Gieo Trồng Phước Đức

CÚNG DƯỜNG CHỨNG QUẢ A-NA-HÀM

Thời Phật tại thế, có một bà nhà giàu hết lòng tin kính Tam Bảo, bà  luôn ứng dụng, hành trì, tu tập những lời Phật dạy và thường hoan hỷ phát tâm cúng dường chư Tăng.

Điều mầu nhiệm đặc biệt là bà phát tâm ủng hộ cúng dường cho người  nào thì người đó ngộ đạo. Đây là do túc duyên gieo trồng phước đức nhiều đời, nhiều kiếp của bà.

Tiếng lành đồn xa, một số thầy nghe danh, muốn đến thử xem mình có  duyên lành với vị thí chủ này không. Nhân mùa an cư kiết hạ, quý thầy  bàn nhau đến kiểm nghiệm lời đồn đãi ấy có đúng không và cũng để thăng  tiến trong mùa an cư kiết hạ này.

Được tin quí thầy đến trú xứ của mình tu tập, bà già hoan hỷ cúng  dường những gì cần thiết trong thời gian chư Tăng tu tập. Chỗ ở của bà  khá rộng rãi, rừng cây xum xuê, thuận lợi cho việc tu tập và hành thiền.

Bà thưa: “Quý thầy cứ yên tâm ở đây tu tập, không phải đi khất thực,  con sẽ cung cấp đầy đủ các nhu cầu cần thiết, con chỉ mong sao quí thầy  mau chứng thành đạo quả.

Khoảng ba mươi thầy, ai nấy cũng thuận hỷ lời thỉnh cầu của bà, ở lại tu hành miên mật, tinh tấn. Tuy nhiều thầy cùng trú, nhưng khu vườn vẫn im phăng phắc làm cho bà già đâm ra nghi ngờ, tại sao không nghe nói  chuyện hay là quí thầy giận nhau?  Tại đây, các thầy đều được chứng quả trong một thời gian ngắn.  Thời ấy, nhờ sự trực tiếp chỉ dạy của Như Lai Thế Tôn, đa số các Tỳ-kheo tu hành đều mau chứng đạo.

Tại sao trong thời Phật hiền tiền, các đệ tử của Ngài tu mau chứng  ngộ đạo quả như vậy?  Đây là điều dễ hiểu thôi, bởi đức Phật biết rõ tâm niệm của mỗi Tỳ-kheo nên Ngài chỉ dạy mỗi người một phương pháp thích  hợp với năng lực, nên các vị tu hành mau chứng đạo.

Bên cạnh, giới luật của chư Tăng hỗ trợ rất tích cực cho sự chứng đắc như đức Phật không cho giữ tiền bạc của cải tài sản nên chư Tăng dễ dàng buông xả hoặc không cho trụ xứ một chỗ lâu dài để không bị bám víu  vào sở hữu tài sản, do đó các vị tu hành mau thăng tiến.

Ngày nay, do hoàn cảnh xã hội và phong tục, tập quán không cho phép  Tăng, Ni sống như thời xưa được, chư Tăng phải có đủ điều kiện để tu và  hướng dẫn Phật tử tu hành, phải có chỗ ở ổn định… Vì vậy, chư Tăng dễ bám víu vào sở hữu tài sản và phải hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm  lợi ích chúng sinh. Họ học hiểu tới đâu hướng dẫn Phật tử tu theo tới đó, nên mức độ tu chứng của chư Tăng ngày nay rất hạn chế.

Song, Phật pháp không cố định, cứng ngắt, mà phải tùy thời, tùy duyên hòa nhập vào xã hội, miễn sao người tu sống tốt đạo, đẹp đời là đã có  lợi lạc rồi.

Đạo Phật có mặt trên thế gian là vì hạnh phúc của con người, do đó  người tu trong thời hiện đại phải khó khăn, chật vật hơn thời xưa, nhưng không vì vậy mà chúng ta cho phép mình lơ là tu tập, mà mỗi người phải  cố gắng hơn lên để không bị lui sụt trong hành trì.

Hơn nữa, thời Phật tại thế, không những đạo Phật mà các giáo phái  khác cũng không chấp nhận các việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất trong  khi hành đạo, mà chỉ có việc đi khất thực để tùy duyên hóa độ chúng sanh mà thôi.

Thời nay không có được phúc duyên như thế, nên chúng ta càng cố gắng tu hành nhiều hơn miễn là ta không thối chí nản lòng.

Trở lại sự việc bà già nghi ngờ, hoang mang tại sao chư Tăng ở đông  như vậy mà không nghe tiếng ồn. Bà gặp một Tỳ-kheo trong hội chúng để hỏi cho rõ vấn đề.

Và vị Tỳ-kheo ấy đã giải thích cho bà rõ: Trước khi chúng tôi đến đây, đã được Như Lai Thế Tôn chỉ dạy cho mỗi người một phương pháp tu  hành và chúng tôi phát nguyện: trong mùa an cư này, mỗi chúng tôi phải  tu hành cho đạt Thánh quả hết để đáp đền ơn Phật và đàn-na tín thí. Vì  vậy, chúng tôi thống nhất với nhau, mỗi người ở một góc riêng để tu tập  và hành thiền. Trong đoàn, thầy nào tu hành đạt kết quả sớm thì có trách nhiệm hướng dẫn các thầy khác trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Nghe thầy Tỳ-kheo trình bày như thế, trong lòng bà rất hoan hỷ. Từ trước đến nay bà chưa bao giờ được nghe, thấy những điều như thế. Do đó  bà khao khát muốn được biết các thầy đang tu pháp gì? Và bà có thể tu  theo được không?

Nhờ túc duyên nhiều đời, bà được một thầy Tỳ-kheo hướng dẫn cách thức tu hành, bà siêng năng, tinh tấn trong 7 ngày liền chứng được quả vị A-na-hàm. Quả vị này là một trong bốn quả Thánh Thanh văn. Bà được chứng quả trước quý thầy, có Tha tâm thông, biết được tâm niệm, ý nghĩ của  quý thầy muốn gì, cần gì, bà cúng dường chu cấp cho quý thầy đầy đủ theo nhu cầu. Vị Tăng nào vừa bị bệnh, bà liền đem thuốc tới, vị nào khởi  niệm muốn ăn món gì bà đem món ấy đến. Bà cúng dường quý thầy chu đáo, đúng mức như sở nguyện. Trong mùa an cư kiết hạ năm ấy, dưới sự bảo trợ, cúng dường của bà, hết thảy quí thầy đều được chứng đắc đạo quả.

Chư tăng khắp nơi nghe tin, ai nấy đều tán thán công đức cúng dường  và tu tập của quý thầy trong mùa an cư kiết hạ này. Đó là niềm vui duy  nhất mà bà mong muốn và cũng để đền ơn quý thầy đã độ cho bà chứng quả thứ ba A-na-hàm.

Còn quý thầy tu tập trong khu vườn, ai nấy đều rất ngạc nhiên khi  thấy mọi nhu cầu của mình mong muốn đều được bà cúng dường đầy đủ. Từ  đó, quý thầy không dám khởi niệm lăng xăng, sợ bà hay biết được sẽ chê  cười. Do đó quí thầy càng nỗ lực siêng năng, tinh cần tu tập, nên tất cả quý thầy đều chứng quả vị A-la-hán.

Biết được sự thành tâm của bà già và nhân duyên tốt đẹp của chư vị thánh đệ tử, Thế Tôn tán thán công đức tu hành của quý thầy và không  quên khen ngợi bà già thiện tri thức kia. Chúng ta thấy rõ ràng ngày xưa chư Tỳ kheo tu hành mau chứng đạo nhờ gặp bậc minh sư chân chánh, thầy  lành bạn tốt lại được phương tiện hỗ trợ, vật thực đầy đủ, quí thầy khỏi cần lo lắng cưu mang nên tất cả đều tập trung vào đề mục để chuyên tu  nên mau chứng đạo.

Một hôm, có thầy Tỳ-kheo nghe chuyện, đến thỉnh cầu đức Phật cho phép đến khu vườn để được bà già chu cấp đúng như ý nguyện, Như Lai Thế Tôn  chấp thuận.

Trên đường đi đến chỗ bà lão, vị Tỳ-kheo khởi niệm muốn bà lão chuẩn  bị cho mình một giường tòa để nghỉ ngơi, cho ăn những món ưa thích. Biết được ý niệm ấy, bà già ra đón thầy tận cổng ngoài. Bà thưa: “Xin mời Đại đức vào trong nghỉ ngơi, giường tòa con đã đã chuẩn bị sẵn rồi.”

Thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên đến sững người, tại sao mình mới nghĩ như vậy mà bà lão đã biết? Để xem các bữa ăn của mình sắp tới bà lão sắm  soạn thế nào? Quả không sai, những gì thầy mong muốn đều được bà lo đầy đủ không thiếu món gì.

Lúc đầu thầy Tỳ-kheo rất hoan hỷ trong lòng, nhưng nghĩ lại, thầy đâm ra lo sợ. Bởi mình vừa muốn ăn món gì, cần vật dụng nào, bà già liền  cho người mang tới ngay. Vậy mình tu mà còn khởi lòng tham cầu nhiều  quá. Như vậy ở đây mình nghĩ gì bà già này đều biết hết, thầy Tỳ-kheo  cảm thấy bất an trong lòng, lo sợ đủ điều, thầy xin cảm ơn bà và lặng lẽ rút lui.

Trên đường trở lại Tịnh xá, thầy Tỳ-kheo gặp đức Phật và Tăng đoàn đang khất thực. Thầy Tỳ-kheo liền tiến đến trước mặt Thế Tôn quỳ xuống đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, nay con trở lại Tịnh xá của mình tu  hành, bởi ở chỗ bà lão, con sợ mình suy nghĩ bậy bạ nhiều quá làm mất uy tín của Tăng đoàn, nên con không dám ở lại trú xứ của bà ấy nữa.”

Được nhân duyên tốt, đức Phật khuyên thầy trở lại chỗ bà già tu tập,  bởi nơi đó sẽ cho thầy cơ hội phát triển công năng đạo hạnh tốt nhất.  Vâng lời đức Phật, thầy trở lại khu vườn bà lão, lần này thầy không dám  lơ là, hễ khi vừa có một tạp niệm dấy lên, thầy liền buông xả không bám  víu, cứ thế, thầy miên mật chánh niệm trong từng phút giây không gián đoạn. Nhờ vậy chẳng bao lâu thầy chứng quả A-la-hán.

Qua câu chuyện trên, cho ta một bài học quý báu của cuộc đời. Việc tu tập ai cũng có phần, chỉ có điều là ta có quyết tâm tu hành đến nơi đến chốn hay không? Việc tu hành không chỉ dành riêng cho người xuất gia mà người tại gia cũng có phần. Người tại gia, nhờ có phước đức, không phải bận rộn lo ăn, lo mặc, nên việc tu hành được thuận tiện, dễ dàng như bà già kia. Còn người xuất gia, không phải lo lắng, mọi việc đều có người  sắp xếp giúp đỡ, việc còn lại là ta có dám can đảm buông bỏ hết mọi vọng niệm hay không? Vì vậy, việc tu hành chứng quả không dành riêng cho  người xuất gia mà người tại gia cũng có phần.

Người xuất gia cần phải nhớ rằng, hằng ngày nhờ thọ dụng của đàn-na  tín thí tứ sự cúng dường, phải mang nợ nần chồng chất, nếu không cố gắng tu hành thì tự chuốc họa vào thân. Ngày nay có một số Tăng, Ni vì sợ thọ dụng của đàn-na tín thí mà tu tập không đạt kết quả phải mang tội,  nên họ tự thân kiếm sống bằng các hình thức thế gian như gieo trồng hoa  màu, sản xuất dụng cụ tiêu dùng, thực phẩm chay, hay mở quày bán kinh  sách, văn hóa phẩm v.v…Những hình thức tự tìm cách thức nuôi sống bản  thân để tu hành là rất tốt, nếu mình không say đắm vào công việc mà xao  nhãng hành trì, tu tập. Ngược lại, người thọ nhận phẩm vật cúng dường  của đàn-na tín thí là cách thức lúc nào cũng thấy mình được răn nhắc  phải tu tập, hành trì. Người quyết chí tu thân, lập hạnh thì không sợ mang tội vì thọ nhận phẩm vật cúng dường.


BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG TRONG SẠCH 

Một người nông dân hiền lành, chất phát có một vợ hai con, một trai,  một gái, sinh sống bằng nghề trồng các loại hoa màu. Tháng giêng năm ấy, họ thu được một quả bí đầu mùa nhằm ngày sinh nhật đức vua. Anh nông  dân đã không ngần ngại đem quả bí đầu mùa vào Hoàng cung để dâng lên đức vua nhân ngày sinh nhật lần thứ 50 của Ngài, với tất cả tấm lòng thành  kính, tôn trọng của mình.

Trong ngày này, nhà vua nhận được rất nhiều phẩm vật trân quý, nhưng đối với người nông dân này, tuy món quà rất đơn sơ (quả bí) đã làm cho  nhà vua động lòng trắc ẩn và rất hài lòng khi nhận quả bí đó. Ngài  truyền lệnh đặt quả bí vào mâm vàng, và ân cần thăm hỏi về gia thế của  người nông dân.

Để đáp lại tấm thâm tình cao cả đó, nhà vua đã bù lại bằng những món  quà cao quý, dù gia đình anh nông dân có làm lụng vất vả suốt đời cũng  không thể nào có được. Trước khi ra về, nhà vua tặng cho anh một túi gấm cẩn ngọc để bù lại chiếc túi rách đựng bí và 100 đồng tiền vàng để làm  vốn làm ăn và một nhẫn kim cương cho người con gái làm của hồi môn khi  lấy chồng.

Gia đình người nông dân nhờ bố thí một quả bí với tất cả tấm lòng  hoan hỷ chân chật mà được thoát kiếp nghèo khổ. Từ đây, anh và gia đình  có điều kiện mở lòng chia sẻ, giúp đỡ mọi người nhiều hơn khi họ khó  khăn.

Sự kiện nhà vua nhận được quả bí mừng sinh nhật và sự ban thưởng hậu  hỷ cho người nông dân đã làm chấn động dư luận trong nước. Khắp nơi đâu đâu cũng vui mừng tán thán về tấm lòng cao thượng của đức vua. Riêng nhà ông phú hộ trong làng, ai cũng lấy làm buồn bã, tiếc nuối, họ tự đau  khổ, trách móc mình đần độn quá mức, trong nhà rất nhiều đồ vật quý giá  ngàn lần quả bí, mà không biết dâng quà mừng sinh nhật để được nhà vua  ban thưởng to lớn như nhà nông dân nghèo kia. Càng nghĩ, họ càng khổ đau thấm thía đến tận cùng.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.