Kim Cương Bát Nhã Luận – Quyển 2

Kệ thứ hai hiển bày, như kẻ kia không thể thấy cùng nhân duyên không thể thấy, nghĩa là phần đầu, phần tiếp theo. Ở đây, kệ nói: Do pháp nên thấy Phật. Pháp là nghĩa chân như. Đây là do nhân duyên nào kệ nói: Đạo sư pháp là thân. Do như làm duyên, nên xuất sinh thân thanh tịnh của chư Phật. Đây không thể thấy, chỉ nên thấy pháp, nên kẻ kia không thể thấy.

Lại do nhân duyên nào nên không thể thấy? Do tướng chân như của pháp kia, không phải như ngôn thuyết mà nhận biết, chỉ tự chứng biết.

Không như ngôn thuyết: Là không thấy thật, nên không thể nhận biết. Vì nhằm hiển bày nghĩa ấy nên kệ nói: Thể pháp không thể biết, nên kẻ kia không thể biết.

Ở trong trụ xứ nầy, được hiển bày, là do Pháp thân nên thấy Như Lai, không phải do tướng đầy đủ. Như thế thì Như Lai, tuy không nên dùng tướng đầy đủ để thấy, nhưng nên dùng tướng đầy đủ làm nhân để chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Vì nhằm lìa bỏ chấp trước ấy, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ, để ở nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng, chứng đắc chánh giác chăng? v.v…

Ở trong tâm gồm đủ ấy, vì không trụ nơi sinh tử, Niết-bàn, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tôn giả dấy khởi niệm: Phát khởi hành trì thừa Bồ-tát chăng? v.v…

Ở đây, kinh nêu: Đối với pháp không nên nói đoạn dứt: Nghĩa là như pháp đã trụ mà thông tỏ, không đoạn pháp ảnh tượng của tất cả sinh tử. Đối với Niết-bàn, tự tại hành tạo lợi ích cho chúng sinh. Ở đây là nhằm ngăn chận nẻo hoàn toàn tịch tĩnh, nên hiển thị không trụ nơi Niết-bàn. Nếu không trụ nơi Niết-bàn, thì nên thọ nhận sinh tử khổ não. Vì nhằm lìa chấp trước ấy, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu các thiện nam, thiện nữ, cho đến: Vì thế Bồ-tát giữ lấy phước đức v.v…

Trong đây, kinh nêu: Vô sinh pháp nhẫn vô ngã: Là nghĩa gì? Như Lai, đối với pháp hữu vi đều được tự tại, nên không có pháp sinh tử kia. Ta lại không phải do sức của phiền não nghiệp sinh, nên không sinh, nên gọi là vô ngã.

Vô sinh: Ở đây vì sao được hiển thị? Như nói thâu lấy phước khác, hãy còn ở trong sinh tử không thọ nhận khổ não, huống chi là Bồ-tát ở trong pháp vô ngã, vô sinh, được nhẫn rồi, thì chỗ phước đức đã sinh lại không thù thắng, nhiều hơn trường hợp kia.

Kinh viết: Tu-bồ-đề ! Bồ-tát không nên thọ nhận tụ phước: Đây là hiển thị không trụ nơi sinh tử. Nếu trụ nơi sinh tử tức thọ nhận phước tụ.

Kinh nêu: Tu-bồ-đề nói: Không nên thọ nhận tụ phước chăng?

Đây có nghĩa gì? Do Đức Thế Tôn, ở nơi xứ khác nói nên thọ nhận tụ phước.

Kinh viết: Đức Thế Tôn nói: Thọ nhận tụ phước, không chấp giữ tụ phước, đó gọi là thọ nhận phước mà không chấp giữ: Đây là hiển bày do phương tiện nên thọ nhận, nhưng không nên chấp giữ. Như trước đã nói. Ở trong hành trụ tâm gồm đủ, là hành trụ oai nghi, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói Như Lai hoặc đi hoặc đến v.v… Trong đây, hành là đi, đến. Trụ là các oai nghi khác.

Vì nhằm làm rõ hành trụ tự tại của thân danh sắc, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, đem số vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v… Ở đây, là phương tiện vi tế cùng phương tiện không chỗ thấy. Về việc làm rõ như trước đã nói, nên biết.

Kinh viết: Tụ vi trần kia là hết sức nhiều: Là phương tiện vi tế.

Kinh viết: Thế Tôn! Nếu tụ vi trần là có, Đức Thế Tôn tức không nói là tụ vi trần: Đó là phương tiện không chỗ thấy.

Ở đây nói như vậy là có nghĩa gì? Nếu tụ vi trần trong đệ nhất nghĩa là có, thì Đức Thế Tôn tức không nói là phi tụ. Đức Thế Tôn nói tụ vi trần là phi tụ, Đó gọi là tụ vi trần: Do thể của tụ ấy là không thành tựu. Nếu khác với đây, tuy không nói cũng tự nhận biết tụ ấy là nghĩa gì, nên cần nói.

Kinh viết: Như Lai nói tức phi thế giới: Đây là phương tiện không chỗ thấy. Việc làm rõ về danh thân ấy, cũng như trước đã nói, nên biết. Ở đây, thế giới: Là biện minh về thế giới của chúng sinh. Pháp kia chỉ được mang tên là danh thân.

Kinh viết: Thế Tôn! Nếu thế giới là có: Tức là có nắm giữ lấy. Ở đây là cùng nói, hoặc thế giới, hoặc vi trần giới. Có hai thứ nắm giữ lấy:

1. Nắm giữ lấy một.

2. Nắm giữ lấy sai biệt.

Loại chúng sinh, thế giới chúng sinh có: Đây là nắm giữ lấy một. Vi trần có: Đây là nắm giữ lấy sai biệt. Do giữ lấy vi trần tụ tập, nên kinh nói: Như Lai nói nắm giữ lấy tức là chẳng phải nắm giữ lấy: Đây là Thượng tọa Tu-bồ-đề an lập đệ nhất nghĩa. Đức Thế Tôn vì thành tựu nghĩa như thế, nên nói là nắm giữ lấy: Tức là không thể dùng ngôn thuyết để nêu bày. Đây là nhằm hiển thị về pháp gì? Là ngôn thuyết của thế đế nên có sự nắm giữ lấy kia. Là đệ nhất nghĩa nên pháp ấy không thể nêu bày. Các trẻ con, phàm phu ấy, là như sự chấp giữ ngôn thuyết, không phải là đệ nhất nghĩa.

Đã nói về phương tiện không chỗ thấy, chưa nói về nghĩa làm rõ. Trong không chỗ thấy, lúc nhập Tam-muội tương ưng không phân biệt. Nghĩa là như chỗ không phân biệt, cùng với người nào, pháp nào, phương tiện nào, vì sao không phân biệt? Điều nầy, ở sau sẽ nói đủ.

Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: Như Lai nói ngã kiến v.v… Những điều ấy là hiển thị như chỗ không phân biệt. Vì sao có thể làm rõ như ngoại đạo nói ngã, Như Lai nói là ngã kiến, để lập nên người vô ngã. Lại vì nói có ngã kiến ấy, tức lập nên pháp vô ngã. Như có ngã kiến kia là thuộc về kiến, quán xét như thế, Bồ-tát lúc nhập Tam-muội tương ưng, không còn phân biệt, tức sự quán xét nầy là nhập phương tiện.

Kinh viết: Tu-bồ-đề! Bồ-tát nhân đấy phát khởi: Đây là hiển thị người nào không phân biệt.

Kinh nói: Nơi tất cả pháp: Đây là hiển thị đối với pháp nào không phân biệt.

Kinh viết: Nên biết như thế. Nên thấy như thế. Nên thắng giải như thế: Đây là hiển bày tâm tăng thượng, trí tăng thượng, nên ở trong chỗ không phân biệt, thấy, biết, thắng giải. Ở đây, nếu trí nương dựa nơi chỉ, nên là biết. nương dựa nơi quán, nên là thấy. Hai thứ ấy nương dựa nơi Tam-muội, nên là thắng giải. Do Tam-muội tự tại, nên hiểu rõ bên trong duyên dựa nơi ảnh tượng. Đó gọi là thắng giải.

Kinh viết: Nhận biết, hiểu rõ như thế rồi, nhưng không trụ nơi pháp tưởng: Đây chính là hiển bày về không phân biệt.

Kinh nêu: Pháp tưởng, pháp tưởng ấy tức phi pháp tưởng, đó gọi là pháp tưởng: Đây là hiển bày về nghĩa không chung và nghĩa tương ưng trong pháp tưởng, như trước đã nói.

Như vậy, trong tất cả trụ xứ, nên biết phương tiện của Tam-muội tương ưng cũng thế. Hai thứ dục nguyện cùng thâu giữ tán loạn như trước đã nói, lại không có nghĩa khác, do đấy không nói nữa. Ở trong phương tiện nơi tâm gồm đủ kia, vì nói pháp không nhiễm, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát, đem bảy thứ báu đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới v.v…: Đây là nhằm hiển thị điều gì? Do có lợi ích lớn như vậy, nên quyết định diễn nói thật. Diễn nói như thế, nhưng không nhiễm chấp.

Kinh viết: Thế nào là diễn nói mà không diễn nói, đó gọi là diễn nói?: Đây có nghĩa gì? Tức hiển bày không thể ngôn thuyết nên không diễn nói. Thể của pháp kia có thể nói, nên diễn nói như vậy. Nếu khác với đây, tức là giảng nói có nhiễm, do nghĩa điên đảo.

Lại, lúc thuyết giảng như thế không cầu tin kính v.v…, cũng là thuyết pháp không nhiễm. Ở trong tâm gồm đủ ấy, vì không nhiễm nơi sinh tử, nên nói kệ về sao, màng, đèn, huyễn v.v…, nghĩa nầy như trước đã nói.

Nếu nghe nghĩa như vậy

Nơi Đại thừa không ngộ

Ta nghĩ quá hơn đá

Nên cứu cánh không nhân.

Người kém nơi pháp lớn sâu nầy

Không thể hiểu biết cùng hướng tin

Thế gian có nhiều người như thế

Do đấy pháp nầy thành hoang phế.

Kim Cương Đoạn Cát Bát Nhã Ba La Mật Luận xong. A Tăng Già (Vô Trước) tạo.

KIM CƯƠNG BÁT NHÃ LUẬN
Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1510a, 2 quyển,
Kim Cương Bát Nhã Luận, Vô Trước Bồ Tát tạo Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch – Nguyên Huệ Việt dịch

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-73_4-1681_5-50_6-3_17-163_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.