Hạnh Phúc Chân Thường – Phần IV

Chương 13

ĐỐI PHÓ VỚI GIẬN DỮ VÀ THÙ HẬN

Khi gặp một người sắp chết vì trúng tên, chúng ta sẽ không phí thời giờ để tìm mũi tên đến từ đâu, ai đã bắn mũi tên, mũi tên được làm bằng loại gỗ nào hoặc đầu nhọn của mũi tên đã được thiết kế ra sao. Ngược lại, chúng ta phải chú tâm vào việc nhổ mũi tên ra tức thì để cứu sống nạn nhân.

Đức Thích Ca Mâu Ni

Bây giờ chúng ta nói về những ‘mũi tên’, những trạng thái tâm thức tiêu cực vẫn thường phá hoại hạnh phúc cũng như những phản đề/đối lực của chúng. Tất cả các trạng thái tâm thức tiêu cực đều là chướng ngại của hạnh phúc và giận dữ là chướng ngại to lớn nhất. Triết gia Seneca thuộc phái Khắc Kỷ đã diễn tả giận dữ là tình trạng ghê tởm và điên cuồng nhất của cảm xúc. Ảnh hưởng tàn hại của giận dữ và thù hận đã được ghi nhận trong những cuộc nghiên cứu khoa học gần đây. Dĩ nhiên là người ta cũng chẳng cần đến các chứng cớ khoa học mới biết rằng những cảm xúc này đã làm mờ mịt sự phán đoán của chúng ta, gây ra những cảm giác vô cùng khó chịu và tạo nên các đổ vỡ to lớn trong những mối liên hệ cá nhân. Kinh nghiệm của mọi người đều cho chúng ta biết như vậy. Nhưng trong những năm gần đây, người ta đã ghi nhận rất nhiều những tác hại vật lý của giận dữ và thù hận. Hàng tá các cuộc nghiên cứu cho thấy giận dữ và thù hận là nguyên nhân chính gây ra bệnh hoạn và tử vong. Các nhà nghiên cứu như bác sĩ Redford Williams tại đại học Duke và Robert Sapolsky thuộc đại học Standford đã thực hiện các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng giận dữ, thịnh nộ và thù hằn đã tác hại mạnh mẽ đến hệ thống tim mạch. Bằng chứng về điều này nhiều đến nỗi mà hiện nay, người ta coi những tác động nguy hại của thù hận là một nguyên nhân chính, ít nhất là tương đương hoặc lớn hơn những nguyên nhân thông thường của các bệnh thuộc về tim như áp huyết cao, nhiều chất béo trong máu (cholesterol) …

Như vậy, một khi chúng ta đã chấp nhận rằng giận dữ và thù hận có những tác động nguy hại thì câu hỏi kế tiếp là: Làm sao để chế ngự những cảm xúc này?

Ngày đầu tiên khi bắt đầu hành nghề, tôi được một nhân viên bệnh viện đưa đi xem cơ sở mới và khi đi vào hành lang, tôi nghe những tiếng gào thét tưởng như có thể làm máu trong người đông lại…

“Tôi đang bực tức”

“To hơn”

“Tôi đang nổi sùng”

“To hơn, to hơn nữa! Làm cho mọi người thấy rõ cơn giận dữ của anh”

“TÔI ĐANG GIẬN DỮ, ĐANG SÙNG MÁU, TÔI GHÉT ANH, TÔI THÙ ANH!!!”

Tôi hơi lo nên nói với người chỉ dẫn là âm thanh có vẻ nguy cấp, liệu có cần phải can thiệp không. Cô ta mỉm cười trả lời: “Đừng để ý, đang có một lớp học điều trị ở cuối hành lang. Đây là cách giúp bệnh nhân bộc lộ những cảm giác giận dữ của mình”.

Cuối ngày hôm đó, tôi có dịp gặp riêng bệnh nhân, bà ta như trút được gánh nặng trong lòng: “Tôi cảm thấy thật thư giãn, thoải mái. Buổi trị liệu rất có hiệu quả, tôi tưởng như đã trút hết tất cả bực tức ra ngoài…” Tuy nhiên, trong buổi trị liệu kế tiếp vào ngày hôm sau, một bệnh nhân khác đã khai báo: “Có lẽ tôi chưa dẹp hết được các cảm giác bực bội. Ngay sau buổi trị liệu, khi vừa ra khỏi chỗ đậu xe, mấy tên cà chớn chèn ngang đầu xe và tôi nổi máu lên … Tôi đeo sát nó trên suốt chặng đường về nhà. Tôi cần phải tham dự vài buổi trị liệu nữa mới có thể dịu xuống được!”

Để khắc phục giận dữ và thù hận, đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu bằng cách điều nghiên về bản chất của những cảm xúc hủy hoại này, Ngài giải thích:

“Nói một cách tổng quát, có nhiều loại cảm xúc tiêu cực/khổ não như tự phụ, cao ngạo, ganh tỵ, tham dục, khát vọng, tư tưởng gò bó … Nhưng trên hết, giận dữ và thù hận được coi là độc ác nhất vì chúng là những chướng ngại lớn lao nhất trong việc phát triển từ ái và vị tha, chúng phá hủy phẩm hạnh của con người cũng như sự tĩnh lặng của tâm thức.

“Riêng về giận dữ, ta có thể chia làm hai loại. Tùy vào động lực của chúng ta, một trong hai loại này có thể có tác dụng tích cực. Một vài hình thức giận dữ có thể xuất phát bởi từ tâm và nó có thể được sử dụng như là một tác nhân cho những hành động tích cực. Trong trường hợp này, cảm xúc giận dữ của con người là sức mạnh gây ra những hành động nhanh chóng, một thứ năng lực khiến người ta phản ứng kịp thời và có tính cách quyết định. Đó là một dữ kiện kích động rất mạnh mẽ nên đôi khi các cảm xúc giận dữ được coi là tích cực. Tuy thế, dù được coi là một hình thức phòng thủ và làm người ta tăng thêm năng lực, chúng vẫn là những sức mạnh mù quáng cho nên người ta vẫn không dám đoan chắc rằng cuối cùng, chúng sẽ trở nên xây dựng hay phá hoại.

“Do đó, dù trong những hoàn cảnh khác biệt, một vài cảm xúc giận dữ có thể được coi là tích cực, nói chung thì chúng thường dẫn đến thù hận. Và thù hận thì không khi nào có tính cách tích cực, chúng bao giờ cũng hoàn toàn tiêu cực.

“Chúng ta không thể khắc phục giận dữ và thù hận đơn thuần bằng cách đè nén chúng. Chúng ta phải tích cực vun bồi đối lực của thù hận: Nhẫn nhục và khoan nhượng. Theo những khuôn mẫu mà chúng ta đã đề cập trước đây, để có thể thành công trong việc phát triển nhẫn nhục và khoan nhượng, chúng ta phải có nhiệt tâm và ước muốn cao độ. Lòng nhiệt thành càng mạnh mẽ thì khả năng càng to lớn để đề kháng những khó khăn mà chúng ta có thể gặp phải. Khi bắt đầu công cuộc thực hành nhẫn nhục và khoan nhượng, trong thực tế, là sự chiến đấu chống lại sân hận. Vì là một cuộc chiến đấu nên người ta thường mong chiến thắng nhưng cũng đừng quên là chúng ta có thể thất bại. Cho nên khi bắt đầu tranh đấu, hãy nhớ kỹ rằng chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn và phải dự trù để vượt qua những trở ngại đó. Những ai đã chiến thắng sân hận bằng sự đấu tranh gian khổ là những anh hùng chân chính.

Do những chi tiết này mà chúng ta cần phải có nhiệt tâm cao độ. Nhiệt tâm chỉ có được khi chúng ta học hỏi, suy ngẫm về những ảnh hưởng tốt đẹp của nhẫn nhục và khoan nhượng cũng như những ảnh hưởng tai hại của giận dữ và thù hận. Và chính nhận thức này đã tạo nên tính hấp dẫn và cuốn hút của cảm xúc nhẫn nhục và khoan nhượng đồng thời làm chúng ta cẩn trọng và cảnh giác hơn với cảm xúc giận dữ và thù hận. Thông thường, vì chúng ta không quan tâm đến sân hận nên chúng cứ tự nhiên đến, nhưng nếu chúng ta đề cao cảnh giác thì sự cảnh giác này đã có tác dụng như một biện pháp phòng ngừa cảm xúc sân hận.

Những ảnh hưởng của thù hận rất rõ ràng, dễ nhận biết và có hiệu quả tức thì. Ngay khi cảm giác thù hận dâng lên trong ta, ngay lúc ấy, sức mạnh to lớn của chúng liền tràn ngập và phá hủy sự an bình của tâm thức và hậu quả là chúng ta mất tỉnh thức một cách toàn diện. Khi giận dữ và thù hận cao độ dâng lên, chúng xóa nhòa phần tốt nhất của trí óc chúng ta tức là khả năng phân biệt phải trái, khả năng phân biệt hậu quả dài hạn và ngắn hạn của những hành động mà chúng ta đang theo đuổi. Chúng làm cho sức mạnh của phán đoán không còn hữu hiệu, không hoạt động được nữa, người ta gần như mất trí. Vì thế, giận dữ và thù hận có khuynh hướng làm cho chúng ta rối trí và hậu quả là những khó khăn và rắc rối trở nên tồi tệ hơn.

“Ngay trên bình diện vật lý, cảm giác thù hận cũng làm người ta trở nên xấu xí khó thương. Khi sân hận nổi dậy trong lòng, dù giả vờ hay cố gắng đến mấy, người ta cũng không làm sao che dấu được vẻ nhăn nhó và xấu xí trên gương mặt. Nó diễn đạt một tâm trạng rất khó chịu và người ta có những rung động rất thù nghịch khiến cho ai cũng nhận biết. Người ta có cảm tưởng như thân thể chúng ta tiết ra hơi nóng dữ dội đến độ không chỉ người khác nhận biết mà cả đến súc vật, gia cầm cũng không dám đến gần. Ngoài ra, khi nuôi dưỡng thù hận quá lâu, chúng có khuynh hướng kết tụ bên trong tâm khảm chúng ta và gây ra những triệu chứng như không thấy đói, mất ngủ … không kể đến cảm giác căng thẳng và bực bội mà ai cũng nhận thấy.

“Vì những lý do vừa nói mà chúng ta thường coi sân hận là kẻ thù của con người. Kẻ thù nội tại này không có nhiệm vụ gì ngoại trừ gây thương tổn nên nó là kẻ thù đích thực, kẻ thù tối hậu của chúng ta. Nhiệm vụ duy nhất của nó là hủy hoại chúng ta vừa tầm ngắn lẫn tầm dài. Nó cũng hoàn toàn khác với một kẻ thù bình thường. Mặc dù một kẻ thù bình thường (hay một người nào đó mà ta coi là kẻ thù) có thể có những hành động gây nguy hại cho chúng ta, người ấy cũng còn những mục tiêu khác như họ vẫn phải ăn, ngủ. Vì có những nhiệm vụ khác nên họ không thể sử dụng cả 24 giờ mỗi ngày vào mục tiêu tác hại chúng ta. Trong lúc đó, sân hận không có bất cứ một nhiệm vụ nào khác nên lúc nào cũng hướng vào mục tiêu duy nhất là hủy hoại chúng ta. Hiểu được như vậy, người ta sẽ không bao giờ để cho sân hận có được một cơ hội nào để trỗi dậy trong ta”.

Tôi hỏi: “Trong việc đối phó với giận dữ, Ngài nghĩ thế nào về vài phương pháp của ngành tâm lý trị liệu phương Tây nhằm thúc đẩy người ta bộc lộ cảm xúc này ra ngoài ?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích: “Tôi cho rằng đây là một hoàn cảnh khác biệt. Trong nhiều trường hợp, người ta gắn bó với cảm xúc giận dữ và tổn thương vốn đã xảy ra trong quá khứ. Một sự xúc phạm đã bị dồn nén từ lâu chẳng hạn. Ở Tây Tạng, người ta thường nói là nếu có gì làm nghẹt cái tù và thì cứ thổi mạnh để thông nó đi. Tương tự như vậy, có thể là điều hay nếu chúng ta tìm cách bộc lộ ra ngoài một cảm xúc hay một điều gì đó đã bị dồn nén quá lâu. Tuy nhiên, một cách tổng quát thì tôi cho rằng sân hận là loại cảm xúc mà nếu chúng ta không quan tâm và kiểm soát, chúng sẽ có khuynh hướng thêm trầm trọng và tiếp tục gia tăng. Nếu cứ để chúng tự nhiên xảy ra rồi tìm cách bộc lộ, những cảm xúc này sẽ tăng trưởng chứ không suy giảm. Do vậy mà tôi nghĩ rằng nếu chúng ta chấp nhận một thái độ cẩn trọng và tích cực để kiềm chế sức mạnh của loại cảm xúc này thì đấy là một điều tốt.”

Tôi hỏi lại: “Nếu bộc lộ những cảm giác sân hận ra ngoài không phải là giải pháp thích hợp thì chúng ta phải làm sao đây?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp: “Trước hết, chúng ta nên hiểu giận dữ và thù hận xuất phát từ trạng thái không hài lòng, không thỏa mãn của tâm thức nên chúng ta có thể sửa soạn trước bằng cách thường xuyên gây tạo cảm giác bằng lòng với cuộc sống cũng như vun bồi từ ái và hòa nhã. Làm như vậy chúng ta sẽ có được một trạng thái bình yên trong tâm thức và một tâm thức yên bình thường không phải là nơi xuất phát của thù hận và giận dữ. Và khi một hoàn cảnh nào đó xảy ra khiến mình giận dữ, chúng ta nên trực diện với cảm giác này và tìm cách phân tích chúng tức là tìm hiểu do đâu mà cảm giác giận dữ nổi dậy trong lòng. Rồi phân tích sâu xa hơn xem phản ứng của mình có thích hợp với hoàn cảnh hay không, nó có tính cách xây dựng hay phá hoại. Sau nữa, hãy cố áp dụng một nguyên tắc nội tại nào đó để kiềm chế và chống chọi lại bằng những đối lực: Dùng nhẫn nhục và khoan nhượng để chống lại các cảm xúc tiêu cực.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một lúc rồi nói tiếp với chủ trương thực dụng quen thuộc của Ngài: “Dĩ nhiên là để khắc phục giận dữ và thù hận, trong giai đoạn đầu, chúng ta vẫn có cảm giác này. Tùy theo cường độ của chúng, nếu chỉ là những cảm xúc vừa phải thì chúng ta có thể trực diện để chống đối lại chúng. Còn nếu là những cảm xúc mãnh liệt thì quả là rất khó mà chống đối hay khắc phục chúng vào ngay lúc đó. Cách tốt nhất trong trường hợp này là cố quên chúng đi bằng cách nghĩ đến một chuyện khác. Sau khi trí óc đã nguội bớt đi, chúng ta mới có thể đối diện và phân tích chúng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp: “Để có thể loại trừ sân hận, vun bồi nhẫn nhục và khoan nhượng là chuyện không thể thiếu được. Chúng ta có thể hiểu được giá trị và sự quan trọng của nhẫn nhục và khoan nhượng bằng các hình thức như sau: không thể dùng bất cứ cái gì để bảo vệ chúng ta khỏi các ảnh hưởng tác hại của sân hận. Dù là triệu phú, chúng ta vẫn bị chúng phá đám, học thức không bảo vệ được chúng ta, luật pháp cũng không giúp đỡ được chúng ta. Ngay cả đến khí giới nguyên tử hoặc các hệ thống phòng thủ tinh vi và phức tạp nhất cũng không ngăn chận được ảnh hưởng của giận dữ và thù hận …”

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một lúc rồi kết thúc với giọng điệu rõ ràng và xác quyết: “Thực tập nhẫn nhục và khoan nhượng là biện pháp duy nhất để bảo vệ chúng ta tránh khỏi ảnh hưởng tác hại của cảm giác sân hận”.

Một lần nữa, sự hiểu biết thâm thúy của đức Đạt Lai Lạt Ma lại hoàn toàn nhất quán với những chứng cớ khoa học. Bác sĩ Dolf Zillman thuộc đại học Alabama đã tiến hành những cuộc thí nghiệm cho thấy các ý tưởng về giận dữ thường tạo ra một tình trạng tâm lý khiến cho con người càng dễ nổi giận. Giận dữ do giận dữ tạo nên và khi tình trạng tâm lý dễ bị kích động này gia tăng thì chúng ta có thể bị kích thích bởi ngay cả khung cảnh chung quanh. Nếu không bị kiểm soát, giận dữ có khuynh hướng gia tăng. Vậy chúng ta phải làm gì để giảm thiểu tình trạng nguy hiểm của cảm xúc giận dữ? Như đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề cập, trút ra hết hay nói cho đã chỉ có tác dụng rất giới hạn. Phương thức trị liệu bằng cách bộc lộ cảm xúc giận dữ ra ngoài như là một hình thức giải tỏa những dồn nén có lẽ thoát thai từ quan điểm của triết gia Freud về cảm xúc. Freud đã nhìn vấn đề như là nguyên tắc hoạt động của thủy lực: khi áp lực gia tăng thì phải được xả bớt đi. Ý tưởng cho rằng chúng ta có thể buông bỏ cảm xúc giận dữ bằng cách bộc lộ hết ra bên ngoài xem ra có vẻ khá quyến rũ và thích thú nhưng vấn đề là phương pháp này thực ra không có hiệu quả. Nhiều cuộc nghiên cứu trong vòng 40 năm qua đã nhất tề cho thấy phương thức giải tỏa này không làm vơi đi mà thực ra, lại làm gia tăng những cảm xúc này. Bác sĩ Aeron Siegman, một chuyên gia tâm lý đồng thời là một nhà nghiên cứu về cảm giác giận dữ tại đại học Maryland, tin rằng càng bộc lộ những cảm giác này, chúng ta lại càng dễ rơi vào tình trạng bị kích thích, dễ nổi nóng; và đây là nguyên do khiến cho cơ thể tiết ra những hoá chất có ảnh hưởng tác hại đến các động mạch trong cơ thể chúng ta.

Bộc lộ cảm giác giận dữ ra ngoài rõ ràng không phải là phương thức chữa trị hữu hiệu. Làm ngơ chúng hay giả vờ như chúng không hiện hữu cũng không khá gì hơn. Như chúng ta đã nói đến trong chương III, trốn tránh vấn đề không làm chúng biến mất. Vậy thì đâu là biện pháp hữu hiệu nhất? Các cuộc khảo sát về giận dữ của các chuyên gia như bác sĩ Zillman và Williams đã cho chúng ta một câu trả lời rất thú vị là các hình thức tương tự với khuynh hướng của đức Đạt Lai Lạt Ma đã tỏ ra hiệu quả nhất. Vì chứng trầm cảm tổng quát có khuynh hướng giảm thiểu các tác nhân của cảm giác giận dữ, người ta cho rằng ngăn ngừa là hình thức chữa trị đầu tiên như đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng khuyến cáo: Tăng gia sự thỏa mãn nội tại và giữ cho tâm thức được bình an là những điều rất hữu ích. Và khi cảm giác giận dữ xuất hiện, các cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng đối diện với chúng, phân tích chúng, tái thẩm định những lý do đã gây tạo ra chúng… có thể làm tiêu tan cảm giác giận dữ. Ngoài ra, người ta cũng có những bằng chứng cho thấy những kỹ thuật mà chúng ta đã nói đến trong các chương trước như thay đổi tầm nhìn, quan sát vấn đề từ một góc cạnh khác … cũng giúp ích rất nhiều. Cũng nên nhớ rằng chúng ta có thể áp dụng các phương thức này một cách khá dễ dàng đối với các cảm xúc giận dữ vừa phải, cho nên thực tập cách ngăn ngừa là điều rất quan trọng.

Vì khắc phục giận dữ và thù hận có một tầm quan trọng rất lớn lao nên đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói đến vài ý nghĩa và giá trị của nhẫn nhục và khoan nhượng :

“Trong các kinh nghiệm sống thường nhật, khoan nhượng và nhẫn nhục có những lợi ích rất to lớn. Phát triển những cảm xúc này giúp ta giữ vững sự tỉnh thức. Cho nên nếu người ta đạt được tiềm lực của nhẫn nhục và khoan nhượng thì dù ở trong điều kiện sống rất căng thẳng và khắt khe, những cảm xúc này cũng giúp người ta giữ được êm ả và bình an trong tâm hồn. Một lợi ích khác trong việc đối phó với những trường hợp khó khăn bằng nhẫn nhục thay vì để cho sân hận hoành hành là chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi các hệ lụy không mong muốn vốn dễ xảy ra do tình trạng ‘giận mất khôn’. Nếu đối phó với tình huống bằng giận dữ và thù hận, chẳng những mình phải hứng chịu những tác hại xảy ra cho bản thân mà còn tạo ra những nguyên do cho các khổ lụy trong tương lai nữa[1] .

Ngược lại, nếu một tình huống tác hại được ứng xử bằng nhẫn nhục và khoan nhượng thì tuy trong cấp thời, chúng ta có thể bị thương tổn hay khó chịu nhưng chắc chắn là trong trường kỳ, chúng ta sẽ tránh được những hệ quả nguy hại.

Bằng cách hy sinh chịu đựng những chuyện nhỏ, chúng ta sẽ không phải nhận lãnh những hậu quả to tát trong tương lai. Nếu một tội nhân phải chịu cắt cánh tay để cứu mạng sống của mình thì người ấy phải tỏ lòng biết ơn sự trao đổi này vì tuy phải gánh chịu nỗi đau đớn nhỏ là bị chặt cánh tay, tội nhân đã không bị mất mạng vốn là một chuyện to lớn hơn nhiều.”

Tôi nhận xét: “Theo phong cách suy nghĩ của phương Tây, nhẫn nhục và khoan nhượng tuy được coi là những đức tính cao trọng, nhưng khi bị đe dọa trực tiếp hay bị người khác làm tổn hại đến mình, dùng nhẫn nhục và khoan nhượng để ứng phó xem ra có vẻ yếu đuối và thụ động.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý và nói: “Vì nhẫn nhục và khoan nhượng là do khả năng duy trì được tính vững chãi và kiên định cũng như không bị tràn ngập bởi hoàn cảnh trái ngang, người ta không nên coi các cảm xúc này là dấu hiệu của sự yếu đuối hay chịu thua mà ngược lại, nó là dấu hiệu của sức mạnh chỉ có được từ một năng lực tinh thần vững chãi. Đối phó với hoàn cảnh khó chịu bằng kiên nhẫn và khoan nhượng thay vì giận dữ và thù hận, người ta phải có tự chủ cao độ và phẩm chất này chỉ có được từ một tâm thức vững mạnh và khuôn phép.

“Dĩ nhiên là khi bàn về ý niệm kiên nhẫn, cũng giống như hầu hết những chuyện khác, kiên nhẫn có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Thiếu kiên nhẫn chưa hẳn là luôn luôn xấu vì nhiều khi nó giúp chúng ta hành động nhanh chóng để hoàn tất công việc. Tỷ như những việc vặt vãnh trong nhà, dọn dẹp phòng ốc … nếu quá kiên nhẫn sẽ khiến chúng ta trở nên chậm chạp và rồi thì chẳng làm gì xong cả. Hoặc nôn nóng đạt được hòa bình cho nhân loại thì sự nôn nóng này là một điều tích cực. Nhưng trong những hoàn cảnh rất khó khăn và đầy thử thách, kiên nhẫn giúp người ta giữ vững chí nguyện cũng như giúp chúng ta tồn tại”.

Càng đi sâu vào việc khảo sát ý nghĩa của nhẫn nhục, đức Đạt Lai Lạt Ma càng trở nên linh động, sôi nổi. Ngài nói: “Theo tôi thì có một sự liên hệ khá gần gũi giữa nhẫn nhục và khiêm tốn. Khiêm nhượng bao gồm một năng lực có thể chống chọi và trả đũa nếu muốn nhưng người ta đã tự ý không sử dụng năng lực này. Đây là tính khiêm nhường chân chính. Khoan nhượng và nhẫn nhục cũng có những yếu tố như tự giác, tự kiềm chế tức là dù có thể hành động, có thể chọn đường lối hung hăng, năng nổ nhưng người ta đã quyết định không làm như vậy. Ngược lại, nếu bị bó buộc phải chấp nhận một hình thức đáp ứng thụ động vì cảm tưởng vô vọng, thiếu khả năng thì đây không phải là tính khiêm cung chân chính. Đây có thể là một hình thức phục tòng chứ không phải khoan nhượng chân thực.

“Bởi thế, khi nói về việc làm sao để phát triển tâm khoan nhượng đối với những người đã hãm hại chúng ta, người ta không nên nhầm lẫn rằng nó có nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn tuân phục và chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác áp đặt cho mình. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại rồi mỉm cười: “Ngược lại, nếu cần, và có thể là phương pháp tốt nhất, là hãy bỏ đi, bỏ đi thật xa …”

Tôi không đồng ý: “Nhưng chúng ta không thể tránh bị tổn hại bằng cách bỏ đi …”

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp : “Vâng, anh nói đúng. Nhiều khi chúng ta ở vào những tình huống cần phải được đối phó thật cứng rắn. Tuy nhiên, dù phải sử dụng biện pháp này, chúng ta cũng phải suy xét cẩn thận từ một quan điểm vững chắc dựa trên lòng từ ái, quan tâm đến tha nhân thay vì chỉ làm để thỏa mãn thù hận. Một trong những lý do khiến chúng ta phải dùng biện pháp đối phó mạnh bạo với một người nào là vì nếu không làm như vậy, người ấy có thể quen với lối hành xử tiêu cực mà hậu quả là họ sẽ bị suy thoái và trong trường kỳ, đấy là những ảnh hưởng rất tai hại cho cá nhân họ… Bởi vậy, một biện pháp đối phó cứng rắn là cần thiết nhưng đừng quên rằng chúng ta hành động như vậy là vì từ tâm, vì nghĩ tới tha nhân chứ không phải với mục tiêu làm họ bị thương tổn. Cũng như trong công cuộc đối phó với Hoa lục, mặc dù không thể nào tránh được lòng thù hận, chúng tôi vẫn cố kiềm chế để giảm thiểu cảm giác này, chúng tôi cố gắng bằng tất cả ý thức của mình để phát triển cảm giác từ ái đối với Trung quốc. Và tôi nghĩ rằng biện pháp đối phó này cuối cùng sẽ có hiệu quả hơn vì không dựa trên lòng thù hận và giận dữ.

“Nào, chúng ta đã khảo sát những phương thức phát triển từ ái và khoan nhượng, xóa bỏ thù hận và giận dữ. Những phương thức như dùng suy luận để phân tích tình hình, chấp nhận một viễn tượng rộng rãi hơn, quan sát vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau … Hậu quả sau cùng hay sản phẩm của nhẫn nhục là LÒNG THA THỨ. Khi chúng ta thực sự nhẫn nhục và khoan nhượng, tha thứ sẽ tự nhiên hiển bày.

“Dù chúng ta đã kinh qua nhiều biến cố tiêu cực trong quá khứ, nếu phát triển nhẫn nhục và khoan nhượng, chúng ta sẽ có thể quên đi những ý tưởng sân hận, thù hằn. Chỉ cần phân tích tình hình, chúng ta sẽ thấy quá khứ đã qua rồi nên nuôi dưỡng hận thù là điều vô ích vì nó không làm cho tình thế thay đổi mà ngược lại, chỉ khiến tâm trí chúng ta bị khuấy động, khiến chúng ta tiếp tục không vui. Dĩ nhiên là chúng ta không quên những biến cố đó. Tha thứ và quên lãng là hai vấn đề khác hẳn nhau. Không có gì sai quấy trong việc nhớ lại những biến cố tiêu cực, vì nếu trí óc bạn minh mẫn, bạn sẽ không quên bất cứ chuyện gì. Đức Đạt Lai Lạt Ma cười: “Tôi nghĩ rằng đức Phật nhớ tất cả mọi chuyện. Phát huy tính nhẫn nhục và khoan nhượng có thể khiến chúng ta bỏ qua được những cảm xúc tiêu cực liên hệ đến những biến cố trong đời”.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.