Sống Trong Tham Thiền Chu Kỳ Ngày Và Đêm

Một Bản Văn Cốt Lõi về Thực Hành Đại Toàn Thiện của Namkhai Norbu
Dịch, biên tập và giới thiệu bởi John Myrdhin Reynolds
Nguyên tác: The Cycle of Day and Night – Namkhai Norbu – Station Hill Press 1987
Việt dịch: Trùng Hưng và An Phong  – Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2003

MỤC LỤC

    Lời nói đầu
Giới thiệu
Chu Kỳ Ngày và Đêm
Phác họa chủ đề của bản văn
Chú Thích Bản Văn Căn Cứ trên Bình Giảng Miệng của Namkhai Norbu
Đôi Nét về Tiểu Sử của Tác Giả
Về Dịch Giả
Thuật Ngữ những từ Kỹ Thuật
Chu Kỳ Ngày và đêm (tiếng Tây Tạng)

Lời nói đầu

Bản văn này, có tựa đề tiếng Tây Tạng là gDod-ma’i rnal-‘byor gyi lam khyer nyin mtshan ‘khor-lo-ma, được Namkhai Norbu Rinpoche viết trước một cuộc nhập thất do ngài hướng dẫn ở Cộng Đồng Dzog-chen của Conway, Massachusetts, tháng Mười, 1983. Trong bộ Longde của những giáo lý Dzogchen, có tìm thấy những giáo huấn của Garab Dorje về thực hành tham thiền liên tục cả ngày và đêm như thế nào. Bản văn này là một toát yếu những thực hành ấy.

Theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Garab Dorje là vị thầy nhân loại đầu tiên của hệ thống Dzogchen thực hành tham thiền. Từ Dzogchen của Tây Tạng thường được dịch là “Đại Toàn Thiện” và ở Tây Tạng nó tiêu biểu tinh túy của những giáo lý Phật giáo. Garab Dorje sanh ở xứ Udïdïiyana tây bắc Ấn Độ và đã nhận sự trao truyền Dzogchen trực tiếp từ Vajrasattva, phương diện Báo thân của Phật quả. Vajrasattva đã nhận sự trao truyền trực tiếp tâm qua tâm từ Phật Bổn Nguyên Samantabhadra (Phổ Hiền). Từ Garab Dorje, Dzogchen được truyền cho Manjusù-rimitra, và từ vị này đến Buddhajnana và Srisimïha. Trong thế kỷ thứ tám, sự trao truyền những lời dạy Dzogchen được Guru Padmasambhava, Vimalamitra và dịch giả Vairocana đem vào Tây Tạng.

Từ thời của những vị thầy ở trên, những giáo lý Dzogchen đã được truyền từ thầy qua trò không dứt đoạn. Trong hệ thống Nyingma Tây Tạng, Dzog-chen hay còn gọi là Atiyoga được xem là thừa thứ chín trong chín thừa Phật giáo. Nhiều vị thầy lỗi lạc thuộc bốn phái chính của Phật giáo Tây Tạng, trong đó có những nhân vật nổi bật như Dalai Lama thứ Năm, Karmapa thứ Ba, và Drugpa Padma Karpo đã thực hành công khai những giáo lý này. Nhiều vị khác đã thực hành chúng một cách bí mật. Bởi thế, chắc rằng Dzogchen không phải là một tài sản đặc biệt của phái nào, và thực ra những giáo lý này vượt khỏi mọi giới hạn nhánh phái, văn hóa hay quốc gia.

Dzogchen gắn liền với sự liễu ngộ trong kinh nghiệm trực tiếp trạng thái bổn nguyên của cá nhân, bản tánh không điều kiện của tâm. Bản tánh này của tâm siêu vượt những nội dung riêng biệt của tâm, tức là những tư tưởng khởi lên trong tâm, chúng phản chiếu sự quy định về tâm lý, văn hóa và xã hội của người ta. Người ta có thể phân biệt tương tự giữa tấm gương có khả năng phản chiếu tự nhiên bẩm sinh với những hình bóng phản chiếu xuất hiện trong đó. Sự trình bày Dzogchen ở đây, gỡ khỏi những giới hạn ấy, theo truyền thống Rimed hay không bộ phái của những vị thầy vĩ đại gần đây của miền đông Tây Tạng, như Jamyang Khyentse Wangpo, Jamgon Kongtrul, Chogyur Lingpa và Adzom Drugpa.

Những chữ số trong bản dịch để chỉ những câu kệ trong bản Tây Tạng. Những chú thích sau bản dịch được xếp đặt phù hợp theo đó. Những chú thích này rút ra từ bình giảng của Namkhai Norbu Rin-poche ở kỳ nhập thất Conway, 8-9 tháng Mười 1983. Vào thời gian đó, Norbu Rinpoche nói bằng tiếng Ý, trong khi Kennard Lipman và John Shane dịch bình giảng sang tiếng Anh.

Cuối cùng, dịch giả bản văn muốn được cám ơn Dr. Kennard Lipman và ông John Shane trong việc phụ giúp dịch bản văn này ra tiếng Anh thích hợp. Nó cũng muốn cám ơn nhiều thành viên của Cộng Đồng Dzogchen ở Conway đã tham dự vào công trình này bằng cách này hay cách khác. Mong rằng bản dịch này tỏ ra có lợi lạc thực tiễn cho mọi người đọc nó.

SARVA MANGALAM.
John Myrdhin Reynolds
Conway, Massachusetts
Tháng Mười 1983

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.