Tát Hạnh. Trong kinh nói: “Đức Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp Bồ Tát Hạnh, độ chúng hữu tình ra khỏi biển khổ sanh tử, nếu nói về công hạnh độ sanh thì cõi đất nầy không có chỗ nào mà không phải là nơi Bồ Tát bỏ thân mạng vì cứu độ chúng sanh. Ân đức ấy thật thâm sâu vô cùng. Nếu chúng ta muốn thực hiện hoài bão của Đức Phật để gọi là đền đáp thâm ân trong muôn một, chúng ta cần phải Phát Tâm Bồ Đề cầu sanh Tịnh Độ đó là biện pháp an toàn để báo Phật thâm ân.

– Cầu thành mãn quả Vô Thượng Bồ Đề: Trong kinh Hoa Nghiêm Bồ Tát Phổ Hiền phát 10 đại nguyện, Ngài khuyên tất cả hải chúng cần theo 10 đại nguyện cầu sanh Cực lạc, nếu muốn viên mãn quả vị Bồ Đề. Trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận nói: “Bồ Tát muốn tiến thẳng lên Diệu Giác cần phải chứng vào địa vị Bất Thối, mà ở cõi đời ngũ trược ác thế này, gặp lúc không có Phật, muốn chứng được vị Bất Thối Chuyển thật khó vô cùng, vì thế, Bồ Tát cần cầu sanh về Tịnh Độ Cực Lạc, vì về cõi ấy rồi liền chứng ngay địa vị Bát Thối Chuyển, thẳng tiến đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề, đây là cách dễ làm”. Qua hai dẫn chứng trên cho chúng ta thấy, muốn được viên mãn quả vị Vô Thượng Bồ Đề, trong thời mạt pháp nầy chỉ còn có một cách duy nhất là niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc.

Tóm lại, hành giả muốn xa lìa tam giới, thoát khỏi sanh tử luân hồi, cần phải trở về với quả vị Viên Giác, vì hàng nhị thừa vẫn còn biến dịch sanh tử, Bồ Tát hóa độ hữu tình còn phải sợ trạng thái cách ấm, chỉ có Phật quả mới vĩnh viễn thoát ly sanh tử, vì vậy, người tu Tịnh Độ phải vì sanh tử mà phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.


b. Những điểm cần phát tâm:

Tĩnh Am Pháp sư trong Văn Pháp Tâm Bồ Đề có dạy: “Cửa yếu vào đạo trước phải phát tâm, việc yếu tu hành trước nên lập nguyện. Vì nếu không lập nguyện bền chắc, không phát tâm rộng lớn, dù trải qua nhiều kiếp vẫn y nguyên trong nẻo luân hồi, vì vậy người phát tâm lập nguyện phải thực hiện đúng cách mới có kết quả. Thông thường có 8 cách phát tâm như sau:

* Có người tu hành không chịu tham cứu tự tâm, chỉ biết chạy theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, hoặc tham đắm cảnh vui hiện tại, hoặc mong cầu được quả phước ở tương lai mà phát tâm Bồ Đề, phát tâm như thế gọi là .

* Có người phạm lỗi không sám hối chừa cải, bên ngoài nhìn dường như trong sạch, bên trong thật nhơ nhớp, trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn chen lẫn danh lợi, có pháp lành nhưng bị lỗi lầm làm ô nhiễm, người phát tâm còn những điều này gọi là Ngụy.

* Có người xem ba cõi như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người. Phát tâm như thế gọi là Tiểu.

* Người tu thấy chúng sanh và Phật ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, chỗ thấy hiểu không dứt, phát tâm như thế gọi là Thiên.

Tóm lại có một số người phát tâm làm Phật sự nhưng cứ chạy theo hư giả bên ngoài, mua danh trục lợi dối hiện oai nghi, chỉ nghĩ ích lợi cho riêng mình, muốn về chỗ an lạc để trốn oan gia, mê danh chấp ngã, mong cầu phước quả hữu lậu đều là sự phát tâm sai lầm.

* Có người tu không màng danh lợi, không tham cảnh vui, không cầu quả phước, chỉ vì thoát lý sanh tử, lợi mình lợi người mà cầu đạo Bồ Đề, phát tâm như thế gọi là Chánh.

* Có người tu, mỗi niệm trên đều vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn quả vị Bồ Đề cao mà không khiếp sợ, thấy loài hữu tình khó độ mà chẳng sờn lòng. Tâm bền vững như lên núi cao quyến đến đỉnh, như leo tháp cao chín tầng quyết đến tầng chót, phát tâm như thế gọi là Chơn.

* Có người tu thấy cõi này chúng sanh được giải thoát hết, nguyện mới hết, đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành, phát tâm như thế gọi là Đại.

* Biết chúng sanh và Phật đạo đều trong tự tánh nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy chúng sanh được độ, phát tâm như thế gọi là Viên.

Tóm lại, người phát khởi tâm quyết chứng quả vị Vô Thượng Bồ Đề là người muốn thoát ly sanh tử, nên trên cầu thành Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, quyết tâm thực hiện cho đến kỳ cùng, không phải vì vui riêng mà vì giải thoát cho mình và cho tất cả mọi người, do đó phát thệ nguyện rộng lớn độ hết tất cả chúng sanh. Người phát tâm như thế mới gọi là người phát tâm chơn chánh.


c. Những điểm lập nguyện:

Sau khi đã phát tâm, hành giả cần phải lập nguyện rộng lớn. Thông thường người tu Tịnh Độ phải phát 4 điều nguyện lớn:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Giáo lý của Đức Phật nhằm xây dựng hai phương tiện sự và lý, vì vậy, chúng ta cần phải hiểu thâm ý cả sự lẫn lý mới khỏi rơi vào thiên kiến, dù vậy, sự và lý bao giờ cũng dung thông không ngăn ngại nhau.

Về Sự: chúng sanh là những sinh mạng có tình thức, do tứ đại ngũ uẩn họp thành, do cha sanh mẹ đẻ mà có ra thân. Nếu đã có thân thì phải gánh chịu muôn ngàn nỗi khổ, nào ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ cứ vây quanh. Tuy chúng sanh có khổ vô lượng mà chúng ta cũng nguyện độ hết, chúng sanh có vô biên mà nguyện chúng ta cũng vô biên. Đây là duyên theo Khổ Đế mà lập nguyện.

Về Lý: Trong tự tánh của chúng ta, vô minh vọng tưởng luôn luôn sanh diệt, sự sanh diệt tiếp nối gọi là tâm chúng sanh, vọng tưởng sanh diệt vô biên, nhưng người phát tâm Bồ Đề cương quyết (nguyện) độ hết.

Phiền não vô tận nguyện dứt trừ: Về Sự: phiền não tức là ba hoặc. Hoặc là vọng tưởng mê hoặc. Kiến hoặc và tư hoặc là phiền não của chúng sanh trong sáu đường. Trần sa hoặc là phiền não của Nhị Thừa. Vô minh hoặc là phiền não vi tế của Bồ Tát, chỉ có Phật mới hoàn toàn thanh tịnh không còn phiền não. Chúng sanh nhơn mê mà thêm mê, suốt ngày gom chứa các vọng tưởng phiền não, chúng ta nguyện làm cho dứt sạch, phiền não tuy vô tận mà nguyện dứt trừ của chúng ta cũng vô tận. Đây là duyên theo Tập Đế mà pháp khởi thệ nguyện. Về Lý: tâm thể chúng ta từ xưa nay vốn vẫn thanh tịnh, ở thánh không thêm ở phàm không bớt, nhưng vì một niệm vô minh vọng tưởng tạo ra, phiền não vô tận, vì vậy, hành giả phát tâm Bồ Đề cần trở về với tự tánh thanh tịnh của mình thì huyễn phiền não dù vô tận cũng dứt sạch.

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Về Sự: Chúng sanh trong 9 cõi căn cơ có ngàn sai muôn khác, nên Như Lai nói pháp có rất nhiều cách, chúng ta cũng nguyện học hết. Chứ Phật có vô lượng pháp môn, nguyện chúng ta cũng vô lượng. Đây là duyên theo Đạo Đế mà phát thệ. Về Lý: Tự tánh chúng ta có đầy đủ vô lượng pháp môn. Vì vậy, người phát tâm Vô Thượng Bồ Đề cần trở về tự tánh đầy đủ muôn pháp của chính mình.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Về Sự: Như Lai ba hoặc đều sạch, hai sanh tử đều tiêu, thanh tịnh làu làu, mảy bụi chẳng dính, chín giới đồng nương. Địa vị của Phật không có ai trên. Nguyện của chúng ta cũng không ai trên. Đây là duyên theo Diệt Đế mà phát thệ. Về Lý: tất cả chúng sanh đều có tánh viên giác, nhưng bị vô minh đưa vào huyễn cảnh, đổi vóc thay hình, nhưng tánh viên giác vẫn không thay đổi, sáng suốt, chẳng có ai hơn. Người phát tâm Bồ Đề cần phải biết huyễn để xa lìa, lìa huyễn thì Phật đạo vô thượng tự nhiên thành tựu.

Tóm lại, chúng sanh sở dĩ có thánh phàm, nhiễm tịnh đều từ đương niệm mê và ngộ; Nếu đương niệm mê thì theo cái dụng của nhiễm duyên mà có sanh tử trong chín cõi. Nếu đương niệm ngộ thì tùy theo cái dụng của tịnh duyên thì có cảnh Phật diệu minh. Vì thế, chúng sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo đều là cái dụng sẵn có trong thể tánh của chúng ta. Tuy cái dụng có nhiễm, có tịnh mà thể tánh của chúng ta không hề thay đổi, như mặt gương hiện ra cảnh tốt, xấu mà thể của tấm gương vẫn không thay đổi. Nếu chúng ta đương niệm mà được lãnh ngộ thì chúng sanh, phiền não vốn không cần dứt trừ mà nó liền bị dứt trừ. Pháp môn và Phật đạo vốn không cần chứng mà tự nhiên chứng được. Sự và lý rõ ràng không còn gì đáng nghi nữa! Như thế, người phát tâm Bồ Đề cần phải quyết tâm về Tịnh Độ để trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh.


d. Phải quyết tâm thực hành:

Phát tâm Bồ Đề là một quyết tâm thực hành chứ không phải là những lời nói suông, vì thế, hành giả cần phải y cứ vào việc tùy thuận tâm Bồ Đề mà thực hành mới được gọi là phát tâm Bồ Đề. Tùy thuận tâm Bồ Đề có Vô Nhiễm Thanh Tịnh Tâm, An Thanh Tịnh Tâm và Lạc Thanh Tịnh Tâm.

* Vô Nhiễm Thanh Tịnh Tâm: Người y cứ vào trí huệ môn, không vì tìm cầu các điều vui cho riêng mình, vì Bồ Đề là chỗ vô nhiễm và thanh tịnh. Vì thế, hành giả phải có tâm giác ngộ và bình đẳng.

Thế nào là tâm giác ngộ? Chúng ta thường chấp sắc thân này là của ta, nhưng thật ra thân người như bọt tụ, tâm như gió, huyễn hiện vô căn không thức tánh. Nếu giác ngộ được thân và tâm như huyễn thì không còn chấp trước, lần lần đi vào cảnh “Ngã Tướng Không”. Cái ngã của ta đã không thì cái ngã của người khác cũng không, nên “Nhơn Tướng cũng không”. Cái ngã của mình và người cũng không thì “chúng sanh tướng cũng không”. Cái ngã đã không, nên không có cái bản ngã lâu bên, nên không có “Tướng Thọ Giả”. Do đó, cảnh chứng Niết bàn thường trụ cũng không. Nhơn đã không, thì pháp cũng không, người tu giữ lòng thanh tịnh trong sáng, giác ngộ ngã pháp không, không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng như thế mà hành đạo gọi là Phát Bồ Đề Tâm.

Thế nào là tâm bình đẳng? Đức Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nhưng bị tâm phân biệt khởi niệm thiện ác làm lu mờ chơn tánh, như gương trong bị vết mực bôi vào trở thành lu mờ. Lại nữa, tâm chúng ta từ vô thỉ đến nay luôn luôn thanh tịnh sáng suốt mà ta cứ bỏ quên, như chàng cùng tử có viên ngọc như ý bỏ trong túi mà vẫn nghèo khó làm thuê. Do đó, người dẹp được tâm phân biệt để niệm khởi không còn, nhớ và sống với tánh giác, dùng tâm bình đẳng như thế mà hành đạo gọi là Phát Tâm Bồ Đề.

* An Thanh Tịnh Tâm: Người y cứ vào từ bi môn, vì nhổ hết tất cả khổ não của chúng sanh, để họ xa lìa khỏi sanh tử, tâm thường an ổn thanh tịnh, muốn thế hành giả phải dùng tâm từ bi và hỉ xả để độ mình và độ người.

Thế nào là tâm từ bỉ? Chúng ta và mọi người đều sẵn có đức tướng Như Lai, nhưng vì bị khởi hoặc làm mê mờ chơn tánh nên phải chịu cảnh luân hồi. Đã rõ được như thế, chúng ta phải dứt trừ tâm thương ghét phân biệt, khởi lòng cảm hối, lấy từ bi làm phương tiện độ mình cứu người để cùng an vui giải thoát. Dùng lòng từ bi hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Thế nào là tâm hỉ xả? Đã có lòng từ bi phải thể hiện lòng ấy qua tâm hoan hỉ. Thấy người làm được việc lành gì mình cũng đều tùy hỉ. Thấy họ làm những điều tội lỗi nào cũng đều ẩn nhẫn hỉ xả bỏ qua. Người có lòng hỉ xả sẽ trừ được chứng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỉ xả giải được chướng hận thù báo phục. Dùng lòng hỉ xả hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

* Lạc Thanh Tịnh Tâm: Người y cứ theo phương tiện môn, muốn làm cho chúng sanh được quả vị Đại Bồ Đề, nên nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh về cõi Cực Lạc, chỉ có nước An Lạc kia mới làm cho chúng sanh tâm được hoàn toàn an lạc. Do đó người phát tâm Bồ Đề phải thực hiện tâm sám nguyện và tâm tinh tấn lâu bền.

Thế nào là Tâm Sám Nguyện? Trong kiếp luân hồi, mỗi người tạo vô biên tội nghiệp, ngày nay đã giác ngộ phải hổ thẹn ăn năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối để dứt sạch lỗi xưa và nguyện không còn khởi vọng lại. Có tâm sám nguyện thì tội chướng tiêu trừ, công đức ngày càng thêm lớn đi đến chỗ phước huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám nguyện để hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Thế nào là tâm tinh tấn lâu bền? Con đường đến Phật quả xa vời, nhiều thử thách gian nan, nếu người không bền chí quyết tâm tiến lên sẽ phải lui sụt. Vì thế, người phát tâm Bồ Đề phải phát nguyện kiên cố, thề không thối thất tâm ban đầu. Thân này dù tan nát cũng không vì thế mà làm những điều ác. Dùng lòng tinh tấn lâu bền mà hành đạo gọi là phát tâm Bồ Đề.

Tóm lại, người thực hành tùy thuận tâm Bồ Đề trước phải giác ngộ, ngã và pháp đều không, niệm thiện và ác không khởi, nhớ tánh giác rõ ràng để trừ dứt sự mê lầm về thân và tâm. Kế đó, phải dùng lòng từ bi, hỉ xả dẹp hết lòng thương ghét phân biệt, tâm tật đố nhỏ nhen, lấy lòng thương cứu độ chúng sanh làm cho mọi người dứt khổ, đồng thời chuyên tâm niệm Phật để dẹp trừ phiền não, quyết tâm làm cho mình và người được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Đây là những điểm then chốt để người phát tâm làm tiêu chuẩn thực hành, nếu không nương nơi đây mà lập chí thì việc nói phát tâm chỉ là nói suông, chẳng có lợi ích gì!

Bản hoài của Đức Thích Ca Mâu Ni là: “Khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật” của chính mình để từ đó thoát ly hẳn khỏi sanh tử. Ngài không dạy chúng sanh tu hành được phước báo ở cõi nhơn thiên như sanh làm người giàu sang, gia đình hạnh phúc, làm vua chúa uy quyền tột bậc, hoặc sanh về cõi trời hưởng phước lạc ngàn muôn năm. Ngài không dạy chúng ta đạt thành quả vị Thanh Vân, Duyên Giác an lạc trong Niết Bàn hữu dư Tiểu Thừa chuyên cầu tự lợi, hoặc Bồ Tát quyền thừa, mà Ngài chỉ dạy cho chúng ta y cứ vào Phật thừa mà phát tâm. Tại sao thế? Vì sanh tử là việc lớn của kiếp người, chúng ta đang luân hồi trong phần đoạn sanh tử, xuống lên trong ba nẻo sáu đường, đổi mặt thay hình chịu khổ vô cùng. Hàng Nhị Thừa tuy khỏi phần đoạn sanh tử trong ba cõi, nhưng vẫn còn bị biến dịch sanh tử. Tuy trạng thái khổ vui có khác nhau nhưng vẫn còn trong sanh tử là còn khổ. Bồ Tát Quyền thừa vẫn còn bị cái mê cách ấm, nên vẫn coi là chưa thoát hẳn khổ sanh tử, chí có quả Vô Thượng Bồ Đề hay Phật quả mới là quả vị cứu cánh thoát khỏi ngoài vòng sanh tử.

Vì thế, người tu hành đạo Phật cần phải phát tâm làm Phật, quyết định lấy quả vị Vô Thượng Bồ Đề làm mục tiêu, dẹp bỏ những tư tưởng tà, ngụy, tiểu, thiên mà phát tâm theo chánh, chơn, đại, viên, đồng thời lập bốn nguyện lớn và thực hành ba tâm tùy thuận Bồ Đề.


2. Tin Sâu lý nhân quả:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau năm năm tìm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, Ngài đã tìm ra chân lý phổ biến trong vũ trụ, chơn lý tương đối và chơn lý tuyệt đối. Một trong những chơn lý phổ biến là luật nhân quả. Người tin sâu luật nhơn quả là người có tinh thần khoa học, có hành động đúng đắn, có tinh thần trách nhiệm, trách nhiệm đối với bản thân, đối với những người chung quanh và luôn luôn làm điều thiện. Trái lại, người không tin luật nhân quả là những người thường có những hành động bừa bãi làm càng, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân và xã hội, thường làm nhiều việc ác, phải chịu khổ suốt đời.

Nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả, như ở thực vật, hạt giống là nhân và trái là quả. Luật nhân quả trùm khắp mọi vật. Về vật chất gồm những vật vô tri, thực vật, động vật và con người. Về tinh thần gồm tất cả hành vi và tư tưởng không có một vật nào vượt ra ngoài nhân quả. Tuy vậy, trong nhân quả có nhiều yếu tố kết hợp như chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, nghịch nhân. Nên từ gieo nhân đến kết quả có nhiều sự sai khác. Có khi nhân ngọt mà ở trong một hoàn cảnh sai biệt sẽ có kết quả chua, trái lại có những nhân chua nếu biết cải tạo hoàn cảnh sẽ có quả ngọt. Đây là những điểm then chốt mà người tu có thể cải tạo để hột giống ác có kết quả thiện. Như thế, muốn có kết quả tốt ta phải khéo léo trong việc gieo nhân hoặc cải tạo hoàn cảnh để kết quả như ý muốn. Ngoài ra có những nhân quả quá nhỏ nhiệm hoặc quá lâu xa, chúng ta thấy tựa hồ như không có. Nhưng thực ra không có kết quả nào là không có nguyên nhân và đức Phật dạy, nhân quả thông cả ba đời.

Nhân quả thông cả ba đời là phát huy triệt để lý nhân quả. Có người cho rằng nói nhân quả là Tiểu Thừa không nên đề cao. Đó là những lời nói suông của những người không có đạo đức chơn thật. Đức Như Lai thành bậc Chánh Giác, chúng sanh đọa vào ác đạo, đều không ngoài lý nhân quả, tại sao cứ nhìn có một phía mà cho là Tiểu Thừa? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng nhập”. Như thế, trí tuệ, đức tướng là tánh đức sanh ra chứ Phật, có vọng tưởng chấp trước mà xa rời được tức là trở về với chư Phật, đó là tu đức. Tu đức có thuận có nghịch; nếu thuận thì tu càng ngày càng gần với chư Phật và cuối cùng sẽ được triệt chứng triệt ngộ. Trái lại nghịch tu mỗi lúc mỗi xa Phật và cuối cùng sẽ bị đọa vào ác đạo.

Trong kinh nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả“. Bồ Tát sợ gặp quả xấu, nên trước trừ cái nhân xấu, do đó mà tội nghiệp tiêu diệt, công đức viên mãn thành Phật. Trái lại, chúng sanh thường gây nhân ác lại muốn khỏi quả ác, nên trước đèn trốn bóng, nhọc công chạy đông chạy tây cuối cùng quả ác vẫn đến. Có người vừa làm được chút lành, hy vọng được phước to, mỗi khi có nghịch cảnh lại trách rằng làm lành gặp dữ, không có nhân quả, do đó lui sụt lòng làm việc lành, khinh chê Phật Pháp. Họ đâu biết rằng nhân quả thông cả ba đời, cốt yếu là chuyển biết do tâm. Nếu hiện đời làm việc lành hoặc việc dữ, trong hiện đời được hưởng phước hay mắc họa gọi là quả báo hiện tiền, nếu làm lành dữ đời này mà đời sau hưởng phước hay mắc họa đó là quả báo tương lai. Tất cả đều do tâm chuyển, nhưng chậm hay mau gì chắc chắn cũng phải trả hết. Tóm lại, không có nhân nào mà không có quả, chỉ có vay trả chậm hay mau mà thôi.

Việc họa phước có chậm hay mau là do tâm chuyển, như có người tạo nhiều ác nghiệp lẽ ra phải bị đọa vào địa ngục, nhiều kiếp chịu khổ, những người ấy nhờ có nhân duyên nghe pháp sanh lòng hổ thẹn, phát đại Bồ Đề tâm, bỏ dữ làm lành, tụng kinh, niệm Phật, tự độ, độ tha, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc. Do sự chuyển biến đó hoặc đời bị người khinh chê, hoặc mắc bệnh khổ, hoặc chịu cảnh bần cùng, đối với tất cả mọi việc đều không vừa ý. Những tội ác trước lẽ ra phải chịu đọa nơi địa ngục, nhờ có tâm chuyển tu hành mà tội nặng ấy tiêu diệt. Kinh Kim Cang dạy: “Nếu có người thọ trì kinh này, bị người khác khinh chê, người ấy tội nghiệp đời trước rất nặng, đáng đọa vào địa ngục, vì đời này bị người khinh chê đó, nên tội nghiệp đời trước liền bị tiêu diệt, sẽ chứng được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Một chứng minh để thấy rõ sự chuyển biến diệt tội này: Trong xóm có anh A thường có những lời nhục mạ, những hành động gây nhiều tội ác và ý nghĩ luôn luôn muốn tìm cách hại anh B, nhưng có duyên tình cờ anh A được biết những điều sai lầm của việc làm từ trước đến nay đối với anh B, do một vị minh sư chỉ rõ. Anh trở về với lòng hổ thẹn muốn thành tâm sửa lỗi mà từ lâu anh gieo khổ đau cho anh B. Anh B với thù hận thiên niên, giờ thấy anh A thật lòng hối cải, anh cũng bằng lòng bỏ tất cả tội trước, bắt tay thân thiện vui vẻ. Nhờ có tâm chuyển biến mà anh A đã tiêu diệt thù hận thiên niên giữa anh và B.

Niệm Phật tuy có thể diệt được nghiệp trước, nhưng chúng ta cần phải sanh lòng hổ thẹn, sanh lòng sợ sệt, chuyển tâm lợi mình hại người của chúng sanh, thành tâm khắp lợi ích cho chúng sanh của Bồ Tát. Dù cự nghiệp hay hiện nghiệp đều nhờ vào ánh sáng của hiệu Phật trong tâm đại giác ngộ mà nghiệp đều tiêu diệt hết.

Họa phước không cửa chỉ tự mình tìm ngõ vào, quả báo lành dữ như bóng theo hình, lợi người tức là lợi mình, hại người mình bị rất nhiều tai hại. Mình giết cha anh người, người sẽ giết lại cha anh mình. Mình thờ cha mẹ hết lòng, con cái sẽ hiếu thảo với mình. Mình tốt với anh em mình, các cháu sẽ đối tốt với con mình. Như thế, hiếu thuận cha mẹ, thân kính anh em, yêu người yêu vật đều là nền tảng phước đức của mình trong tương lai. Hại người lợi mình, làm việc thương luân, hại lý đều là nguồn gốc của tai họa. Dù người khờ khạo đến đâu cũng không muốn mình bị tại hại, vui nhận việc hung, xa lìa việc tốt, nhưng vì họ chưa hiểu rõ lý nhân quả. Nếu biết được lý nhân quả thì lòng tham sân sẽ không nhiều, không dám gây tội sát, trộm, dâm, thương người, lợi vật, hợp lòng trời, biết mạng mình là hợp với lý nhân quả.

Tâm thể Phật với chúng sanh là một, nhưng chỗ thọ dụng khác nhau. Phật có hoài bão đem lòng từ bi độ thoát tất cả chúng sanh, hoàn toàn không có kia đây, ta người. Dù độ hết chúng sanh, không thấy có người được độ và kẻ độ nên phước huệ đầy đủ. Trái lại, chúng sanh dù là cha mẹ anh em là người thân vẫn còn ý tưởng kia đây, vì thế bị hoặc nghiệp lôi vào chốn tam đồ. Việc trong thiên hạ đều do nhân duyên mà thành, tuy có người làm được, thành công hoặc thất bại là do quyền lực của nhân đời trước mà bây giờ có hiện duyên. Nếu biết được như thế thì có thể ở yên, hiểu rõ vận mệnh của mình, không oán trời, không trách người, cứ theo việc thiện mà làm, không có việc gì không được.

Người tin sâu nhân quả là người biết làm chủ cuộc đời mình, tin người là kẻ sáng tạo, có một sức mạnh vô vùng quý báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt, vì những hành động tốt đẹp ấy họ biết sẽ là cái nhân quý báu đem lại những kết quả tốt đẹp. Nhờ tin vào luật nhân quả mà người Phật tử không còn mê tín dị đoan, không còn hướng ngoại, nhờ vào người khác mà biết chắc chắn kết quả đều do mình gây nhân. Đồng thời người tin sâu nhơn quả sẽ biết hành động nào là trợ nhơn, và thuận nhơn để theo đó mà làm thì chắc chắn có kết quả như mong muốn. Như người niệm Phật là nhơn thì vãng sanh là quả, nếu chúng ta biết tu phước làm trợ thuận nhơn thì niệm Phật chánh nhơn sẽ trở thành thắng nhơn, phước và huệ hoàn hảo dễ dàng tiến lên Phật quả.

Người tin sâu nhơn quả là người biết Phật do tâm làm, độ do tâm mà thành tựu, tâm có thể vậy quanh lục hợp, hội thông vạn hạnh, bởi vì tâm là pháp vô thường, sự có định, có bình, nương theo lành dữ để chuyển tội thành phước, cấu thành tịnh, nhơn đã tịnh thì quả cũng tịnh không hề sai chạy. Người tu cũng cần nên biết, thấy cảy mà đông là nhơn, động rồi sanh ra thức là duyên, có duyên là có nghiệp theo sau, có nghiệp là có quả báo. Vì thế, làm lành làm dữ là cái nhơn của thế gian, chín phẩm hóa sanh là cái quả xuất thế gian. Trong tâm sáng tỏ nên không say đắm pháp thế gian và xuất thế gian, tâm thực hành không trái là trung đạo. Mỗi niệm không quên nơi Tịnh Độ, mỗi tâm không rời Phật A Di Đà, bây giờ là nhơn, lâm chung là quả. Nên biết nhơn đã thật thì có quả chắc không hư. Con đường thiện ác có quả báo khổ vui đều do ba nghiệp tạo ra, bốn duyên đã sanh thì chỗ thành tựu thuộc về năm quả. Một niệm tâm sân nhuế, tà dâm là nghiệp địa ngục, xan tham không xả là nghiệp ngạ quỷ, ngu si che ngăn là nghiệp súc sanh, ngã mạc cống cao là nghiệp tu la, giữ chắc năm giới là nghiệp làm người, tin tu 10 thiện là nghiệp làm trời, chứng ngộ nã không tức nghiệp Thanh văn, biết duyên tánh hợp ngã không tức nghiệp Duyên Giác, sáu độ đều tu là nghiệp Bồ Tát, chơn từ bình đẳng tức nghiệp Phật. Nếu tâm tịnh thì đài thơm cây báu cõi tịnh hóa sanh. Tâm nhỏ thì gò nổng hang hố cõi uế thọ hình đều là nhơn quả bình đẳng. Kinh Duy Ma dạy: “Muốn được cõi tịnh trước phải tịnh tâm mình”. Nên biết tất cả đều về tâm, muôn pháp do ta tạo, muốn có quả tịnh phải thực hành tịnh nhơn, còn những kẻ cực ác, tà kiến nhất định bị đọa ngàn kiếp vào trong địa ngục. Nhơn quả rõ ràng mỗi ngày phải lấy nhơn quả làm bằng cần thường cân nhắc.


3. Đọc tụng kinh điển Đại Thừa:

a. Định nghĩa:

Thế nào là đọc tụng? Danh từ đọc tụng thường dùng chung, nhưng mỗi chữ đều có một nghĩa riêng khác nhau. Đọc (read) là nghiên cứu, nghiền ngẫm ý nghĩa trong bài. Đọc có thể đọc thầm hay đọc thành tiếng nhưng không cần có âm điệu, đọc bất cứ ở chỗ nào miễn là mình thấu đạt được nghĩa ý trong bài. Tụng (chant) là đọc thành tiếng của một bài có đầy đủ âm điệu như một bài hát. Người tụng kinh thường đối trước bàn Phật hoặc ở chỗ trang nghiêm. Tóm lại người đọc nhằm mục đích nghiền ngẫm ý nghĩa lý của kinh. Người tụng nhằm mục đích thực hiện một phương pháp tu để lợi mình lợi người.

b. Thế nào là kinh điển Đại Thừa?

Kinh điển Đại Thừa là những bài văn, quyển sách nói về chỗ liễu nghĩa tuyệt đối của giáo lý. Đại Thừa là đối với Tiểu Thừa mà nói. Đại Thừa là cổ xe lớn có khả năng chở mình và người đến bờ kia, còn Tiểu Thừa là cổ xe nhỏ chỉ có khả năng chở mình mà không thể độ người. Giáo lý Tiểu Thừa chỉ ở trong tương đối không liễu nghĩa. Như thế, kinh điển Đại Thừa là những quyển sách bìa vàng, trục đỏ ghi lại những lời vàng ngọc suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp của đức Thích Ca Mâu Ni, chuyên đưa người đến chỗ cứu kính thành Phật.

c. Cách đọc tụng kinh điển Đại Thừa.

Kinh điển Đại Thừa luôn luôn chỉ thẳng Phật tánh, nên người đọc tụng phải biết giáo pháp của Phật chỉ có một vị là vị giải thoát và kinh điển Đại Thừa chỉ hiện bày một việc là mở chỉ cho chúng sanh ngộ vào tri kiến Phật. Nói một cách khác là chỉ cho chúng sanh nhận ra được Phật tánh của chính mình. Phật tánh của chúng sanh vốn không hình tướng, tuyệt cả đối đải, vượt hẳn không gian và thời gian, thoát ngoài vòng ngôn ngữ văn tự, không có phân biệt. Nó luôn luôn hằng có mặt mà chúng ta không biết nó. Thể nó vốn không hai, nói thân không nhằm, chỉ tâm không trúng, vì thân và tâm là hai nhục thể hòa hợp sinh hoạt trong một môi trường chủ, mà chủ chính là nó, do đó ảnh hưởng của nó liên hệ rất chặt chẽ. Vì vậy, người muốn thấy nó cần phải khéo léo nhận ra từ những nơi lưu lộ của nó mà kinh điển Đại Thừa luôn luôn chỉ thẳng bộ mặt thực của nó.

Ngôn ngữ của kinh điển Đại Thừa có nhiều điểm sai khác mà người đọc tụng cần phải hiểu rõ. Ngay từ khi mới thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, đức Thích Ca Mâu Ni đã chỉ thẳng Phật thừa, nhưng khổ nỗi chính chúng ta đều không hiểu, vì thế, bất đắc dĩ Ngài phải dùng phương tiện có khi nói quả nói nhơn, có khi nói sự nói lý, có khi nói tánh nói tướng, có khi nói thiệt nói quyền, có khi nói thân nói tâm, có khi nói chơn nói tục, mục đích là lần đưa chúng sanh trở về với thực thể. Vì vậy, những chi tiết mà đức Phật nói ra đều là những biểu tượng chỉ rõ sự chuyển biến của tâm linh để người đọc tụng từ nơi đó mà nhận ra lẽ thực. Cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta đừng tưởng ngón tay là mặt trăng, mà phải nương theo hướng ngón tay rồi nhìn thẳng lên mới thấy được mặt trăng.

Tựa đề kinh Đại Thừa đều nhằm chỉ thẳng Phật tánh, thường dùng hình ảnh người, pháp, hình ảnh thí dụ để chỉ ra vật ấy. Như kinh Vô Lượng Thọ là dùng tên người để chỉ, vì đức Phật Vô Lượng Thọ sống lâu vô lượng, ngầm chỉ rằng Phật tánh chúng ta vốn không sanh diệt, một cái mà chưa hề sanh diệt thì tuổi thọ làm sao lường được, để từ đó chúng ta nhận ra tánh không sanh diệt của mình, sống với tánh vô sanh là đạt đạo thành Phật. Vì thế, Tổ Thiên Thai Tông, Ngài Trí Giải Đại Sư khi sắp viên tịch, Ngài bảo đồ chúng hãy xướng đề kinh Quán Vô Lượng Thọ và Ngài an nhiên thị tịch chính là ý này.

Kinh Pháp Hoa lấy thí dụ hoa sen để chỉ rõ Phật tánh của chúng ta ở thánh không thêm ở phàm chẳng bớt. Tuy sống trong uế trược mà Phật tánh vẫn rạng ngời như hoa sen kia tuy ở trong bùn sanh ra mà vẫn thanh khiết không hôi mùi bùn. Tổ Huệ Năng khi thấy tánh đã nói: “Nào dè tự tánh vốn vẫn thanh tịnh“.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ là lấy pháp để chỉ rõ Phật tánh, người quán tưởng sẽ thấy tâm mình là Phật, tâm mình làm Phật. Tựa kinh có khi chỉ lấy đon nhơn, đơn pháp, đơn dụ để thành lập, đôi khi cũng dùng chung hoặc nhơn, pháp hoặc nhơn, pháp, dụ, nhưng trọng tâm vẫn chỉ chỗ cứu kính là Phật tánh của chúng sanh. Tuy tùy theo căn cơ của chúng sanh lúc nói thật, lúc nói quyền, lúc nói tướng, lúc nói tánh, nhưng tất cả lời Phật nói ra đều là chơn thật, chỉ vì chúng sanh nghiệp thức mênh mang nên không nhận ra được đó thôi. Vì thế, trong kinh Pháp Hoa đức Phật dạy: “Đức Như Lai luôn luôn nói lời chơn thật, các ngươi cần phải tin chắc.”


d. Trọng tâm của đọc tụng kinh:

Giáo lý của Phật là những khuôn vàng thước ngọc để người đọc nhờ đó mà hiểu rõ chỗ thâm diệu. Muốn hiểu rõ chỗ thâm diệu dễ dàng, người đọc tụng trước tiên cần phải hiểu rõ chỉ thú của kinh. Bất cứ bộ kinh Phật nào cũng đều chỉ dạy những phương pháp tu tập để chúng sanh tu, nhưng mỗi phương pháp là một phương thuốc trị bệnh, do đó, khi đọc tụng, chúng ta cần phải hiểu rõ trọng tâm của phương thuốc đó trị bệnh gì, trị bệnh đúng thuốc bệnh sẽ mau lành. Mỗi bộ kinh Đại Thừa đều có những phương pháp tu, nếu chúng ta nhận ra được chỗ chỉ thú thì những hình ảnh diễn tả trong kinh, những yếu chỉ tu hành chúng ta sẽ thấy rõ ràng. Một vài thí dụ để làm sáng tỏ:

Kinh Pháp Hoa ngay từ đầu Phật đã nói rõ: “Đức Phật ra đời vì một nhân duyên lớn là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.” Toàn kinh chỉ nhằm trong bốn chữ: Khai, thị, ngộ, nhập. Do đó, toàn kinh được chia làm bốn phần, mỗi phần đều hoàn thành trọng tâm của mình. Trong phần nhập (vào) đức Phật dạy tu phương pháp diệt trừ ngũ uẩn, vì vậy, chúng ta thấy hình ảnh Dược Vương đốt thân là trừ sắc uẩn, Quán Âm cứu khổ là trừ tưởng uẩn, hiểu được như thế đối với hình ảnh biểu trưng chúng ta mới nhìn thấy hết chỗ thâm diệu.

Kinh A Di Đà dùng phương tiện hân và yểm để có tin sâu, nguyện thiết, trì danh tương tục nhất tâm bất loạn để vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Hiểu được chỉ thú ấy chúng ta mới nhận ra được cái vi diệu của bộ kinh.

Trong mỗi bộ kinh đều có một phương pháp trình bày, người đọc tụng cần hiểu rõ tông chỉ thì mới lãnh hội được toàn diện. Vì thế, người đọc tụng trước khi thọ trì đọc tụng cần phải nhờ thiện tri thức hướng dẫn, hoặc đọc rõ phần chú giải để tìm ra chỉ thú, rồi sau đó đọc tụng mới hoàn toàn lợi ích. Riêng người tu Tịnh Độ cần chuyên trì tụng ba kinh Tịnh Độ thì có nhiều lợi ích hơn.

Người trì tụng kinh có thể thu nhiếp được ba nghiệp không cho tạo ác, vì khi đọc tụng thân không tạo những nghiệp như sát sanh, trộm cướp, tà dâm. Miệng đang tụng nên không tạo nghiệp nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, và nói điều hung ác. Khi đọc tụng ý chuyên chú vào ý kinh nên không tạo nghiệp tham, sân và si. Thu nhiếp ba nghiệp không cho tạo ác, làm ba nghiệp trở thành thanh tịnh, đó là một phương pháp tu có nhiều điểm thù thắng mà Cổ Đức từ xưa đã từng nói: “Ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng về cảnh Tây Phương với Phật“.

Đọc tụng còn có khả năng làm cho tâm chúng ta dừng lặng lại một chỗ, không còn chạy theo sáu trần, con ngựa ý thức bị buộc vào ý kinh, con vượn tâm bị dính vào trục giáo lý. Tâm ý dừng lại một chỗ là tâm định, khi tâm đã định thì huệ pháp sanh. Đo đó, trong kinh Phật dạy: “Giữ tâm lại một chỗ, không có việc gì làm chẳng xong (chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện). Vì thế, nhiều người tụng kinh mà được ngộ đạo.

Nếu nói việc làm đầy đủ hạnh tư lợi và lợi tha thì không công đức nào lớn hơn đọc tụng kinh điển Đại Thừa, vì người đọc tụng ngoài việc tự lợi kể trên, việc đọc tụng còn có khả năng cảm hóa người khác trở về với đạo. Trong bài Nhận Định Về Tín Đồ Phật Giáo Trung Hoa, đại sư Thái Hư đã nhận định như sau: “Gần 80% tín đồ Phật giáo Trung Hoa đều nhờ nghe đọc tụng kinh điển mà phát lòng tin Phật, rồi sau đó mới học hỏi giáo lý“. Như thế năng lực trì tụng kinh điển có một khả năng ảnh hưởng lớn trong việc truyền bá giáo lý đạo Phật. Đồng thời người đọc tụng kinh cũng làm người nghe ngộ đạo. Thuở xưa Tổ Huệ Năng khi còn làm một người bán củi, đi ngang qua nhà trọ, nghe có người tụng kinh Kim Cang tâm liền tỏ ngộ. Nhờ đó mà Ngài đến Tổ Huỳnh Mai, Tổ tụng kinh Kim Cang cho nghe mà chúng thành tổ vị. Vì thế, Cổ Đức thường nói: “Nghe một câu kinh mà có thể thẳng đến đạo Bồ Đề, ngộ nửa bài kệ mà có thể thành Phật đạo (văn nhất cú trực thú Bồ Đề, ngộ bán kệ tề thành Phật đạo)”. Như thế, đọc tụng kinh điển Đại Thừa kiêm cả tự lợi và lợi tha, nên công đức không thể nghĩ bàn.

Tóm lại, người tu Tịnh Độ đã mến Tây phương cần phải có trí huệ dứt nghi sanh tín, phát nguyện vãng sanh, vì hột ngọc ở trong chỗ tối nếu không có ánh đèn chiếu vào, không ai thấy được chỗ quý báu. Gương phủ bụi trần không lau chùi sạch ánh sáng không thể hiển lộ. Vì thế muốn dứt trừ ba nghiệp để được nhất tâm, cần phải cung kính đọc tụng kinh văn, nghiên cứu mùi vị ý thánh, đi sâu vào chỗ cốt yếu của các kinh, rộng tham cứu huyền môn của chư Phật. Như cây Quế sanh ở núi cao chỉ có mây sương mới có thể bám vào, hoa sen ở trong sóng nước nên bụi không làm dơ lá. Tuy tánh sen vẫn luôn luôn sạch, chất quế vẫn tinh nguyên, chỉ vì nó ở chỗ cao tốt nên vật nhơ không thể bám vào, bản chất đã sạch thì vật nhơ không thể bám được. Cây cối vô tri nhờ chỗ tốt mà có phẩm chất tốt, tánh người vốn thiện, tự mình có thể gây nhơn trong tâm để chứng Phật tâm. Nên Trí Giả đại sư tụng kinh Pháp Hoa khoát nhiên đại ngộ và thấy Hội Linh Sơn chưa giải tán. Ngài Khuê Phong đọc Kinh Viên Giác mà tâm địa sáng trưng. Tổ sư Phổ Am đọc kinh Hoa Nghiêm hiểu rõ ý chỉ, ngộ thấy bản lai diện mục. Như thế, chỗ ngộ đạt của Tiên đức đều do đọc tụng kinh điển Đại Thừa, chúng ta là kẻ hậu học hãy hết lòng nghiên cứu.


4. Khuyến tấn hành giả:

Thế nào là khuyến tấn hành giả? Là khuyên giúp cho những bạn đồng hành của mình tiến tu đạo nghiệp. Pháp môn niệm Phật là pháp môn Đại Thừa. Vì vậy, người tu tùy nguyện niệm Phật phải phát tâm Bồ Đề của Đại Thừa Bồ Tát, phải có lòng vị tha, lấy bố thí làm chánh hạnh, lấy tiền của để bố thí cho người, gây thế thiện căn gọi là tài thí. Một lòng thực hiện chánh nhơn niệm Phật không hề lui sụt gọi là Bô úy thí và đem sự hiểu biết chỗ tu của mình, khuyên bảo và giúp đỡ người khác tu, đồng được vãng sanh, đồng thành Phật đạo, đó là pháp thí. Pháp thí có công đức vô cùng to lớn mà người tu cần phải thực hành. Trong kinh Kim Cang Phật dạy: “Này Tu Bồ Đề! Ta nay bảo ông: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đem bảy báu chất đầy hằng hà sa số cõi tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí, phước đức của họ được có nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều“. Phật bảo Tu Bồ Đề: “Nếu có thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào ở trong Kinh Kim Cang này chỉ cần thọ trì bốn bài kệ… Vì người khác giảng nói, phước đức của người giảng nói còn hơn phước đức của người dùng thất bảo đựng đầy hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí kia.” Thực vậy, bố thí bằng vàng, bạc, vật báu tuy có phước đức, nhưng đó là phước đức hữu lậu, có đó rồi mất, sau bằng phước đức vô lậu miên viễn hằng còn. Như người bố thí cơm gạo, người nhận thí sẽ no được một ngày, người bố thí thuốc có thể giúp an ổn một thời, nhưng cuối cùng cũng phải chịu sanh tử. Người khuyên kẻ tu hành cố gắng siêng năng, chuyên tu vãng sanh về cõi Cực Lạc, tuổi thọ vô lượng vô biên, thì người khuyến tấn công đức cũng vô lượng vô biên.

Lòng đại bi là bản hoài của chư Phật, lợi tha là chánh hạnh của Bồ Tát, siêng năng tinh tấn là chánh nhơn của tịnh nghiệp. Thời Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư lập liên xã, quy tụ các cao hiền, cùng nhau sách tấn tu hành, đồng một lòng cùng sanh an dưỡng, nhờ có sự khuyến tấn lẫn nhau mà toàn liên xã gồm 123 người đều được tam muội, đều có thoại ứng vãng sanh. Tất cả chúng sanh trong mười phương ai cũng muốn thoát ly Ta Bà vì sanh tử khó trốn, vô thường đến mau, nhưng vì không có phương tiện và người khuyến tấn nên đành bỏ mặc xuôi tay, sao chúng ta không noi gương các bậc hiền triết, tiếp dẫn người sau, khuyên tu một người lên đến nhiều người, đó là pháp thí của Phật. Là người tại gia chúng ta cần phải biến tài thí thành Pháp thí bằng cách góp phần vào việc ấn tống kinh điển Tịnh Độ, ấn tống băng ghi âm giảng về Tịnh Độ, giúp đỡ những người bạn không có phương tiện đến chùa nghe giảng, nếu chúng ta có phương tiện, trợ niệm khi có người sắp quá vãng hay đã quá vãng, cùng nhau gia nhập trong liên xã, liên hữu, sách tấn nhau để tu tập. Là người xuất gia phải lấy việc hoằng truyền Tịnh độ là sự nghiệp, hằng ngày sách tấn khuyên tu. Mỗi ngày khuyên tấn được một người thì mỗi năm có được nhiều người niệm Phật, cứ tinh tấn khuyên tấn như thế chứa ít lần thành nhiều, thiện căn vô lậu lần trở thành vô lượng.

Trong kinh dạy: “Người đem hết bảy báu trong bốn châu thiên hạ cúng dường Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác sẽ được phước rất nhiều, nhưng không bằng khuyên người niệm Phật một tiếng, phước niệm Phật còn lớn hơn phước cúng dường kia“. Người khuyến tấn kẻ khác niệm Phật là người làm theo tâm Phật, nghe lời Phật dạy, khuyên người tiến tu đồng về chánh giác, nên công đức trở thành vô lượng. Người tạo phước đức hữu lậu, tuy cũng có kết quả nhưng còn bị hạn hẹp trong vòng luân chuyển, đâu bằng dùng pháp thí để người được ra khỏi ba cõi, chứng quả Niết bàn, công đức ấy đâu thể so sánh trong muôn một được. Tài thí như một ngọn đèn sáng chỉ chiếu đủ một phòng, pháp thí như mặt nhật chiếu sáng cả đại địa. Thương người mà không khuyên tu là vô tình để họ phải chịu nhiều kiếp khổ trong ngục tối. Người niệm Phật mà còn khuyên người niệm Phật, đời này chính thật là Di Đà. Người tu tịnh nghiệp phải rộng trải tâm lành, cần nên răn nhắc, kẻ niệm Phật phải theo bi nguyên rộng kết tịnh duyên, lấp sông ái nhấp nhô, ra khỏi vòng bể khổ, đồng về Cực Lạc, đồng báo Phật ân. Công đức pháp thí là căn lành vô lậu, phước đức nhiều không thể nghĩ bàn.

Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác vô minh mà luân chuyển mãi trong vòng sanh tử. Một đời sống này chấm dứt thì một đời sống khác lại bắt đầu. Cái chết mang thân này đến đoạn cuối, nhưng đời sống chính nói lại tiếp tục mãi mãi và những thân nầy tiếp nối với những thân khác không bao giờ dứt. Sanh tử trong cõi Ta Bà là một con đường hiểm trở, cõi Cực Lạc là quê hương thường trụ muôn đời, nếu người muốn có một cuộc sống an lành cần phải ra khỏi cõi Ta Bà hiểm ác, cách duy nhất để thoát ly là hành giả phải tu Nhân Xuất Thế thì mới có thể đạt được quả xuất thế hầu trở lại quê hương. Đức Như Lai vì sanh tử là một việc lớn mà xuất hiện trong đời. Phàm phu thì chịu khổ trong phần đoạn sanh tử. Hàng Nhị Thừa vẫn bị chi phối trong biến dịch sanh tử. Hàng Bồ Tát Quyền Thừa vẫn còn hôn mê khi cách ấm, chỉ có Phật quả mới hoàn toàn thoát ly sanh tử mà thôi. Vì thế, người muốn thoát ly sanh tử trước tiên phải chọn một mục tiêu để làm chỗ đến, đó là phát tâm tiến về Phật quả cứu kính. Khi đã có mục tiêu rồi phải có niềm tin son sắt đó là chơn lý nhơn quả, để từ đó nghiên cứu thấu đáo kinh điển Đại Thừa để làm kim chỉ nam, rồi tự mình thực hành và giúp đỡ khuyên bảo cho mọi người cùng tiến thì việc rời khỏi cảnh khổ Ta Bà về cõi Cực Lạc an vui không còn là một việc khó. Vì thế trong kinh dạy: “Muốn tu Nhân Xuất Thế, hành giả phải phát tâm Bồ Đề, lấy đó làm mục tiêu cứu kính, có niềm tin vững chắc vào chơn lý nhơn quả, kế đó nghiên cứu thấu đáo kinh điển Đại Thừa, rồi quyết tâm thực hành đồng thời khuyên người cùng thực hành như mình“. Giải, hành đã đầy đủ thì quả xuất thế sẽ được viên mãn.


Câu hỏi Xuất Thế Thiện Căn:

1. Trong 4 điều Thiện Căn bạn thử tìm điều nào là giới, định, huệ giải thích rõ các điều ấy?

2. Có người cho rằng phải đọc tụng kinh điển mới thật tu, có người cho giữ giới mới thật tu. Ban giải thích như thế nào?

3. Tổ sư nói: “Lành dữ đừng nghĩ đến, tự nhiên vào được tâm thể” Kinh Niết Bàn nói: “Các hành vô thường là pháp sanh diệt”. Tại sao khuyên tu phước thiện có trái ý Tổ?

4. Tiêu mất không chỗ nương gá là con đường cốt yếu của Thánh Hiền. Nếu luận có thì tâm và cảnh đều huyễn, căn cứ vào giáo lý nào để mở rộng viện Thiện?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Pháp Môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt của đức Như Lai muốn phổ độ chúng sinh. Ngài rất thương xót chúng sinh thời mạt pháp nên khai thị pháp môn nầy, chỉ cho tất cả chúng sanh đều nhờ đó mà cầu chứng được quả vị chánh giác.


Người tu pháp môn nầy cần yếu phải được vãng sanh về cõi Cực Lạc, về cõi ấy rồi liền chứng vào vị bất thối, rồi cứ tuần tự mà tiến về quả giác. Bậc thượng căn tu pháp môn nầy sẽ được nhất tâm, dứt hoặc nghiệp chứng chơn thường vào thẳng quả vị vô thượng. Bậc trung hạ căn thì biết rõ nhân quả thông cả ba đời bỏ khổ về vui làm phương tiện vào Đạo. Tuy rằng Đại Căn và Tiểu Căn chẳng đồng, pháp quyền và thật có khác. Người tu các pháp môn khác muốn thoát ly được phần đoạn sanh tử phải chấm dứt hết hai hoặc kiến và tư, nếu như hoặc nghiệp còn bằng chừng mãi tơ, đạo quả chưa thành, dù có công tu trì cũng không thể tự chủ, phải bị nghiệp dẫn đi. Người vào đường sanh tử được tiến lên thì ít mà lui xuống thì nhiều, chỉ vì đạo lực không bằng tập nghiệp nên nghiệp dẫn có thể trói tâm, cũng như đồ đất chưa nung, bị mưa gió sẽ tan rã, tuy có công tu hành thực chẳng chút ích lợi. Chính vì lẽ ấy, đức Thế Tôn mở lòng đại bi đặc biệt khai thị pháp môn niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc, để cho những hành giả hoặc phàm hoặc thánh, hoặc trí hoặc ngu, nếu đồng lòng tin sâu nguyện thiết, chuyên trì danh hiệu Phật cầu về Tây Phương. Dùng năng lực tin, nguyện, niệm Phật của mình làm năng lực cảm và đại nguyện từ bi của Phật A Di Đà làm năng lực ứng. Cảm và ứng hợp nhau, đến khi mạng chung chắc được theo Phật vãng sanh. Khi đã được vãng sanh rồi, người dứt hết hoặc nghiệp liền chứng vô sanh, kẻ mang nghiệp phàm phu cũng chứng lên quả vị bất thối. Từ đó thân gặp Phật A Di Đà, dự vào hàng Bồ Tát hải chúng, nhờ lời dạy bảo mà nhiễm diệu hương của Như Lai, chướng hết, trí sáng trở về với Phật tánh sẵn có. Nếu nói rộng độ các căn cơ, giúp kẻ phàm phu pháp môn niệm Phật nầy là thứ nhất.

Lại nữa, pháp môn niệm Phật là pháp môn thẳng tắt dễ làm mà từ ngàn xưa Cổ Đức thường cho là con đường bằng phẳng không có gai chông, như thuyền căng buồm xuôi nước lại gặp gió thuận, chỉ vì pháp môn nầy hạ thủ rất dễ, vì niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc  tương ưng với đại nguyện của Phật, vì đúng lời Phật dạy, vì thuận theo kinh giáo, nên muôn người tu muôn người được vãng sanh.’ Nhưng gần đây, số người phát tâm niệm Phật cũng nhiều mà số người có thụy ứng vãng sanh rất ít. Chỉ vì họ niệm Phật không đúng mục đích, không đúng ý nghĩa, không đúng cách và không đúng pháp, nên khi niệm Phật mà họ vẫn để cho ý thức phan duyên, những hiện hành phiền não mặc tình thao túng; vì thế làm ngăn trở việc nhất tâm. Đồng thời cũng có người niệm Phật mà niềm tin không vững, ý nguyện không quyết, việc trì danh có khi vì danh lợi, hoặc cầu phước báo nhân thiên, nên cuối cùng việc vãng sanh không được kết quả như mong muốn. Nếu muốn muôn người được vãng sanh, chúng ta cần phải hiểu rõ niệm Phật làm thế nào cho đúng pháp?

1.- Nhận định:

Pháp môn niệm Phật trùm khắp ba căn, ai cũng có thể thực hành, ai cũng có thể nhờ câu niệm Phật mà được vãng sanh Cực Lạc. Đâu biết rằng đây là một pháp môn đại thừa viên đốn làm nơi qui thú, nên giáo nghĩa cao siêu, hoài bảo rộng lớn, mục đích rõ ràng, tới lui đúng pháp, do đó nếu hành giả thực hành không quán xuyến được sẽ dễ dàng lui sụt. Vì đạo Phật là đạo giác ngộ, bởi thế, người Phật tử phải từ con đường trí tuệ mà vào. Có trí tuệ thì niềm tin mới chắc, ý nguyện mới quyết, thực hành pháp niệm Phật mới không bị lui sụt và bỏ dở dang nửa chừng. Do đó, người niệm Phật là người chánh tín nhập đạo, có chánh tín thì kết quả mới thành tựu viên mãn.

2.- Phải niệm Phật đúng mục đích.

Ở đời muốn làm một việc gì đi đến thành công mỹ mãn, việc ấy phải có mục đích chính để mình xây dựng. Người làm việc không có mục đích ít khi được thành công. Cũng thế, người niệm Phật nếu không có mục đích chính đáng thì không thể vãng sanh được.

Đức Thích Ca Mâu Ni ra đời có một hoài bảo duy nhất là làm thế nào đem lại an vui cho tất cả mọi người, là giải thoát khỏi vòng sanh già bệnh chết. Chính vì thế, Ngài đã rời bỏ ngôi vua, vợ đẹp con ngoan, phụ hoàng và xã tắc, dấn thân vào cuộc đời tìm đạo để khám phá ra chơn lý cứu khổ cho tất cả chúng sanh.

Thế mà, có một số người niệm Phật vì cầu sự an lạc nhỏ bé cho hiện đời làm mục đích cứu cánh, như niệm Phật cầu cho gia đình được an vui hạnh phúc, niệm Phật cầu cho con cháu khỏe mạnh, bình yên học giỏi hiếu thảo, có nhiều danh vọng, niệm Phật cầu cho mình khỏi bịnh, may mắn an vui, hoặc cầu cho quốc thới dân an, xã hội hòa bình thịnh vượng. Người niệm Phật như thế có nhiều điểm sai lầm. Người niệm Phật có mục đích như thế là người không nhận ra được chơn lý của sự vật, vì cuộc đời nầy là vô thường, khổ, không, vô ngã, tất cả hạnh phúc mà người ta nhận lầm đều chỉ là sự thay đổi mà thôi, như người lạnh gặp nóng ấm cảm thấy hạnh phúc nhưng đó không phải là chơn lý.

Người niệm Phật theo mục đích kể trên lại thêm một lầm lỗi nữa là tô bồi bản ngã. Trong Phật giáo đầu mối của vô minh tạo nghiệp là do chấp ngã và pháp. Người tô bồi bản ngã là người xa rời đạo Bồ Đề. Người niệm Phật sai mục đích giải thoát sanh tử là không đúng bản hoài của Phật, có nhiều lầm lỗi nên không thể vãng sanh.

Kinh Pháp Hoa dạy: ‘Ba cõi không yên cũng như nhà lửa đang cháy. Thực vậy, người sinh vào các cõi Trời, tuy tuổi thọ có dài hơn, những điều vui ngũ dục có thù thắng hơn, nhưng cuối cùng vẫn bị luân hồi trong lục đạo, khi đã bị luân hồi rồi chỉ có đi xuống tam ác thú mà có rất ít người được đi lên.

Ở trong sức hút của luân hồi dù có cố gắng thực nhiều cũng phải chịu khổ, như người bắn mũi tên lên hư không dù có cao đến đâu khi hết sức tiến lên thì phải rớt xuống. Lại nữa, người sanh các cõi trời, nhiều phương tiện hưởng thụ nên tâm vọng tưởng càng thêm nhiều. Chỉ cần nói âm nhạc thôi, âm nhạc của cõi trời làm cho mọi người điên đảo say mê. Người giàu có cũng thế, càng có nhiều tiền càng thêm nhiều bận rộn. Làm quan thì trên đe dưới búa, càng cao danh vọng càng nhiều gian nan. Thế mà có người niệm Phật cầu đời sau được sanh cõi trời để hưởng phước, hoặc sanh ra nhà giàu có, làm quan làm vua…Người cầu hưởng phước đời sau có nhiều lầm lỗi:

a.- Người cầu phước (có nhiều) tăng trưởng lòng tham dục, tham sân si vốn là mẹ của các phiền não, nếu lòng tham sân vẫn còn tâm tịnh làm sao có được?

b.- Thêm nhiều chướng nạn: Trong  kinh  nói: ‘Nếu một niệm tham sân khởi lên thì có tám muôn bốn ngàn cửa chướng ngại mở ra.’ Người thời mạt pháp sức yếu, nghiệp dầy cần có Phật hộ niệm mới có thể thành tựu đạo nghiệp, huống lại tự mình mở vô số chướng môn thì đường vãng sanh có mong gì?

c.- Không phát nguyện vãng sanh: Hành giả tu tâm dù được chánh định mà không phát nguyện vãng sanh cũng không sanh về cõi Cực Lạc, vì tâm không có xu hướng và cũng không tương ưng với đại nguyện Phật nên không thể vãng sanh.

Như thế người niệm Phật nhằm mục đích cầu phước báo đời sau là không đúng bản hoài xa lìa ba cõi của Đức Phật nên không được vãng sanh.

Trong thuở quá khứ, thời hóa độ của đức Phật Bảo Tạng, có vua Chuyển luân vương tên Vô Tránh Niệm và đại thần Bảo Hải đồng phát nguyện: ‘Chuyển luân vương Vô Tránh Niệm phát nguyện tạo thế giới an lạc nhiếp thọ hóa độ tất cả chúng sanh trong 10 phương. Đại thần Bảo Hải phát nguyện ở thế giới năm trược, chỉ những sự khổ não cho chúng sanh hướng về.’ Chuyển luân vương là tiền thân Phật A Di Đà và đại thần Bảo Hải là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Chữ hóa độ mà Phật A Di Đà phát nguyện là Ngài biến thế giới của Ngài thành Tịnh Độ có công năng dẹp hết nghiệp lực phiền não để trở về với cái vui chơn thường bất tận.

Trái lại có người niệm Phật nghe nói cõi Cực Lạc là vui tột, muốn bỏ khổ tìm thú vui dục lạc nên ham muốn. Lòng ham muốn dục lạc là vọng thức nên niệm vọng thức càng lúc càng nhiều làm trở ngại nhất tâm, không đúng bản hoài của Phật nên không thể vãng sanh.

Bản hoài đức Thế Tôn là làm thế nào cho chúng sanh rốt ráo không còn sanh tử nữa. Các bậc Thinh văn tuy dứt được 88 món kiến hoặc và 81 món tư hoặc không còn bị phần đoạn sanh tử nữa, nhưng vẫn còn bị biến dịch sanh tử. Bồ Tát tuy dứt được kiến tư hoặc và trần sa hoặc nhưng vẫn còn bị cái mê cách ấm, chỉ có Phật mới dứt sạch kiến tư, trần sa và vô minh hoặc, mới rốt ráo thoát khỏi sanh tử. Vì thế, người về cõi Cực Lạc liền ở vào vị bất thối (không lui sụt) lại sống lâu vô lượng. Có tiến mà không có lùi chắc chắn một đời tiến đến Phật quả. Do đó, mục đích của Phật A Di Đà tiếp dẫn cho chúng sanh về cõi Phật là để thành Phật độ sanh. Thế mà có người niệm Phật chỉ mong cầu được an dưỡng, cam lòng làm khách phong trần, trái hẳn với bản hoài của đức Phật nên không thể vãng sanh.

Tóm lại, người niệm Phật đúng mục đích là người vì sanh tử là chuyện lớn mà phát tâm niệm Phật chứ không phải để cầu hiện đời được mạnh giỏi, con cháu an vui, gia đình hạnh phúc, xã hội ấm no. Mục đích niệm Phật vì muốn thoát khỏi nhà lửa tam giới, chứ không vì đời sau sanh lên cõi trời, làm vua quan, người giàu có…  Mục đích niệm Phật được về cõi Cực Lạc để đoạn sạch phiền não chứ không phải sợ khổ tìm vui cho bản thân mình và mục đích cuối cùng là cầu vãng sanh về Cực Lạc để thành Phật độ sanh chứ không phải cầu được an hưởng sung sướng. Người niệm Phật đã thực hiện đúng mục đích rồi chắc chắn sẽ có kết quả mong muốn.

Phải niệm Phật đúng nghĩa:

Phật pháp chỉ có một vị là vị giải thoát, nếu người Phật tử thực hành một điều gì không đúng ý nghĩa giải thoát thì đó là tà ngoại không phải là chánh giáo của Phật. Tất cả phương tiện mà Phật đã dạy ra đều nhắm vào chủ điểm giải thoát đó. Nhưng rất tiếc, Phật giáo Việt Nam ta trải qua nhiều năm bị đô hộ, thực dân thường dùng chánh sách ngu dân để trị, nên Phật giáo cũng bị ảnh hưởng lớn, người Phật tử đến chùa lẽ ra phải học tường tận giáo lý thì họ cấm đoán đưa hình thức mê tín dị đoan để phá hoại Phật giáo.

Từ đó, Phật tử đến chùa chỉ biết có niềm tin mà làm chứ không biết ý nghĩa của việc làm. Vì thế, nếu có một người vặn hỏi thì không thể trả lời, do đó tâm dễ bị lui sụt. Nhất là pháp môn niệm Phật vốn là hành môn nên ít Phật tử hiểu được ý nghĩa trọn vẹn. Rồi từ đó cứ làm theo hình thức lấy lệ, miệng cứ đọc cho suông mà tâm thì phan duyên vạn nẻo, họ đâu biết rằng Tịnh Độ là Tâm Tông, mọi việc niệm Phật hành trì đều phát xuất từ tâm chứ không phải chạy theo tướng, mục đích niệm Phật là tu tâm chứ chạy theo hình tướng có ích lợi gì? Vì thế, người niệm Phật phải hiểu ý nghĩa của niệm Phật như sau:

Trọng tâm của người niệm Phật là phải diệt trừ ba động cơ tạo nghiệp: Như chúng ta đã biết nguồn gốc của sinh tử luân hồi có 12 mắt xích nối lại thành vòng tròn luân chuyển không bao giờ cùng. Đó là 12 nhân duyên bắt đầu từ vô minh đến lão tử. Nếu phân tích kỹ vòng tròn nầy có 3 nhóm là Hoặc, Nghiệp, Khổ. Muốn hết khổ vì sanh tử chúng ta phải cắt đứt một trong 2 khoen chính là hoặc hay nghiệp, thì vòng luân hồi tan rã, quả khổ cũng không còn. Trong hoặc và nghiệp thì hoặc thuộc về cái nhân quá khứ nên khó đoạn, chỉ có nghiệp là nhân hiện tại mới dễ cắt đứt. Nếu nghiệp bị cắt đứt thì cái quả khổ cũng không còn. Nên Đức Phật dạy ra các phương tiện đều nhắm dứt trừ ba động cơ tạo nghiệp chính đó là Thân, Khẩu, Ý.

Người niệm Phật dùng phương tiện niệm Phật thân ngồi ngay ngắn dứt được nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm của thân. Miệng niệm hồng danh Phật dứt được nghiệp nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác của miệng. Ý chuyên chú vào danh hiệu Phật dứt được nghiệp tham, sân, si của ý. Như thế người niệm Phật đúng ý nghĩa là lúc miệng niệm Phật phải thu nhiếp Thân, Khẩu và Ý vào câu niệm Phật. Không được vừa niệm Phật mà ý giận hờn, miệng chưởi thầm, thân cú đầu trẻ là không đúng ý nghĩa. Nên Cổ Đức có câu: ‘Ba nghiệp thường thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây Phương’ chính là ý nghĩa nầy.

Cốt yếu của niệm Phật là phải thu nhiếp sáu căn.

Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy: ‘Nầy A Nan! Cái làm cho ông sinh tử luân hồi là từ sáu căn và cái làm cho ông chứng Bồ Đề Niết bàn cũng từ sáu căn.’ Thực vậy, sáu căn của con người là cửa ngõ của linh hồn, ở nơi đó là cửa ngõ của sáu tạo nghiệp mà cũng là cửa ngõ của giác ngộ. Thấy một việc nếu chạy theo nó là rơi vào sông mê, nếu không chạy theo nó sẽ trở thành bờ giác; nghe một câu sanh lòng tham đắm muôn đời và cũng nghe một câu mà thẳng lên bờ giác. Do đó, người niệm Phật, khi niệm phải luôn luôn thu nhiếp sáu căn không cho sanh ra thức, nói như thế không có nghĩa là nhắm mắt bịt tai đóng cửa các căn mà chỉ giữ làm sao đừng cho nó chạy theo và bị trần cảnh sai sử.

Trong kinh dạy: “Thấy biết mà thêm một lần thấy biết nữa là vô minh, thấy biết mà không thêm một lần thấy biết nữa đó là gốc của Niết Bàn”. Như thế, khi niệm Phật tai nghe tiếng mà không chú ý đến tiếng hay dở, mắt thấy sắc mà không cần phân tích đẹp xấu, từ đó trở về với bản nguyên thanh tịnh. Nên đức Đại Thế Chí dạy:”Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục chứng được tam muội”. Niệm như thế mới đúng ý nghĩa niệm Phật.

Niệm Phật cốt trói buộc con ngựa ý thức: Ở trên chúng ta thu nhiếp sáu căn là lúc sáu căn chưa tiếp xúc với sáu trần chưa sanh ra sáu thức, lúc ấy hãy còn dễ; nhưng khi đã thành sáu thức rồi thì các thức tạo nghiệp không thôi mà nhất là ý thức. Ý thức khi nhận bóng dáng sáu trần rồi thì hoạt động không hề ngơi nghỉ, kể cả khi ngủ, những giấc chiêm bao chính là cảnh giới duyên khởi của ý thức. Khi căn tiếp xúc với trần liền có tai ý để thọ nhận và sanh ra tưởng và tư phân biệt trường kỳ. Do đó, trong kinh dạy: Tâm như vượn chuyền cây, ý như ngựa giong ruổi’ Muốn con ngựa ý thức không giong ruổi trên đường dài ta cần phải lấy câu hiệu Phật làm sợi dây xỏ mũi, khớp mỏ rồi cột nó vào gốc cây để nó có chạy cũng chỉ lẩn quẩn ở chung quanh gốc cây, không dẫm phá lúa mạ hoa màu của người, lần lần thuần thục đứng yên một chỗ. Lúc đó, người niệm Phật mới được thong thả. Vì thế, lúc niệm Phật mà để cho con ngựa ý thức chạy về quá khứ, giong ruổi tương lai là không đúng, mà bắt nó phải ở lại tại câu hiệu Phật mới gọi là niệm Phật đúng ý nghĩa.

Niệm Phật cốt dẹp vọng tưởng: Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận dạy: “Tâm chúng ta có hai phần là chúng sanh tâm còn gọi là vọng tâm và chơn tâm. Nếu khi phần vọng tâm bị dứt trừ thì phần chơn tâm hiện”. Muốn dẹp được vọng tưởng người niệm Phật dùng câu niệm Phật làm chỉ quán để ban đầu tâm chỉ còn có một niệm danh hiệu Phật, lúc ấy nếu nguyện vãng sanh cũng được về cõi Cực Lạc. Khi nhất niệm đã đến sức cực công thuần rồi hành giả buông luôn không cần niệm mà tâm vẫn lặng lẽ, lúc ấy chỉ còn có một chơn tâm nên gọi là nhất tâm.

Tóm lại, người niệm Phật đúng ý nghĩa là phải dùng câu niệm Phật để diệt trừ ba động cơ tạo nghiệp, kế đó thu nhiếp sáu căn để tịnh niệm tương tục. Đồng thời dùng câu niệm Phật để trói con ngựa ý thức phân biệt, không cho nó giong ruỗi và cuối cùng dẹp hết vọng niệm để được nhất tâm. Người niệm Phật phải điều phục tâm theo tuần tự 4 điểm trên được gọi là niệm Phật đúng ý nghĩa.

Phải niệm Phật đúng cách.

Chúng tôi biết đánh máy chữ rất sớm, nhưng không học phương pháp cứ đánh có 2 ngón mà thôi, sau nầy khi làm việc văn phòng giáo hội thường bị trở ngại vì đánh máy chậm. Có người khuyên nên học theo cách đánh máy mới có thể sử dụng tối thiểu là 8 ngón tăng nhanh gấp ba lần, tôi cố gắng tập theo nhưng bị trở ngại vì đã quen dùng 2 ngón, nên không học được, cuối cùng đành phải chấp nhận trở ngại mà không làm gì hơn. Nhìn những người mới học chỉ một vài tháng mà họ đánh giỏi hơn mình gấp mấy lần mà những chạnh lòng. Cũng thế, người niệm Phật nếu niệm không đúng cách thì cũng bị tai hại ‘Quen rồi khó sửa’ mà không có kết quả tốt đẹp  mong muốn. Vì thế, người niệm Phật muốn có hiệu năng cao cần phải niệm đúng cách như sau:

Niệm Phật tâm và miệng phải tương ưng. Cổ Đức dạy: ‘Niệm Phật niệm tâm, tâm niệm Phật’. Trong kinh cũng dạy:‘Tất cả đều do tâm tạo’. Thực vậy, tất cả nghiệp thiện ác đều từ trong tâm tạo ra, người muốn được thanh tịnh cũng phải từ tâm mà tu mới đúng cách. Có người niệm Phật, miệng niệm luôn nhưng mà tâm cứ để nó chạy rong ở đâu đâu, hết duyên về quá khứ lại chạy tới tương lai không bao giờ dừng nghỉ, miệng họ tuy niệm mà tâm vẫn tà không thể gọi là chánh niệm. Vì thế, người niệm Phật đúng cách là câu hiệu Phật từ tâm ra miệng vào tai gọi là tâm miệng tương ưng. Dù niệm ra tiếng hay niệm thầm đều vẫn đầy đủ như vậy, tuy miệng lúc ấy không nói ra tiếng, nhưng từng chữ của câu hiệu Phật tai nghe đều rõ ràng, như người đọc một bài thơ thuộc lòng tuy miệng không nói ra thành tiếng mà từng câu từng chữ được nghe thấy rõ ràng. Niệm Phật tâm và  miệng tương ưng thì gọi là chánh niệm, niệm Phật tâm và miệng không tương ưng gọi là tà niệm không được vãng sanh. Vì thế, Tổ thường dạy: ‘Di Đà chẳng rời đương niệm, Cực Lạc chỉ ở hiện tiền’. Đó chính là cách niệm tương ưng nầy.

Niệm Phật phải rành và rõ. Tổ Triệt Ngộ dạy: Một câu A Di Đà, chẳng gấp cũng chẳng huỡn, lòng miệng ứng hợp nhau, rành rõ mà luân chuyển. Cách niệm Phật  không nên gấp quá hoặc huỡn lắm. Niệm gấp thì khó rành từng tiếng rõ từng câu nên bị trại, bị mờ, có hại cho sự huân tập câu hồng danh. Ngày kia câu niệm Phật hiện hành, cảnh giới không niệm tự niệm cũng không rành rõ nên chánh niệm khó thành.

Niệm Phật phải nhiếp tâm: Người niệm Phật phải nhiếp tâm vào câu niệm Phật, giữ tâm ở câu hồng danh không cho tạp niệm xen vào, nếu xao lãng thì liền thu lại. Chúng ta phải luôn chăm chú nhận chắc lấy tiếng niệm của mình.
Niệm Phật lòng phải chí thành tha thiết: Người niệm Phật phải biết rõ cõi đời là biển khổ, thân mạng vô thường, đường luân hồi nguy hiểm, tai họa từng phút từng giây. Chúng ta khác nào đứng bên bờ vực thẳm, bên lưỡi hái của tử thần cần phải thiết tha quyết tâm thoát ly cõi Ta Bà để sớm về Cực Lạc, tha thiết như con thơ  nhớ mẹ hiền, tâm chỉ còn mong được về Cực Lạc không còn ước muốn nào khác.

 Tóm lại, người niệm Phật đúng cách là khi niệm tâm và miệng tương ưng, từng câu từng chữ rành rõ không trại không mờ, nhiếp tâm vào câu hồng danh không cho tạp niệm xen vào, ý thức giong ruỗi với lòng thiết tha chuyên niệm (nhớ) như con thơ nhớ mẹ hiền. Niệm được như thế gọi là Tịnh niệm, nếu tịnh niệm được liên tục là chứng vào Niệm Phật tam muội vãng sanh thượng phẩm.

Niệm Phật phải đúng pháp: Người niệm Phật trước tiên phải chọn phương pháp niệm Phật nào cho phù hợp với căn cơ trình độ mình, kế đó phải chọn pháp nào cho đúng và thực hành theo trình tự cho đúng thì mới có kết quả tốt.

Trong pháp môn Tịnh Độ có nhiều cách niệm Phật, vì chữ niệm là nhớ nên có người nhớ thực hành nguyện Phật cũng gọi là niệm Phật, nhớ tướng hảo của Phật và cõi Cực Lạc trang nghiêm cũng gọi là niệm Phật, có người nhớ pháp thân thanh tịnh vô tướng của Phật cũng gọi là niệm Phật, nhớ danh hiệu Phật cũng gọi là niệm Phật.  Phương pháp niệm có rất nhiều, nhưng tóm lược có 3 cách chính được ghi trong ba kinh Tịnh Độ.

a.  Phương pháp thứ nhất là Tùy Nguyện Niệm Phật. Người thực hành phương pháp nầy theo đại nguyện của đức Phật A Di Đà và thực hành như làm các công đức, phát tâm Bồ Đề nhất hướng chuyên nhớ rồi đem công đức tu thiện căn hồi hướng vãng sanh Cực Lạc.

b. Phương pháp thứ hai là Quán Tưởng Niệm Phật. Hành giả căn cứ vào các pháp quán y báo và chánh báo trang nghiêm, khi thành tựu pháp quán liền được vãng sanh về Cực Lạc.

c. Phương pháp thứ ba là Trì Danh Niệm Phật. Hành giả lấy câu Nam Mô A  Di Đà Phật làm cảnh sở niệm và tâm năng niệm, khi niệm Phật liên tục được nhất tâm lâm chung Phật rước về cõi Cực Lạc. Các khóa trước chúng tôi đã trình bày Tùy Nguyện Niệm Phật và Quán Tưởng Niệm Phật rồi, khóa nầy chúng tôi đặc biệt trình bày phương pháp đúng cho người Trì Danh Niệm Phật.

Trì Danh Niệm Phật cũng có rất nhiều cách, tóm lại những pháp thường dùng ta thấy có Tùy tức trì danh, Sổ châu trì danh, Liên hoa trì danh, Phản văn trì danh, Truy đảnh trì danh, Giác chiếu trì danh, Lễ bái trì danh, Quang trung trì danh, Quán Phật trì danh và Ký thập trì danh. Các cách trì danh chúng tôi đã trình bày rõ ràng từng cách ở trong Nghiên Cứu Tịnh Học I. Ở đây chúng tôi xin chọn một cách để làm mẫu mực.

Cách thường dùng hiện tại là Ký Thập Trì Danh. Phương pháp nầy do Tổ Ấn Quang sáng chế và khuyên các liên hữu nên áp dụng. Đây là phương pháp ghi số kèm theo hiệu Phật, cứ lấy 10 câu làm một đơn vị. Người niệm có thể chia thành 2 đoạn mỗi đoạn 5 câu hoặc chia làm 3 đoạn 2 câu và một 1 đoạn 4 câu. Sau khi niệm đủ 10 câu đều lần qua một hạt chuỗi. Thí dụ: Niệm Nam Mô A Di Đà Phật1, Nam Mô A Di Đà Phật 2, đến 10 liền bỏ, lại bắt đầu Nam Mô A Di Đà Phật 1 đến 10. Niệm theo lối nầy, tâm đã niệm Phật, lại còn phải ghi nhớ số. Như thế, dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì số niệm liền sai lạc. Trường hợp nếu tâm tán loạn quá nhiều chúng ta có thể ghi số ngược lại từ 10 lùi lại 9 mãi đến 1. Phương pháp nầy đại để là phương tiện cưởng bức cho hành giả chuyên tâm dứt trừ tạp niệm.

Ở trên chúng ta đã chọn phương pháp trì danh niệm Phật và cách ký thập trì danh làm cách niệm, chúng ta phải niệm thế nào cho đúng cách mới có kết quả. Sở dĩ chúng ta niệm Phật mà không có kết quả vãng sanh chỉ vì khi thực hành chúng ta không lượng được sức mình có khi làm thái quá hoặc bất cập, khi làm chúng ta không thiết lập chương trình từ thấp đến cao và chúng ta không có phát thệ tinh tấn thực hành, nên công việc làm nửa chừng bị trở ngại mà không thể đến đích được.

Có người khi biết được pháp môn niệm Phật có khả năng đưa người chuyên niệm đến chỗ nhất tâm, vãng sanh Cực Lạc, họ nghĩ rằng câu niệm Phật thật dễ niệm, nên không liệu sức mình, không cần tập lần để tiến lên chừng mực mà vội vàng niệm Phật gấp rút, niệm suốt ngày đêm, buộc tâm chắc vào câu hiệu Phật, đến nỗi phải mang bệnh tức ngực, nhức đầu, mặt nám, thổ huyết, nên chỉ niệm một thời gian ngắn rồi bỏ dở dang nửa chừng.

Có người cho rằng pháp môn niệm Phật chỉ cần 10 niệm thành công, nên mỗi ngày chỉ niệm chừng năm mười phút, còn hơn 23 giờ kia cứ tạo nghiệp đời. Niệm Phật như thế không thể có kết quả vì một gáo nước không làm tắt được một xe lửa. Họ đâu biết rằng kinh nói 10 niệm vãng sanh là nói chánh niệm lúc lâm chung. Khi sắp lâm chung, thân tứ đại tan rả, người bệnh bị đau nhức như xé từng thớ thịt, trong lúc ấy mà còn giữ được chánh niệm niệm 10 niệm Phật lúc lâm chung, nếu không phải là người hiện đời niệm Phật tinh chuyên hoặc là người có túc duyên thành thục, thì chánh niệm không thể hiện tiền vãng sanh Cực Lạc.

 Ngày xưa, ở Bạch Liên Xã của Sơ Tổ Huệ Viễn, 123 liên hữu niệm Phật đa số đều chứng được Niệm Phật Tam Muội, đều có thoại ứng vãng sanh, chỉ vì các vị tu tập đúng pháp, nên có kết quả mong muốn. Ban đầu các liên hữu niệm Phật mỗi ngày 2 thời sáng và tối. Mỗi thời khoảng 2 giờ niệm Phật. Lần tiến lên 4 thời và tiến lên đến 6 thời. Nếu tính ra câu niệm Phật thì người niệm có thể niệm một giờ từ 4,000 đến 5,000 câu. Như vậy, người niệm Phật theo Bạch Liên Xã mỗi ngày tối thiểu là 16 đến 20,000 câu và tối đa là 60,000 câu hiệu Phật. Ngày nay, chúng ta cơ thể suy nhược và nhiều bận rộn, chúng ta có thể bắt đầu tối thiểu là 10,000 câu hiệu Phật và tối đa là 60,000 câu. Người niệm Phật không tu tập tiến lần lên mà thực hành bất cập hoặc thái quá đều không thể được vãng sanh, đều không được gọi là niệm Phật đúng pháp.

Có người niệm Phật tùy hứng không có chương trình nên trước chăm chỉ sau lần lần giải đải, mới thực hành năm đầu thì Phật ở trước mặt, năm sau Phật ở trên trời, năm sau nữa Phật ở Tây Thiên. Sở dĩ có hiện tượng đó là vì người niệm Phật không có chương trình tiến từng bước và không có hạn kỳ để cố gắng. Vì thế, trong kinh Phật có cho thời hạn để hoàn thành nhất tâm. Trong Ban Chu Niệm Phật Tam Muội cho kỳ hạn là 49  ngày, trong kinh Vô Lượng Thọ Phật cho kỳ hạn là 10 ngày, trong kinh A Di Đà Phật cho kỳ hạn là 7 ngày. Hành giả trong thời kỳ chánh pháp, tượng pháp thì hạn kỳ nầy là quá rộng, vì ngày xưa lúc Phật còn trụ thế, chỉ cần gặp Phật nghe lời Phật dạy là có thể chứng ngay quả A La Hán. Nên kinh thường nói: ‘Nghe một câu thẳng đến đạo Bồ Đề, ngộ nửa bài kệ liền thành đạo Phật.’ Như thế, kỳ hạn 7 ngày để được nhất tâm thì quá rộng và không cần có từng bậc thấp cao. Nhưng đối với chúng ta, thời nay nhằm thời mạt pháp, cách Phật đã xa, nếu chúng ta thực hành không có chương trình để có từng bậc tiến lên thì  không có được kết quả mong muốn.

Ngày xưa Cổ Đức lập chương trình tùy theo khả năng và sự thích hợp năng lực của mình mà hành trì, chương trình thực hành nhiều cách không nhất định, nhưng theo chúng tôi chương trình thực hành của Tổ Liên Tông thứ 13 là dễ và rất thù thắng có thể làm chương trình mẫu mực được. Theo Ngài thì hành giả có thể chia làm 4 giai đoạn.

a.- Giai đoạn thứ nhất là niệm nhiều câu hồng danh mỗi ngày. Hành giả khi phát nguyện niệm Phật cần nên lãnh một sổ công cứ về mỗi ngày niệm tối thiểu là 10,000 câu. Đồng thời tập khi đi, đứng, ngồi, nằm, làm việc, nói, nín đều cố gìn giữ danh hiệu Phật. Tuy rằng niệm như thế là tán niệm nhưng có công năng huân tập chủng tử vào tâm điền, tán niệm lần lần sẽ trở thành định niệm. Giai đoạn nầy hành giả phải niệm tối thiểu là từ 5 triệu câu hồng danh tức là xong một quyển sổ công cứ. Thời gian tối đa cho giai đoạn nầy khoảng một năm là có thể chuyển sang giai đoạn khác.

b.- Giai đoạn thứ hai là dùng thời khóa định niệm. Cũng trong thời gian niệm 10,000 hiệu Phật, hành giả tập trung vào 2 thời sáng và tối. Sáng niệm một giờ tối niệm một giờ. Giai đoạn nầy chúng ta vẫn niệm Phật y như giai đoạn trước cũng lần chuỗi nhưng không ghi công cứ, chỉ dùng kiểm soát định niệm để dẹp lần vọng niệm đến hoàn toàn định niệm.

Cách kiểm soát định niệm, theo Cổ Đức, chúng ta dùng 3 cái lọ, một lọ đựng đậu đen, một lọ đựng đậu trắng và một lọ để trống. Ban đầu chúng ta dùng chuỗi ngắn 18 hột, chúng ta dùng pháp Thập Niệm Ký Số. Khi niệm hết một chuỗi mà tâm ta vẫn ở tại câu Phật từ đầu đến cuối rõ ràng, chuổi ấy được gọi là chánh niệm hay định niệm, ta lấy 1 hạt đậu trắng bỏ vào lọ trống; nếu khi ta niệm hết một chuỗi mà trong đó có một niệm chạy về quá khứ, tương lai hay hiện tại mà không ở  chỗ câu hiệu Phật thì gọi là vọng niệm, ta lấy 1 hạt đậu đen bỏ vào lọ trống. Cứ niệm như thế đến trọn một giờ. Thí dụ: Nếu trong 24 hạt đậu có 12 hạt trắng 12 hạt đen là khá. Thời ấy ta ghi vào sổ kiểm soát số đậu trắng và đen. Thời sau chúng ta cố gắng để cho số đậu trắng mỗi ngày mỗi nhiều, số đậu đen mỗi ngày mỗi ít, tiến đến khi được 80% trắng là tạm thành công.

Sau đó, ta dùng chuỗi dài mà lần, lần được 9 hạt trắng chỉ còn có một hạt đen là tạm gọi thành công. Sở dĩ có thay chuỗi vì muốn chia từng phần để thấy có kết quả khỏi nản lòng. Đồng thời lúc đi đứng, ngồi nằm, động tịnh, nói nín chúng ta cần phải gìn giữ câu hồng danh và tập từ tán niệm trở thành định niệm. Thời gian tối đa của giai đoạn nầy là tập cho chánh niệm thuần thục, để chuyển giai đoạn ‘không niệm tự niệm’. Nguyên lý nầy thông thường mà trong Duy thức gọi là chủng tử hiện hành. Vì khi chúng ta có hành động, ý nghĩ, việc làm đều biến thành chủng tử. Khi có duyên gợi lại thì toàn bộ chủng tử tuần tự hiện hành ra rõ ràng. Như chúng ta thuộc lòng chú Đại Bi. Khi chúng ta muốn trì một biến Đại Bi chỉ cần nhớ Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi…là toàn bộ chú Đại Bi lần lượt hiện hành rõ từ câu trong tâm ta. Cũng thế, khi một giờ niệm Phật được chánh niệm thuần thục, chúng ta chỉ cần khởi một câu A Di Đà Phật là các câu khác lần lượt tiếp nối hiện ra, tự nhiên không niệm mà tự niệm. Được như thế, khi sắp lâm chung chỉ cần khởi một câu niệm Phật là tất cả câu kế tiếp hiện tiền, chánh niệm rõ ràng lo gì Phật không đến tiếp dẫn.

c.- Giai đoạn thứ ba là tăng nhiều thời khóa định niệm. Như chúng ta đã  hoàn thành được 2 giờ định niệm, chúng ta liền tăng thêm 2 thời định niệm, nghĩa là mỗi ngày ta có bốn giờ niệm Phật. Chúng ta cố giữ định niệm được hai thời, lần lần chúng ta giữ định niệm lên 4 thời và lần lên 6 thời. Đồng thời chúng ta cũng tập kiểm soát lịch duyên đối cảnh niệm hằng ngày trong 4 oai nghi cũng như kiểm soát thời khóa kể trên. Cần nhắc lại là lúc thời khóa niệm chúng ta có thể chia uyển chuyển trong oai nghi là đi, đứng, ngồi chứ không nhất thiết phải ngồi. Giai đoạn từ 2 thời tiến lên 6 thời tu tập khoảng 6 tháng đến 1 năm là thành công.


d.- Giai đoạn thứ tư là khắc kỳ cầu chứng niệm Phật. Giai đoạn nầy là giai đoạn cuối cùng để hành giả được nhất tâm bất loạn. Hành giả có thể kết Đạo Tràng Tam Muội hoặc đả thất hay kết thất. Đả thất có nghĩa là đập thành một khối. Từ ở trong giai đoạn 6 thời ta chuyển sang thành 1 thời. Từ sáng vừa thức dậy lễ Phật và chuyên niệm đến sắp đi ngủ hồi hướng. Trong giai đoạn nầy, ban đầu ta vẫn niệm 6 thời, kèm theo đó ta kiểm soát phần lịch duyên đối cảnh niệm, như trong giờ chấp tác, khi ta bắt đầu cầm chổi quét suốt thời gian đó ta  kiểm soát coi tâm ta đã mấy lần chạy loạn, thời gian quên niệm Phật là  bao lâu, cứ kiểm soát lần lần như thế, không cho tâm chạy loạn.

Trước tiên giữ tâm ở chỗ làm việc, sau đó nhớ niệm hồng danh. Cứ thực hiện đến khi cảm thấy đã tạm thuần. Ta kết đạo tràng (10 người) hoặc kết thất (chỉ một mình) quyết tâm niệm Phật trong 7 ngày chắc chắn, người bậc thượng sẽ nhất tâm bất loạn trong 7 ngày, người bậc trung sẽ nhất tâm bất loạn năm sáu ngày, người bậc hạ tối thiểu cũng nhất tâm bất loạn được một ngày. Thời hạn giai đoạn nầy là 6 tháng. Như thế, chỉ khoảng 3 năm là hành giả thành biện.

Kinh A Di Đà Phật dạy: Người chấp trì danh hiệu Phật từ 1 đến 7 ngày được nhất tâm bất loạn, người ấy khi lâm chung Phật A Di Đà cùng các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy khi lâm chung lòng không tham luyến, ý chẳng điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.’ Như thế, người được nhất tâm một ngày đến bảy ngày khi sắp lâm chung Phật và các thánh chúng sẽ hiện ra trước mắt, chắc chắn hành giả nhất tâm theo Phật không còn chỗ nào  nghi ngại.

Có người niệm Phật tuy có lòng tin nhưng không phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc. Họ đâu biết rằng phát nguyện mang một tánh cách quyết định cho việc vãng sanh. Hành giả khi phát nguyện là tâm đã hướng về chỗ đến như cây được nghiêng về phía nào thì khi trốc gốc cũng sẽ ngã về phía đó. Chư Cổ Đức có dạy:’Tu hành không nguyện đạo quả khó thành’. Người tu hành dù tâm được chánh định mà không có nguyện thì không thể được về Cực Lạc. Vì thế, khi niệm Phật hành giả luôn luôn canh cánh bên lòng là quyết  một đời vãng sanh về Cực Lạc, như đứa con lưu lạc nhiều năm, cực khổ truân chuyên, giờ có dịp về cố hương, nhớ mẹ khôn nguôi, mong được mau về, không có niệm gì khác. Nguyện niệm Phật cho được nhất tâm không tiếc thân mạng, khi mãn báo thân, hành giả tự do sẽ về chỗ mà mình nguyện đến.

Chính vì thế, trong kinh A Di Đà, đức Phật đã 3 phen căn dặn: Lần thứ nhất Ngài dặn: Nầy Xá Lợi Phất! Các chúng sanh được nghe phải nên phát nguyện sanh về nước kia, vì sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhơn (bậc bất thối chuyển một đời bổ xứ) câu hội một chỗ. Lần thứ nhì Ngài dặn: Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi Phật A Di Đà. Các người ấy đều được không lui sụt quả Vô thượng Bồ Đề, hoặc đã sanh, đang sanh, sẽ sanh về nước kia. Lần thứ ba Ngài dặn: Nầy Xá Lợi Phất! Các thiện nam và thiện nữ, nếu có lòng tin, nên phát nguyện sanh về nước kia.’ Như thế, người niệm Phật phải phát nguyện đầy đủ mới gọi là niệm Phật đúng pháp. Cách phát nguyện phần nhiều hành giả theo các cách phát nguyện của Cổ Đức, rồi chọn bài phát nguyện nào thích hợp với mình mà phát nguyện theo. Gần đây nhiều người phát nguyện theo Từ Vân Đại sư như sau:

Nguyện: Phật A Di Đà, thường đến hộ trì, cho căn lành con, hiện tiền tăng tấn, chẳng mất tịnh nhơn, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, nghe thấy rõ ràng, được Phật Di Đà cùng các Thánh chúng tay cầm đài hoa, tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng một niệm, sanh về trước Phật, đủ đạo Bồ Tát, độ khắp chúng sanh, đồng thành Phật đạo. Nam Mô A Di Đà Phật.

Tóm lại người niệm Phật đúng pháp là người niệm Phật không thái quá và bất cập, có chương trình từ thấp lên cao và phát nguyện thực hành tinh tấn nguyện sanh về cõi Cực Lạc trong đời nầy, bằng cách cố gắng thực hành cho được nhất tâm để chắc chắn khi sắp lâm chung Phật và Thánh chúng hiện tiền, lòng không tham luyến, ý không điên đảo sanh về cõi Phật.

Ở đời làm bất cứ cái gì hễ sai một ly là đi ngàn dặm, nhắm sai mục đích là xa cách muôn trùng. Nếu muốn đời nầy và đời sau sung sướng, mong lạc thú an nhàn là người yêu mến ngã chấp và pháp chấp, tham mến luân hồi, đắm say ba cõi, kết thân với phiền não, không có ý thoát ly, không tìm đường giải thoát, xuôi dòng sanh tử xa lánh Niết Bàn. Dù đại nguyện Phật A Di Đà to lớn vô biên cũng khó tiếp dẫn người làm sai mục đích.

Có người niệm không đúng cách, miệng niệm luống theo hơi mà tâm thì mặc tình giong ruỗi, khi niệm tiếng chẳng rõ ràng lờ mờ rối loạn, lòng không tha thiết, tâm cứ chạy rong, từ đó ý thức tự do phân biệt, động cơ tạo nghiệp hoạt động không ngừng, sáu căn nhiễm với sáu trần giúp duyên sáu thức hoạt động, vọng tưởng khởi mỗi lúc mỗi nhiều bao trùm chơn tánh mất hết ý nghĩa trì danh. Lại còn khi làm thái quá lúc lại bất cập nên phải dang dở nửa chừng, thực hành không có chương trình làm nhiều mà  không có kết quả. Lại còn, không lòng phát nguyện không chỗ hướng về  dù có gia công trở thành vô ích.

Vì thế, người muốn niệm Phật có kết quả là phải niệm Phật đúng mục đích vì sanh tử là một việc lớn mà phát tâm, vì muốn vượt khỏi ba cõi uế trược mà khởi niệm, vì đoạn trừ sanh tử phiền não mà nguyện sanh, vì thành Phật chúng độ sanh mà hết lòng hạ thủ. Muốn đạt được mục đích, người niệm phải thực hành đúng cách, khi niệm phải tâm và niệm tương ưng, câu phải rõ rành, tâm nhiếp ở một chỗ, lòng phải thiết tha. Có như vậy ý thức mới không còn phân biệt, động cơ tạo nghiệp bị đập vỡ tan, sáu căn và sáu thức chia lìa, vọng niệm không còn mãi mún, trời quang mây tạnh, gió mát trăng trong, chỉ còn có  thuyền không, chở ánh sáng về nguồn cội. Muốn được như thế, hành giả không được niệm thái quá và bất cập, làm theo từng bước có chương trình từ thấp lên cao phát thệ nguyện vững bền dốc lòng niệm Phật đúng pháp. Nếu niệm đúng mục đích, đúng cách, đúng nghĩa và đúng pháp chắc chắn nghìn người tu nghìn người được vãng sanh. Mong toàn thể hành giả thực hành đúng pháp để có kết quả mong muốn. Rất mong!


Câu hỏi Niệm Phật đúng pháp:

1. Người niệm Phật không đúng mục đích là không đúng nghĩa có tai hại như thế nào? Xin giải thích rõ từng điểm một.

2. Vì sao người niệm Phật phải chia thành nhiều giai đoạn tu tập? Người được nhất tâm bất loạn 7 ngày, khi lâm chung có bị chướng duyên không?

3. Thật tướng các pháp không có tướng thiện ác, làm sao có tướng hiện?

4. Trong Luận nói hành lễ niệm Phật là ngồi niệm Phật công đức sai biệt thế nào?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Vừa qua, trong ba phẩm Hạ được vãng sanh đều là hạng ác nghịch, trọn đời không có việc ác nào mà không tạo, nhưng khi lâm chung gặp thiện tri thức chỉ cần 10 niệm liên tục liền được vãng sanh. Điều này trái với kinh điển, vì trong Kinh Đại Thừa nói: “Nghiệp đạo như cái cân, chỗ nào nặng thì kéo về đó trước”. Như vậy, người nghiệp nặng ở đây có năng lực nào giúp họ thoát vòng địa ngục được sanh về Tịnh độ; là người niệm Phật nguyện vãng sanh chúng ta cần phải biết rõ nguyên lý của năng lực đó.


Phật pháp làm sáng tỏ pháp nhân duyên sinh, có hai thứ năng lực là năng lực có thể nghĩ bàn và năng lực không thể nghĩ bàn. Thế nào là năng lực có thể nghĩ bàn? Năng lực nào y theo nhơn nào có quả đó, tạo nghiệp gì thì cảm lấy quả báo đó, có các cảnh gì thì khởi những tâm gì, có tâm gì thì hiện ra cảnh gì, do cái gì huân tập thành cái thứ gì, do cái thứ gì huân tập hiện ra. Đây là phép tắc thông thường của nhơn quả, có thể dùng tâm thức nghĩ bàn phân biệt. Do đạo lý nhơn quả thông thường này mà người tạo ra thượng phẩm ngũ nghịch, thập ác phải bị đọa vào địa ngục; tạo nghiệp trung phẩm ngũ nghịch, thập ác phải đọa vào ngạ quỷ; tạo nghiệp hạ phẩm ngũ nghịch, thập ác phải đọa vào súc sanh. Thực hành hạ phẩm ngũ giới, thập thiện cảm quả báo Tu La; thực hành trung phẩm ngũ giới, thập thiện được sanh vào nhân đạo; thực hành thượng phẩm ngũ giới, thập thiện được sanh về cõi trời lục dục; thực hành thượng phẩm ngũ giới, thập thiện lại thêm tứ thiền, bát định có thể sanh về cõi trời sắc và vô sắc giới. Quán lý Tứ đế, tu Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo, có thể thoát sanh tử và chứng được quả Thanh Văn. Quán sự sinh khởi của 12 nhân duyên, từ duyên khởi lưu chuyển môn vào hoàn diệt môn, do vô minh diệt trí hành diệt cho đến lão tử diệt mà được giải thoát chứng quả Duyên Giác. Thực hành lục độ hoặc thập độ mà thành tựu quả Phật.

Những điều kể trên cho thấy tạo nghiệp nhơn của ba phẩm thập ác nên cảm cái quả sanh vào ba ác thú, do tạo các nhơn ba phẩm ngũ giới, thập thiện mà cảm cái quả sanh vào ba thiện thú; do tu cái nhơn xuất thế tam thừa mà cảm được ba thừa thánh quả. Đây là do gieo các nghiệp nhơn gì sẽ thành các quả báo đó. Tất cả đều căn cứ vào năng lực có thể nghĩ bàn mà nói đến. Muốn thành tựu những quả gì cần phải tạo những nhơn đó và các duyên. Ở trong các duyên nầy có thể phân ra thắng duyên, biệt duyên, thuận duyên, nghịch duyên. Nói chung tất cả đều là cái quả thành tựu do năng lực nhơn duyên có thể nghĩ bàn.

Xin đem một thí dụ để chứng minh: Như có một người muốn có được cơm ăn, áo mặc, chỗ ở phải  do sự lao lực cần khổ mới có, mỗi người muốn có nhiều vật chất để hưởng dùng, cần phải có nhiều sự lao nhọc cần khổ. Đây là lẽ chắc thật có thể tính toán được, đó là những lý lẽ thông thường của nhơn quả. Nhưng đôi khi chúng ta có nhiều sức cần lao như làm ruộng chưa chắc có kết quả đúng, vì thủy tai ngoài ý muốn của mình. Những việc làm bình nhật của mình bị một trận thủy tai là tiêu hết. Lúc ấy chúng ta cần sự cứu cấp của người khác, lúc ấy chúng ta không chịu nhiều cực khổ vẫn được cứu cấp đầy đủ. Vì thế, tiến thêm một bước nữa, chúng ta bàn về lý nhơn duyên không thể nghĩ bàn sản sanh ra kết quả. Y theo pháp tướng trong Phật pháp nói về năm thứ không thể nghĩ bàn như sau:

1- Định lực – Tam muội lực – không thể nghĩ bàn.

Nếu có người tạo thành Thiền định nghiệp, y theo tư nghị lực đương nhiên không thể chuyển, chỉ cần y theo Tam muội gia trì lực, liền được giải thoát. Chẳng qua định nghiệp có cạn sâu chẳng đồng, Bồ tát từ Thất địa về trước và định lực của người trời, Thanh văn, Bích chi Phật đều có hạn lượng, tuy đã có định lực không thể nghĩ bàn có thể biến chuyển cảnh tướng, mà chưa chắc có được thật dụng; Bồ tát đạt đến địa vị từ Bát địa sắp lên mới được sức định tự tại, do định lực có thể chuyển biến tất cả. Như có thể làm cho nước chuyển thành lửa, đất chuyển thành hư không, tất cả công cụï hại người chuyển thành công cụï ích lợi cho người, cảnh khổ địa ngục y theo định lực gia trì có thể thành trong mát, nghiệp báo bức bách có thể thành an lạc. Những cảnh biến đổi nầøy không phải chỉ có hình tướng mà còn được thực dụng hoàn toàn.


2- Thông lực không thể nghĩ bàn.

Thông lực là chỉ cái công dụng phát khởi của định huệ. Từ Bát địa trở về trước, định lực và thông lực có sai khác, do định lực biến ra hình tướng mà không có thực dụng, hình tướng do thông lực biến ra có thực dụng. Từ Bát địa sắp lên, định lực và thông lực giống nhau, những hình tướng đều có thực dụng. Thông lực không thể nghĩ bàn. Có thể cử một thí dụ rất dễ để thuyết minh. Như người dùng thuật thôi miên trong tinh thần trị liệu, họ đối với người bệnh không dùng thuốc, chỉ do tâm của người trị và người bệnh lặng lẽ cảm phát khởi điểm linh thông, làm cho người bệnh thân tâm họ bị chi phối, từ đó làm bệnh có thể lành. Những việc không dùng thuốc để trị bệnh nầøy là sự phát khởi của Thông lực không thể nghĩ bàn. Bình thường dùng thuốc để trị bệnh chính là sức nhân duyên có thể nghĩ bàn.

3- Nhờ vào thức lực không thể nghĩ bàn.

A Lại Da thức vốn chứa đủ hạt giống vô lậu và hạt giống ba cõi, chín địa hữu lậu, nếu dục giới chủng tử hữu lậu gặp nhơn duyên liền khởi ra hiện hành mà được dị  thục thức cõi dục. Ởû trong căn thân nầy, khi thế giới đều có liên hệ dục giới, đều do dị thục thức dục giới biến hiện ra, chỗ thấy, chỗ nghe đều thuộc về dục giới, không thể vượt trên dục giới. Chỉ do định lực hoặc thông lực thuộc năng lực không thể nghĩ bàn làm tăng thượng duyên thù thắng, có thể nhờ chủng tử vô lậu hoặc chủng tử sắc giới, vô sắc giới trong A Lại Da thức sanh khởi hiện hành, thân tuy ở Dục giới có thể nhờ dùng thức sắc và vô sắc giới biến hiện ra cảnh sắc và vô sắc giới, hoặc nhờ thức vượt qua sắc và vô sắc giới dùng biến hiện cảnh xuất thế. Như người ở thượng giới có thể nhờ vào thức hạ giới mà hiểu rõ cảnh hạ giới, người tu nhị Thiền sắc giới tâm sắp lên, tâm thường ở trong định, năm thức trước không khởi hiện hành, chỉ khi muốn biết rõ cảnh ở dục giới, thân tuy ở nhị thiền, có thể nhờ thức dục giới mà hiểu rõ cảnh dục giới. Căn cứ vào các thứ nhờ mượn thức nầøy có thể hiểu thẳng đến Phật quả, Phật có thể nhờ cái thức của dị sanh (loài khác) làm cho dị sanh biết các việc trong tâm Phật. Khi xưa, có một ngày Phật ở trong núi từng làm cho bọn di hầu biết các việc trong tâm Phật, do nhờ thức lực không thể nghĩ bàn, nên không nhận cái thức trói buộc trong việc có thể nghĩ bàn.

4- Năng lực thiện pháp không thể nghĩ bàn:

Chư Phật, Bồ tát và tất cả các bậc Thánh của tam thừa được thành tựu pháp vô lậu công đức được chép trong kinh điển, hoặc Phật để lại oai nghi, giới luật, ca sa, xá lợi, đều gọi là thiện pháp. Tất cả pháp nầøy đều từ Phật quả thành tựu mà ra, từ pháp thân vô lậu công đức, huân tập còn lưu lại, đó chính là đẳng lưu thân của Phật. Sở dĩ, chỉ có một mảnh ca sa của Phật, Bồ tát còn lưu lại, có thể tiêu tai, tăng phước, hoặc tụng kinh điển, hoặc cúng dường, hoặc đeo trên thân cũng có thể khỏi các thứ tai nạn, thành các thứ công đức. Cho đến như Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu đọc tụng Kinh Pháp Hoa, có thể được sáu căn thanh tịnh, mắt có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới, tai có thể nghe tiếng ở tam thiên đại thiên thế giới, cho đến tam thiên đại thiên thế giới đều ở trên thân người kia. Do năng lực thiệân pháp gia trì không thể nghĩ bàn, nên có thể phát công dụng của các thứ không thể nghĩ bàn. Những thành tựu ở đây không thể dùng pháp nhơn duyên có thể nghĩ bàn mà so sánh được, vì sức Thiện Pháp vô cùng thù thắng, chính là do lòng tin khẩn thiết chơn thật, hoàn toàn nương vào tha lực, hoàn toàn tín nhiệm vào tha lực, nương theo tha lực nên có thể được cứu, như viên đá ngàn cân bỏ vào trong nước sẽ bị chìm ngay, nếu đem bỏ lên thuyền có thể qua được bên kia bờ sông, thậm chí có thể vượt qua bể cả.


5- Nguyện lực và thệ nguyện không thể nghĩ bàn.

Nguyện lực là do công lực của tâm tập trung phát sanh lòng chí thành của năng lực ý chí. Như người niệm Phật phát nguyện vãng sanh đang lúc phát nguyện làm cho tâm lực tập trung tại thệ nguyện vãng sanh, chứa nhóm lâu ngày thuần thục thành tựu, do tu tập mà thành sức thệ nguyện, do năng lực thệ nguyện mà thành công dụng, có thể phát hiện ra những điều khác lạ hơn những các quả do nhân duyên sanh ra có thể nghĩ bàn. Tỳ Kheo Pháp Tạng có đại thệ nguyện trang nghiêm Pháp thân, trang nghiêm Phật độ để tiếp dẫn chúng sanh khắp mười phương. Với những quyết tâm, Bồ tát Pháp Tạng đã trải qua năm đại kiếp trang nghiêm Tịnh độ và thành tựu cõi Cực lạc tiếp độ chúng sanh dù chưa sạch nghiệp. Ngài đã thành công và thành Phật đến nay đã 10 Đại Kiếp và đang độ chúng sanh khắp mười phương. Năng lực thệ nguyện không thể nghĩ bàn.

Qua năm thứ không thể nghĩ bàn kể trên, ba năng lực trước thuộc Thánh quả của Ba thừa hoặc những người thành tựu thiền định đều có đủ, hành giả cần phải thành tựu thuần tưởng và cần gia hạnh. Người đến tương đương trình độ gia hạnh, liền phát khởi ra tác dụng. Trình độ nầøy dành cho số người tu tập Thánh quả chứ người thường không thể đến được. Chỉ có Thiện Pháp và Nguyện lực thì mọi người đều có thể làm được, không cần hỏi đến trình độ dụng công. Như hiện tại nghe đức Thích Ca Mâu Ni để  lời dạy trong kinh điển nói: “Phương Tây có thế giới Cực lạc là do năng lực thệ nguyện của Phật A Di Đà tạo thành. Đức Phật ở thế giới kia vì muốn tiếp dẫn chúng sanh phát nguyện vãng sanh trong mười phương mà lập ra. Nếu người nào thật lòng tin lời Phật nói, tin có nguyện lực của Phật A Di Đà tạo thành thế giới cực lạc, đây là năng lực của Thiện Pháp.

Chúng ta biết Đức Phật A Di Đà thành lập thế giới nầøy là để nhiếp thọ chúng sanh phát nguyện vãng sanh trong 10 phương, hành giả chỉ cần tin chắc Thiện Pháp của Phật, thệ nguyện y theo nguyện lực của Phật A Di Đà để vãng sanh, liền có thể được vãng sanh. Hình thức nầøy rất dễ dàng, vì trong kinh nói cần phải tu đến Bồ tát vị ở địa tiền, thêm tứ gia hạnh thành tựu định lực, khi vào Sơ địa muốn vãng sanh mới được vãng sanh về Tịnh độ, đó là năng lực nhân duyên có thể nghĩ bàn. Nếu dùng năng lực không thể nghĩ bàn thì người chưa thành tựu thiện căn, chỉ cần dùng năng lực tin thiện pháp, cùng với sức nguyện khẩn thiết trong tâm là thành tựu được thiện căn, có thể cảm thông với nguyện lực Phật A Di Đà. Nguyện lực của Phật A Di Đà đã thành thì nguyện lực của mình cũng theo đó mà thành tựu, có thể dự phần vào thế giới Cực lạc. Xin đem một thí dụ để chứng minh: Như có một phú ông lập một di chúc đem tất cả tài sản của mình trợ giúp cho những phế nhơn khuyết tật khắp thế giới. Lúc ấy nếu có một người đã bị khuyết tật thì người ấy sẽ được hưởng dùng một phần tài sản theo di chúc. Người phát nguyện vãng sanh Cực lạc cũng được hưởng dụng một phần ở thế giới Cực lạc, cũng như người hưởng tài sản kia.

Những điều đã nói Thiện pháp và Nguyện lực cùng với thuyết phổ thông về ba yếu tố niệm Phật tín nguyện hành không trái nhau. Y theo Thiện Pháp lực là tín tâm, phát nguyện vãng sanh là nguyện lực. Tín nguyện chơn chánh xác định kiên cố, bất luận thực hành có cạn sâu đều  có  thể  vãng sanh, chẳng qua việc thực hành sâu thì quả vị cao hơn mà thôi. Người niệm Phật được vãng sanh là do năng lực không thể nghĩ bàn hòa hợp với nhơn duyên mà kiến lập pháp môn cho nên có ra những kết quả tối thù thắng. Phàm người niệm Phật cần phải hiểu rõ đạo lý căn bản nầy, rồi sau mới phát tâm niệm Phật, chắc chắn không có tà thuyết nào lay động nổi.

Nam Mô A Di Đà Phật


Câu hỏi Nguyên Lý Vãng Sanh:

1. Thế nào là năng lực có thể nghĩ bàn? Giải thích thế nào là thắng duyên.

2. Thế nào là năng lực không thể nghĩ bàn? Năng lực nào có mấy thứ? Người tu Tịnh độ cần mấy thứ năng lực?

3. Ngoài tâm không Pháp, Phật chẳng tới lui, làm sao có việc Phật rước vãng sanh? Xin giải rõ.

4. Bàng cư sĩ nói: “Phật quốc cách đây mười muôn ức cõi, biển lớn khi động sóng lớn vô biên, gió đen dồn dập, tuy chỉ ngàn dậm, người đạt được không có một. Hỏi làm sao có thể vãng sanh?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

Trong Kinh dạy: “Chúng sanh ở thế giới Ta Bà tạo ra nhiều thứ nghiệp nên chỗ thọ báo chẳng đồng.” Thực vậy, nhân loại sống trên thế giới có nhiều điểm chẳng đồng, cùng là con người nhưng họ chẳng đồng với nhau về thiên tư, chẳng đồng với nhau về cá tánh, không đồng sở thích và không đồng cả thú vị.


Vì sao? Vì mỗi người khi đến thọ sanh ở cõi này, trước đó đều tạo ra một cái nghiệp riêng. Cái nghiệp do nhân đã tạo từ đời trước và dẫn chúng ta đến để nhận cái quả báo ở đời này. Tuy chúng ta đã thọ sanh, nhưng cái nghiệp đã tạo từ đời trước vẫn không mất, nghiệp đó gọi là Câu sanh nghiệp hay Câu sanh hoặc, vì nhân quả thông cả ba đời, nên có người sanh ra thông minh giàu có, có người sanh ra dốt nát bần hàn. Thậm chí nghiệp còn chi phối cả tánh tình của con người, có người sanh ra tánh dễ nóng nảy nhưng ít tham, có người sanh ra tánh rất tham lam nhưng ít giận. Tất cả những sự chi phối ấy là do chúng ta phải “mang nghiệp thọ sanh”.

Người muốn không còn mang nghiệp thọ sanh trong ba cõi, cần phải diệt trừ hết 88 món  Kiến hoặc và 81 món Tư hoặc, chứng quả A La Hán mới thoát khỏi sanh tử; nếu trong lúc tu mà hoặc nghiệp còn bằng chừng mãi tơ thì vẫn phải theo nghiệp vào nẽo luân hồi. Người muốn dứt được hoặc nghiệp để chứng vô sanh, phải là người huệ nghiệp thuộc vào Bậc thượng căn,    hoặc những bậc túc nghiệp tu tập đã thuần thục. Vì thế, số người đoạn sạch nghiệp rất ít và người chứng đạo cũng rất hiếm hoi. Trái lại, hoài bão của đức Thế Tôn là “mở cửa lớn cứu độ tất cả chúng sanh.” Nên Ngài mở lòng Đại từ bi, nói ra pháp môn Tịnh độ, một phương pháp dễ làm, rất khoa học  rất phổ thông, ai cũng có thể làm được. Một phương pháp gồm cả ba căn, những người có căn cơ bậc thượng, niệm Phật dễ chứng vào thật tướng; những căn cơ bậc trung niệm Phật Tam muội tùy ý vãng sanh, kẻ trược ác phàm phu nhờ câu niệm Phật mà đới nghiệp vãng sanh về cõi Cực lạc, chứng vào vị bất thối lần đến Phật quả.

Ngày nay, chúng ta sanh nhằm thời mạt pháp, cách Phật đã xa, căn cơ bậc thượng rất ít oi mà hầu hết đều là bậc trung và bậc hạ. Là những kẻ bậc trung và bậc hạ chưa dứt sạch được Kiến hoặc và Tư hoặc mà được thoát khỏi luân hồi gây nhiều nghi vấn, vì thông thường, người thọ nghiệp, nghiệp nào nặng thì lôi trước! Chúng ta từ vô thỉ tội nghiệp chất chồng, làm thế nào chúng ta có thể mang nghiệp ngàn cân để có thể đi về nơi mình muốn? Vì sao người toàn nghiệp uế lại có thể sanh về cõi Tịnh. Điều kiện nào để người mang nghiệp có thể vãng sanh? Đó là những điểm mấu chốt mà người niệm Phật cầu vãng sanh cần phải biết rõ.

I- Nhận định: Đới là mang, nghiệp là những thói quen, những tập quán lâu đời do mình tạo thành, nó có sức mạnh quản trị con người từ lúc sống đến lúc thác. Nghiệp là cái năng lực do sự thiện ác của chúng sanh tạo thành từ đời trước, hoặc đời này làm nhân quả cho nhau. Do có nghiệp mà con người sanh ra có giàu nghèo, sang hèn, thọ yểu, ngu trí khác nhau. Nó là chủ trong việc dẫn con người thọ sanh, luân chuyển trong sanh tử luân hồi. Vãng sanh là sanh về. Ở đây chỉ cho người vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Đới nghiệp vãng sanh là mang nghiệp thiện ác còn dư lại vãng sanh về thế giới Cực lạc. Đây là do sức chính mình nương vào sức đại nguyện của Phật A Di Đà mà thành tựu, như cục đá tuy nặng nhờ nương vào thuyền lớn mà dễ dàng qua sông, hạt cát dù nhỏ nhưng không đặt vào thuyền vẫn nằm yên tại chỗ. Chim se sẻ có đôi cánh mềm không thể bay xa hơn một dặm, nhưng nếu biết nương vào cánh bằng thì có thể vượt trùng dương. Thuyền lớn và cánh bằng tượng trưng cho sức đại nguyện; cục đá to tượng trưng cho nghiệp lực và cánh mềm của chim sẻ tượng trưng năng lực yếu kém của chúng sanh. Người tu Tịnh độ trong đời mạt pháp phần nhiều chỉ nương vào đại nguyện của Phật A Di Đà mang nghiệp vãng sanh. Việc vãng sanh coi như là được chứng quả. Vì sao? Vì người về cõi Cực Lạc rồi liền vào chánh định tụ, chứng vị bất thối, phiền não không cần đoạn tự nhiên tiêu diệt, lần tiến đến quả Vô thượng Bồ đề. Vì thế, điều quan trọng người tu Tịnh nghiệp là làm thế nào để có thể mang nghiệp vãng sanh về cõi Cực Lạc.


II- Hành tướng của Nghiệp: Trước tiên chúng ta cần biết rõ ràng hành tướng của nghiệp, từ đó chúng ta mới hiểu rõ cách thế nào mang nghiệp vãng sanh về cõi Cực Lạc. Nghiệp có nghiệp thiện và ác. Người bị nghiệp dẫn đi thọ thai phải nhận hai thứ nghiệp đó là cộng nghiệp và biệt nghiệp.

A- Cộng nghiệp: Là nghiệp chung cho mọi loài. Tuy cùng sanh ra trên trái đất nhưng có loài sanh ra bảo đảm suốt đời no ấm, như các loài ăn cỏ thì ở đâu cũng có. Trái lại có loài sống ở trên cây lại ăn thực phẩm ở dưới nước nên phải chịu bữa đói bữa no. Trên thế giới có dân tộc phú cường, có dân tộc nghèo hèn dốt nát. Giá trị con người ở quốc gia nghèo đói còn tệ hơn giá trị con vật ở quốc gia phú cường. Có đất nước dồi dào tài nguyên, dân chúng sống trong cảnh nhàn hạ phú cường, có     những nước khô cằn phải sống cảnh tha phương cầu thực. Nhân loại còn có chia những màu da đen, vàng, đỏ, trắng và trí tuệ khả năng mỗi màu da có khác nhau. Vì thế, người sanh ra tùy theo nghiệp thiện nhiều hoặc ác nhiều mà chịu cộng nghiệp.

B- Biệt Nghiệp: Là nghiệp riêng của từng cá nhân mỗi  người. Con người sống trong vòng luân hồi từ khi sống đến khi thác, tiếp nối thọ sanh đời này sang đời nọ đều bị quản thúc bởi nghiệp không phút nào rời. Nghiệp có nghiệp nhân và nghiệp quả.

1- Nghiệp nhân: nguyên nhân tạo ra nghiệp gồm có quá khứ và hiện tại:

a- Nguyên nhân quá khứ: Nếu căn cứ vào 12 nhân duyên mà ta đã học thì sở dĩ có nghiệp là do mê lầm  (hoặc) làm gốc để tạo ra nghiệp, rồi khi mang nghiệp phải nhận chịu lấy quả khổ. Như người có nghiệp cờ bạc ban đầu có ý nghĩ sai lầm (hoặc) là cờ bạc dễ kiếm tiền, bỏ ra một sẽ có ngàn lời rồi đâm đầu vào chỗ đỏ đen, dần dần thành nghiệp bài bạc, mang nghiệp bài bạc vào mình là phải nhận lấy hậu quả khổ cực cơ hàn. Như thế, nguồn gốc của nghiệp là vô minh (hoặc) từ vô minh sanh ra hành (nghiệp).

b- Nguyên nhân hiện tại: Nguyên nhân hiện tại còn gọi là Chi diệp vô minh. Nguyên nhân này bắt đầu từ đời sống hiện tại làm nhân tạo ra nghiệp và chịu quả khổ ở tương lai. Nguyên nhân này bắt đầu từ lòng tham ái, mắc xích thứ 8 trong vòng sanh tử 12 nhân duyên. Như người bị tù vì tội trộm, ban đầu, thấy tiền bạc nữ trang của người sanh lòng tham ái mê lầm cho rằng vật của người dễ lấy (ái hoặc) rồi lén giữ lấy (thủ hữu nghiệp) thành nghiệp trộm để chịu quả khổ vào tù.

Động cơ tạo nghiệp trong hiện tại là thân, miệng và ý:

* Nghiệp thân: Sau khi bị vô minh hay ái làm chủ rồi thì thân nghiệp sẽ tạo ra những nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Trong phạm vi của thân nghiệp có thể kể 3 hành động chính. Nếu là ác thì hành động sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Nếu là hành động thiện thì phóng sanh, bố thí, tịnh hạnh.

* Khẩu nghiệp: Khẩu nghiệp tạo tác bằng cách nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.     Nếu tạo nghiệp thiện thì nói ngay thẳng, nói không thêm bớt, nói lời diệu dàng và nói lời hòa hợp.

* Ý nghiệp: Ý nghiệp là tạo tác bởi ba lãnh vực: Tham, sân và si. Ba động cơ tạo nghiệp này làm nhân tạo ra một sức mạnh trói buộc, quản trị con người đưa trở về với cái quả mà nhân nghiệp đã tạo ra.


2- Nghiệp quả: Khi người đã tạo ra nhân nghiệp rồi nó thành chủng tử, có sức mạnh trói buộc con người và dẫn đến chỗ thọ quả. Như người ghiền á phiện, ban đầu tập hút để thành chủng tử ưa thích, sau đó có một năng lực lôi kéo đến phòng hút, rồi thúc đẩy phải tìm đủ cách để có tiền thỏa mãn cho việc hút và từ đó bị dẫn vào kết quả tội ác mà không tài nào thoát ra được. Những trạng thái nghiệp được diễn tả như sau:

a- Nghiệp chủng: Nghiệp chủng là hột giống nghiệp, tất cả tạo tác của ba nghiệp gây nhơn đều biến thành chủng tử (hạt giống) rồi gửi vào trong tàng thức   đến khi gặp duyên liền khởi ra hiện hành không hề hao mất. Như chúng ta có hành động, ý nghĩ, việc làm đã thực hiện, chúng ta tưởng đã mất theo thời gian, nhưng tất cả đều biến thành chủng tử có thể nhớ lại dễ dàng. Người tạo nghiệp cũng có đầy đủ chủng tử như thế.

b- Nghiệp lực: Khi hành động của một người được lập đi lập lại nhiều  lần sẽ tập thành thói quen, thói quen của một năng lực vô cùng mạnh mẽ có thể lôi kéo chúng ta, bắt chúng ta phải thỏa mãn những đòi hỏi của chúng. Một người nghiện rượu, ban đầu do sự mời mọc của bạn bè, tập lâu thành thói quen, khi đã quen rồi, nó có một sức mạnh bắt buộc người nghiện phải thỏa mãn thói quen ấy bằng cách phải đến hàng rượu mua, dù phải dầm mưa dãi nắng. Sức mạnh ấy gọi là nghiệp lực. Nó có khả năng đưa người tạo nghiệp lành đến chỗ hạnh phúc an vui, và cũng có khả năng đưa người tạo ác nghiệp đến nơi khổ não hoạn nạn.

c- Nghiệp hệ: Vì nghiệp có chủng tử và có năng lực nên có khả năng trói buộc chúng ta từ đời này sang đời khác mà không bao giờ rơi mất, nó là những nhân quả, như một sợi dây trói buộc gìn giữ từ những thời gian này đến thời gian khác, từ đời này sang đời khác không giây phút nào rời. Như người học trò nhỏ phải lặp đi lặp lại bài học nhiều lần, bài học biến thành chủng tử có khả năng gợi nhớ, vì thế dù bài học có bỏ lâu nhưng khi cố gợi lại thì bài học cũ sẽ được nhớ rõ.

d- Nghiệp dẫn: Nghiệp còn có một năng lực dẫn người sắp mãn báo thân đến nhận kết quả mà trong đời mình đã gây nhân. Theo nguyên lý chung “Nghiệp nặng thì kéo đi trước, hoặc tâm thức xu hướng thì cảnh giới ấy hiện ra.” Do đó, khi sắp lâm chung có bốn loại năng lực dẫn như sau:

* Cực trọng nghiệp: Nghiệp của những người có nghiệp thiện ác cực nặng. Như người suốt đời chuyên tu tịnh nghiệp, đến khi lâm chung sẽ về Tịnh độ ngay hoặc người suốt đời chuyên tu mười nghiệp lành khi lâm chung liền sanh về cõi Trời ngay. Người tạo tội cực ác như ngũ nghịch, thập ác khi lâm chung sẽ bị đọa vào cõi địa ngục ngay. Vì nghiệp cực nặng đưa thẳng đến chỗ nhận quả, không nhận trung ấm thân và không có thời gian chuyển
tiếp.

* Cận tử nghiệp: Nghiệp của người sắp chết. Khi người sắp chết thì cận tử nghiệp hiện ra như một cuốn phim quay nhanh trọn cuộc đời, từ khi nhỏ đến lúc già bất cứ việc làm gì cũng đều hiện đủ. Nếu người trọn đời làm thiện, khi cận tử nghiệp quay lại, liền cảm thấy vui vẻ, tâm thức xu hướng cảnh giới thiện liền sanh về cõi thiện an vui. Trái lại, người tạo ác nghiệp khi cảnh ác hiện ra, tâm cảm thấy sợ sệt liền bị đọa vào các đường dữ, chỉ tính dữ mà không tính lành, trước làm dữ sau làm lành chỉ tính lành mà không tính dữ, chính là ý này.

* Tập quán nghiệp: Thường ngày chúng ta có thói quen làm những việc gì, đến khi mãn báo thân ta cứ y theo nghiệp ấy mà đầu thai.

* Tích lũy nghiệp: Ngoài những nghiệp do tập quán tạo nên, chúng ta còn bị chi phối bởi những tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp phát hiện, nếu tâm thức ta xu hướng đúng nghiệp ấy. Thuở xưa, lúc Phật còn trụ thế, có một ông lão đến xin xuất gia Chư đại A la hán, quán Túc mệnh thấy ông lão trong năm trăm kiếp trước chưa hề có gieo chủng tử Phật, nên không bằng lòng cho xuất gia. Ông già ấy đến xin với Phật, Phật bằng lòng cho xuất gia. Phật bảo các vị A La Hán: Cách đây hơn năm trăm kiếp về trước, có một lần, tiền thân ông lão là tiều phu đốn củi, một hôm bị cọp rượt, lúc sắp chết, ông quá hoảng sợ nên niệm Nam Mô Phật, hôm nay nghiệp tích lũy đã thuần thục, nên ông đã phát tâm xuất gia. Như    thế, ngoài nghiệp tập quán ra, những nghiệp tích lũy từ nhiều đời trước cũng có khả năng dẫn chúng ta đến cảnh giới để đầu thai.


3- Nghiệp thông cả ba đời: Đây là vấn đề có nhiều nghi vấn, vì không có một hình thức cụ thể nào, nhưng nếu chúng ta để ý suy nghiệm một số sự việc, chúng ta sẽ thấy việc ấy rất rõ ràng.

a- Sự sai biệt về hoàn cảnh phước báu: Như chúng ta biết, nhân quả là một chơn lý, những sự kiện dị biệt xảy ra, không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, mà nó chính là nhân quả nghiệp báo. Có nhiều đứa trẻ sanh cùng ngày, cùng giờ, nhưng phước báo của chúng đều sai khác.  Những đứa trẻ con cháu của hoàng gia, vừa sanh ra là chúng nằm trên ngọc vàng nhung lụa. Có   những đứa trẻ con hạng cùng đinh hạ tiện mới sanh ra là đã nhận lấy hoàn cảnh khố rách áo ôm. Cùng mới sanh ra chúng đâu có tạo phước hay tạo tội gì mà có sự sai biệt như thế! Phải chăng nghiệp quả đã tạo ra từ đời trước?

b- Sự sai biệt về trí tuệ: Cùng trong một lớp học, thầy giáo vẫn dạy một bài chung cho cả lớp có cả mấy mươi học trò, nhưng mỗi em đều có một kiến thức khác nhau, có em giỏi toán, có em giỏi văn chương, có em giỏi lịch sử. Đó là điều xác nhận bài học đã khơi dậy được tập quán cũ, không phải chỉ ở trong đời này, mà   kiến thức đó đã thu nhận được từ đời trước. Một thí dụ thực tế để xác minh: Cách đây khoảng mười năm trước, lúc tất cả học sinh phải học toàn Pháp văn, tôi đã theo học Pháp văn từ lớp Đồng ấu, sau đó, chương trình đổi sang Việt. Tôi theo học Việt và chọn Anh văn làm sinh ngữ chính. Đã bỏ Pháp văn mấy mươi năm, trong ký ức tôi dường như không còn nhớ một chữ pháp nào. Nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt, tôi và các bạn phải học   tiếng Pháp. Ban đầu, tôi cũng như các bạn nhưng sau hai tuần học tôi đã trội hẳn các bạn, những bài học năm cũ lần lần được khơi dậy, và pháp văn đối với tôi hiểu thật dễ dàng. Trường hợp các thần đồng đủ chứng minh nghiệp quả có liên hệ nhiều đời.

c- Sai biệt về hình dáng: Có hai đứa trẻ cùng bằng tuổi nhau, cùng được mặc đồ giống nhau, nhưng khi đưa đến cho chúng ta nhìn, chúng ta đều nhận biết trong hai đứa trẻ có đứa trẻ thông minh đỉnh ngộ, có đứa trẻ ngu đần. Đồng thời chúng ta cũng có thể biết đứa trẻ nào là con nhà giàu, đứa trẻ nào là con của nhà nghèo thực rõ ràng. Phải chăng hình dáng đã xác nhận rõ phước báo đã tạo ra từ đời trước.

d- Sai biệt về tánh tình: Một đàn con do cha mẹ sanh ra, nhưng khi lớn lên rồi mỗi đứa có một tính khác nhau. Có đứa giận nhiều nhưng ít tham, có đứa tham nhiều nhưng ít giận, có đứa tham giận nhưng ít si mê. Có đứa tánh hiểm độc, có đứa tánh thuần hòa dễ tha thứ. Tánh ấy không phải do tập quán của gia đình hay của xã hội, mà khi phát sanh tánh ấy đã phát lộ. Trong nhà Phật gọi đó là Câu sanh hoặc. Câu sanh hoặc là những hoặc nghiệp đã có từ trước và theo ta mà sanh. Điều này chứng tỏ nghiệp quả thông cả ba đời.

III- Vấn đề mang nghiệp vãng sanh:

1- Quan niệm thông thường: Nói đến vấn đề mang nghiệp vãng sanh là chỉ cho chúng sanh khi mạng chung sẽ mang những nghiệp còn tồn tại đi thọ sanh từ một thế giới này đến một thế giới khác, loài này sanh về một loài khác, hoặc một cõi này sanh đến một cõi khác như sanh về cõi Phật, cõi trời, cõi nhân gian, thậm chí sanh vào những cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng đều gọi là vãng sanh. Thông thường vãng sanh có ý chỉ cho trạng thái chết từ chỗ này đến chỗ kia. Trong kinh dạy: Trừ những bậc đã chứng được Thánh quả, các vị ấy đã thoát khỏi ngoài vòng sanh tử, còn tất cả chúng sanh sau khi lâm chung đều phải vãng sanh, vì khi chết rồi phải đầu thai đến một nơi khác. Như thế, đới nghiệp vãng nghiệp là người còn mang nghiệp khi sanh về một  thế giới, hoặc một cảnh giới khác. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, trôi nổi trong vòng lục đạo luân hồi hoặc lên hoặc xuống, hoặc nổi hoặc chìm, ngoài nghiệp báo phải thọ sanh, chúng ta còn phải mang biết bao nhiêu loại nghiệp khác theo. Như người ở trong cõi đời, trọn một đời người tạo ra biết bao nhiêu là nghiệp, có nghiệp thiện, có nghiệp ác, có nghiệp tốt, có nghiệp xấu, có nghiệp sanh về cõi Trời, có nghiệp sanh về cõi người, có nghiệp sanh vào ba đường ác, không thể kể xiết. Nhưng khi quả báo cũ  kết thúc thì một sanh mạng mới lại bắt đầu. Theo luật chung thì nghiệp nào nặng nhất sẽ dẫn mình đến cảnh giới ấy để thọ thai, và chỉ nhận một thứ quả báo đó mà thôi, còn những quả báo khác vẫn chưa tiêu, vẫn còn mang theo và lần lượt trả đến khi nào sạch hết. Trong Đạo Phật thường dạy: “Phàm người tạo tác ra nghiệp đều có khả năng cảm quả, chỉ không định lực nào phải xem thời tiết nhân duyên mới có thể định được. Người khi   chết muôn việc đều bỏ lại, chỉ có nghiệp theo mình.”

Trong Duy Thức học nói: “Trong A lại da thức chúng ta chứa nhóm vô biên chủng tử nghiệp.” Chủng tử nghiệp nhiều như vậy đâu có thể nào thọ báo một lượt. Chỉ bị lôi theo chủng tử nào nặng nhất để thọ báo, còn các chủng tử khác dĩ nhiên phải mang theo. Qua những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy tất cả chúng sanh đều phải mang nghiệp vãng sanh về thế giới mà mình thọ sanh.


2- Quan niệm của các pháp môn tự lực: Các Pháp môn tự lực không chấp nhận việc mang nghiệp vãng sanh, mà phải dứt trừ nghiệp để chứng vô sanh, theo quan niệm của các Ngài thì tánh chất của nghiệp vốn là không, không có chủ thể, nên cũng không cần phải dứt trừ, chỉ cần lấy một vật khác đối nghịch, thay đổi là nó tự tan, như ánh sáng tới thì bóng tối tự nhiên tiêu diệt, tâm giác ngộ đã hiện hữu thì vọng thức sanh diệt sẽ không còn. Kinh Duyên Giác dạy: “Biết huyễn tức ly, ly tức Niết bàn, không cần tu chứng.”Sự thực là thế, những năng lực của nghiệp không thể nghĩ bàn, nó khống chế chúng sanh từ nhiều đời nhiều kiếp mà không một ai có thể tránh khỏi. Nó theo sát chúng sanh như hình với bóng nên khó thể trốn tránh, nó là hậu quả tất yếu mà chúng sanh đã gây nhơn nên vô cùng tai hại. Người muốn thoát được nghiệp phải là bậc Thượng sĩ xem ngũ uẩn đều không thì nghiệp tâm theo đó mà tiêu diệt.

Dù vậy, các hàng tu theo phương pháp tự lực vẫn phải dứt một số hoặc nghiệp nhất định để tiến đến quả vị Vô thượng Bồ đề. Các hàng nhị thừa phải dứt hết 88 món Kiến hoặc và 81 món Tư hoặc ở tam giới mới chứng được quả Vô sanh, thoát ly phần đoạn sanh tử trong Tam giới nhưng vẫn còn biến dịch sanh tử ngoài tam giới. Các hàng Bồ Tát khi vượt qua quả vị Nhị thừa thì cái mê lầm về cá nhân mình đã hết, nhưng cái mê lầm của chúng sanh còn nhiều như cát bụi cần phải diệt trừ, đó là trần sa hoặc của các hàng Bồ Tát. Tất cả các nguồn gốc của hoặc nghiệp đều từ vô minh hoặc mà ra, nó rất vi tế, Bồ Tát cần phải phá hết trần sa hoặc rồi tiến đến vô minh hoặc, phá được hoặc này trí giác mới được toàn minh tỏa khắp mười phương đó mới gọi là Phật.

Tóm lại, quan niệm của các pháp môn khác, xem nghiệp vốn là huyễn vọng cần phải lấy ánh sáng giác ngộ diệt trừ, phá một phần vô minh chứng một phần pháp thân, như một chiến sĩ xông pha ngoài trận mạc, giết từng địch thủ để giành từ tấc đất không cần một ai giúp đỡ.

3- Quan niệm của người tu Tịnh độ: Người tu theo pháp môn tự lực, chỉ còn nghiệp hoặc bằng sợi tơ cũng phải theo nghiệp dẫn thọ sanh vào lục đạo, khi đã thọ sanh vào lục đạo, người đọa lạc thì nhiều, người tiến lên thì ít, nên trong kinh Phật dạy: “Khi để mất thân này, người tiến lên ít ỏi như đất ở trong móng tay, người bị đọa xuống nhiều hơn đại địa.” Thấy chúng sanh ở trong thời mạt pháp, phước mỏng tội dầy, nên Đức Thế Tôn khởi đại bi tâm chỉ cho chúng sanh pháp môn tu Tịnh độ, có thể mang nghiệp vãng sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà, do năng lực của đại nguyện và dứt một phần nghiệp nhân mà thành tựu:

Phải dứt nghiệp nhân: Tuy chúng ta không dứt hết được nghiệp hoặc, nhưng chúng ta cần phải trừ những phần chính yếu làm hư hoại chánh niệm như lòng tham ái, những động cơ tạo nghiệp thì việc vãng sanh sẽ dễ dàng hơn.

Phải bớt lòng tham ái: Nguyên nhân tạo ra sanh tử đời sau là lòng tham ái, nó là vô minh hoặc hiện tại làm nhân để từ đó tạo nghiệp và nhận lấy quả khổ sanh tử   kế tiếp ở đời sau. Người niệm Phật quan trọng nhất là tâm phải được chánh niệm để lần lượt nhất tâm mà lòng tham ái là kẻ phá hoại số một làm hoại loạn chánh niệm và nhất tâm, mà nó cũng là đầu mối của tám vạn bốn ngàn trần lao. Do đó, người muốn mang nghiệp vãng sanh cần phải biết họa hại của nhân tham ái và dứt lần lần từng phần, bằng cách chúng ta tu hạnh Hân yểm,   biết cõi Ta bà vô thường, khổ, không, vô ngã, thì lòng ái sẽ bớt, thêm vào đó chúng ta thích cõi Cực lạc an vui. Lần lần lòng tham ái sẽ khô lạnh thì việc nhất tâm chúng ta thực hiện dễ dàng.

Phải ngăn động cơ tạo nghiệp: Lòng tham ái là đầu não thúc đẩy làm cho các động cơ, thân, khẩu, ý, tạo nghiệp nếu chúng ta khéo léo ngăn động cơ tạo ác thì có thể vô hiệu quá đầu não , như người muốn đi mà chân bị què thì không thể tự do thực hiện được. Để giúp cho việc động cơ tạo nghiệp người tu Tịnh độ cần phải thực hành Ngũ Niệm Môn và cố gắng nhất hướng chuyên niệm thì động cơ tạo nghiệp sẽ được bớt dần và sẽ trở thành tịnh nghiệp.

Phải tu tịnh nghiệp: Trong Quán Kinh Phật dạy: Người muốn sanh về cõi Cực Lạc cần phải tu ba món phước:

a. Hiếu dưỡng cha mẹ, vâng thờ sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp.

b. Thọ trì tam quy, giữ đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.

c. Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhơn quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến tấn hành giả.

Người thực hành ba việc kể trên gọi là người tu tịnh nghiệp. Phật bảo bà Vi Đề Hy: Bà có biết chăng? Ba thứ Tịnh nghiệp này là chánh nhân Tịnh nghiệp của ba đời chư Phật. Đây là tịnh nghiệp chính mà người vãng sanh cần phải tu.


Phải thực hành trọn vẹn đại nguyện: Thuyền từ đại nguyện của Phật A Di Đà luôn luôn theo sát bên cạnh mà chúng ta không chịu bước lên. Người theo đại nguyện thứ 35 chỉ cần có 2 bước hân và yểm là được lên thuyền đại nguyện; có người theo đại nguyện thứ 18 chỉ cần 3 bước tín, nguyện và hành là có thể lên thuyền; có người thực hiện đại nguyện thứ 19 chỉ cần 4 bước như: phát Bồ đề tâm, tu các công đức, phát nguyện vãng sanh, nguyện sanh Cực lạc là có thể lên thuyền; có người thực hành đại nguyện thứ 20 chỉ cần 5 bước như: nghe và nhớ danh hiệu, nhớ tưởng cõi Cực lạc, gieo các công đức chính, hồi hướng vãng sanh, nguyện về nước Cực lạc là có thể lên thuyền đại nguyện thênh thang về cõi Cực lạc. Đây là biệt nghiệp.

Về cộng nghiệp: Người tu Tịnh độ sanh về cõi Cực lạc, vì cõi ấy là cõi giáo hóa của Đức Phật A Di Đà, ở cõi này có những đặc điểm như sau:

a- Chủng tử nghiệp tự nhiên mất: Một hạt giống muốn có sanh khởi cần phải có nhân duyên mới hiện hành, nhưng nhân duyên chính để hạt giống sanh trưởng là đất, nước, gió, hơi ấm, nếu thiếu một nhân duyên hạt giống đã khó nẩy mầm nếu thiếu cả thì không bao giờ nẩy mầm được, như chúng ta gieo hạt giống trên đá, ở chỗ không có không khí, giữa lòng sa mạc hay trong băng tuyết hạt giống ấy sẽ tự hoại. Vì về cõi Cực Lạc thì thiếu hẳn nhân duyên sanh trưởng nên hạt giống sẽ không bao giờ sanh khởi được. Như người tham vàng ngọc, về cõi Cực Lạc rồi thì vàng ngọc đầy đường, chủng tử tham không còn cơ hội hiện hành nữa, tự nhiên lần tiêu diệt. Lại nữa, người về cõi Cực Lạc, làm Tánh năng của chủng tử phiền não không thể nẩy mầm, giống như hạt giống bị nấu chín, hoặc bị mụt nát nên không còn sống trở lại vì toàn thắng duyên, thắng cảnh: Từ Phụ là Phật A Di Đà, bạn là Bồ Tát bất thối, chim nói pháp, nước reo kinh, vọng tưởng không từ đâu phát sanh ra được.

b- Tự nhiên vào chánh định tụ: Trong Kinh Vô Lượng Thọ Phật dạy: “Phật bảo A Nan! Có chúng sanh nào sanh về nước kia đều được ở vào Chánh Định Tụ. Vì sao? Vì ở cõi Phật kia không có tà tụ và bất tịnh tụ. Hằng hà sa Như Lai trong mười phương đều cùng khen ngợi oai thần, công đức không thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ, lòng sanh tin tưởng vui mừng, cho đến nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về nước kia, liền được vãng sanh, trụ vào vị bất thối, chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.” Người ở vị Chánh định tụ và vị bất thối là Bồ Tát địa thượng chuẩn bị tiến lên Diệu Giác nên trần sa hoặc cũng không còn.

c- Một đời tự nhiên thành Phật: Trong Kinh A Di Đà Phật dạy: “Lại nữa Xá Lợi Phất! Thọ mạng của Phật kia và những nhân dân trong nước Ngài sống lâu vô lượng vô biên kiếp số A Tăng Kỳ nên gọi Ngài là A Di Đà.” Nhân dân ở cõi Cực Lạc sống lâu vô lượng và chỉ có tiến không lùi chắc chắn một đời dứt sạch vô minh hoặc, chứng quả vô thượng Bồ Đề.

Tóm lại: Người tu Tịnh độ có 3 năng lực không thể nghĩ bàn:

1- Năng lực tự tâm không thể nghĩ bàn: Phật dạy tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Như Lai đức tướng, ở Thánh không thêm ở phàm không bớt, nhưng vì, chúng ta bị một niệm vô minh vọng động như mây áng nguyệt tợ bụi lờ gương, nếu một khi mây tan, nguyệt hiện, bụi sạch gương trong thì năng lực và diệu dụng không thể nghĩ bàn. Người tu Tịnh độ mỗi một câu niệm Phật là trở về với tự tánh giác ngộ, gọi là Tự tánh Di Đà thì năng lực vô cùng mầu nhiệm.

2- Năng lực Thiền định không thể nghĩ bàn: Người tu Tịnh độ một câu Di Đà không rời tâm miệng là Chỉ, từng chữ quán sát rành rẽ rõ ràng là Quán. Chỉ quán được viên dung vô ngại trong câu lục tự Di Đà, lần được nhất tâm, hoàn thành tam muội, khi tam muội hiện tiền thì năng lực Thiền định phát huy diệu dụng không thể nghĩ bàn.

3- Đại nguyện Phật A Di Đà không thể nghĩ bàn: Vì lòng bi nguyện độ sanh, Phật A Di Đà trải qua vô lượng kiếp tu nhân trang nghiêm diệu độ, nay đã thành tựu, với 48 đại nguyện độ chúng sanh. Chư Phật mười phương đều khen ngợi, năng lực đại nguyện độ sanh của Ngài không thể nghĩ bàn. Như chúng ta đã biết, năng lực của nghiệp tuy không thể nghĩ bàn, nhưng nó vốn không có chủ thể, đồng thời phát khởi từ vọng tưởng mà ra. Người tu Tịnh độ chúng ta lấy 3 năng lực không thể nghĩ bàn phát xuất từ bản tánh thanh tịnh, từ khả năng siêu việt của Thiền định, và từ lòng bi nguyện cứu độ chúng sanh của Phật A Di Đà để đưa chúng sanh ở cõi Ta bà vãng sanh về thế giới Cực lạc thực dễ như trở bàn tay. Chúng ta còn lo ngại gì mà không nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ.


Câu hỏi Đối Nghiệp Vãng Sanh:

1. Căn cứ vào đâu để chúng ta phán định mỗi người đều phải mang nghiệp đi trong luân hồi?

2. Có mấy quan niệm về mang nghiệp vãng sanh? Quan niệm của người tu Tịnh Độ thế nào? Phải thực hành những gì để mang nghiệp vãng sanh về Tịnh Độ?

3.Chạm mặt là Bồ Đề, dở chân là đến đạo, cần gì phải lập thêm đạo tràng sự tướng, nhọc xác niệm phiền đâu phải diện chỉ?

4. Trong kinh chỉ khen ngợi người đọc tụng kinh đúng pháp tu hành, hiểu sau nghĩa thú, cần cầu vô niệm, mật hợp huyền căn. Vì sao lại khuyên người phải nhiều xướng tụng?

Ban Giảng Huấn

Thích Hồng Nhơn

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.