Kim Cương Bát Nhã Luận – Quyển 1

Kinh nói: Phó chúc bậc nhất.

Thế nào là phó chúc bậc nhất? Có 6 thứ nhân duyên:

1. Nhập xứ.

2. Được pháp như thế.

3. Chuyển giáo.

4. Không lỗi.

5. Bi.

6. Tôn trọng.

+ Thế nào là nhập xứ? Là ở nơi trụ xứ của thiện hữu, khéo phó chúc.

+ Thế nào là được pháp như thế? Là Bồ-tát đã được khéo gồm thâu, ở nơi trú xứ khác, cũng khéo gồm thâu pháp như thế.

+ Thế nào là chuyển giáo? Tức các vị ấy, đối với các Bồ-tát khác, phải nên khéo gồm thâu. Đó gọi là chuyển giáo.

Ba thứ nầy, theo như thứ lớp đó, tức là không lỗi. Cùng bi và tôn trọng, nên biết.

Do đâu chỉ hỏi về phát khởi hành? Vì Bồ-tát thừa là sự sai biệt của ba thứ Bồ-đề. Do khéo thưa hỏi, nên đối với Thượng tọa Tu-bồ-đề là đáng được khen ngợi: Lành thay!

Chúng sinh hiện có là chúng sinh đã được gồm thâu: Là nói về tướng chung.

Loài sinh từ trứng v.v…: Là nói về sai biệt.

Lại, thọ sinh, nương dựa, cảnh giới được gồm thâu có sai biệt, nên biết.

Cho đến loài hóa sinh: Là thọ sinh có sai biệt.

Hoặc có sắc, hoặc không sắc: Là nương dựa có sai biệt.

Hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, không phải không tưởng: Là cảnh giới được gồm thâu có sai biệt.

Giới chúng sinh hiện có, nêu đặt, an trụ, đã thiết lập rồi: Nghĩa là đủ các thứ tướng trên, trụ nơi cảnh giới chúng sinh, là do Phật thiết lập để thuyết giảng.

Ta đều khiến họ nhập Niết-bàn: Do đâu nguyện nầy, về nghĩa là không thể đạt được? Do thuộc về sinh nên không lỗi. Do đều là các loài sinh, như đã nói về các loài sinh từ trứng cùng nhập nơi nguyện số. Các loài sinh từ trứng, sinh từ ẩm thấp ấy là không tưởng cùng phi có tưởng, phi không tưởng v.v… tức là không thể. Vì sao có thể khiến cho tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn? Có 3 nhân duyên: Sinh nơi xứ nạn: Là chờ thời. Sinh nơi xứ không nạn: Người chưa thành thục, thì khiến thành thục. Kẻ đã thành thục rồi thì khiến được giải thoát.

Do đâu nói cảnh giới Niết-bàn vô dư, mà không nói thẳng về Niết-bàn? Nếu như thế thì so với điều Đức Thế Tôn đã nói về Niết-bàn phương tiện như sơ thiền v.v…, là không khác. Kẻ kia tự dùng sức trượng phu, nên không Phật cũng đạt được, nhưng không rốt ráo.

Do đâu không nói cảnh giới Niết-bàn hữu dư? Là do quả chung kia nên tự cho do nơi túc nghiệp. Lại, gặp Phật thuyết giảng nên được quả. Lại, không phải thân hoàn toàn khổ là hữu dư. Như thế, Niết-bàn cùng Niết-bàn hữu dư, do là quả của sức trượng phu, nên là quả chung, không phải là quả cứu cánh, không phải là quả hoàn toàn. Do đó nói về vô dư.

Như thế, vô lượng chúng sinh nhập Niết-bàn rồi: Là hiển thị các chúng sinh như loài sinh từ trứng v.v…, mỗi mỗi thứ đều vô lượng.

Không có chúng sinh đắc Niết-bàn: Đây là nghĩa gì? Như Bồ-tát đạt được Niết-bàn không khác với chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát có tưởng chúng sinh chuyển, tức không gọi là Bồ-tát. Đây là nghĩa thế nào? Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh, ở chỗ tha tưởng chuyển, không phải là tưởng tự chứng, nên không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát khởi tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, thì không gọi là Bồ-tát: Đây là nghĩa gì? Nếu dùng tâm phiền não giữ lấy tưởng chúng sinh, mạng, người cùng chuyển, thì Bồ-tát kia tức có tưởng ngã, cùng ở trong chúng sinh có tưởng chúng sinh chuyển. Bồ-tát đối với các pháp ấy không chuyển là do đã đoạn ngã kiến, nên được tự hành (Hành là hành của năm ấm) nơi tướng bình đẳng, nên tự, tha tin hiểu bình đẳng. Bồ-tát ấy không phải là chấp giữ kiến của chúng sinh, mạng, người: Đây là nghĩa đã được nói.

Lại nữa, kinh viết: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy: Là hiển bày Bồ-tát nên trụ trong dục nguyện như thế.

Nếu Bồ-tát có tưởng ngã chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên tu hành như vậy, hợp với lúc tương ưng nơi Tam-muội.

Nếu tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên hàng phục tâm như thế, hợp với lúc bị phân tán, tưởng chúng sinh cũng không chuyển, như nơi cảnh giới kia cùng trụ, do đấy không có chúng sinh đắc Niết-bàn.

Đây là thành tựu được dục nguyện ấy: Tức gồm thâu các trụ xứ là tối thắng, hình tướng tương ưng đó, lúc hành nơi trụ xứ khác, nương dựa vào dục nguyện nên quyết định đạt được. Nghĩa của dục nguyện nầy không giải thích nữa.

Từ đây trở về sau, trong các trụ xứ còn lại, nên biết có 5 thứ theo chỗ tương ưng mà giải thích:

1. Dựa nơi nghĩa.

2. Nói về tướng.

3. Thâu giữ.

4. An lập.

5. Hiển hiện.

Trụ xứ – đối trị là nương dựa nơi nghĩa. Tức trụ xứ ấy là nói về tướng. Dục nguyện là thâu giữ. Trụ xứ đệ nhất nghĩa là an lập. Tương ưng nơi Tam-ma-đề là hiển hiện.

Ở trong trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh, kinh nói: Bồ-tát không trụ nơi vật để hành bố thí v.v… Đây là nương dựa nơi nghĩa.

Hiển thị vật đối trị trụ chấp, nên kinh nêu: Nên hành thí. Đây là nói về tướng. Sáu Ba-la-mật, loại thứ nhất là gồm thâu thể tánh của tất cả Đàn na, nên Đàn na có 3 loại:

1. Tư sinh thí: Nghĩa là Bố thí Ba-la-mật.

2. Vô úy thí: Nghĩa là Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật.

3. Pháp thí: Nghĩa là Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền na Ba-la-mật, Bát la thận nhương (Trí tuệ) Ba-la-mật.

Nếu người thọ nhận pháp không tinh tấn, thì khi thực hiện việc thuyết pháp sẽ mệt mỏi, nên không thể thuyết pháp. Nếu không định, tức tham nơi sự tín kính, cúng dường, cùng không thể chịu đựng các thứ bức não như lạnh nóng, nên thuyết pháp với tâm nhiễm. Nếu không có trí tuệ liền thuyết pháp điên đảo, có nhiều lỗi lầm, nên không lìa 3 thứ ấy để thành tựu được pháp thí.

Các Ba-la-mật kia có 2 thứ quả: Là vị lai, hiện tại.

+ Quả vị lai: Là Bố thí Ba-la-mật được phước báo lớn. Trì giới Ba-la-mật được tự thân đầy đủ, nghĩa là Thích, Phạm v.v… Nhẫn nhục Ba-la-mật-đaït được bạn bè lớn trợ lực, được quyến thuộc đông đảo. Tinh tấn Ba-la-mật được quả báo cùng không đoạn dứt. Thiền na Ba-la-mật được sinh thân không thể tổn hoại. Trí tuệ Ba-la-mật được các căn nhạy bén, thông lợi, cùng các thứ vui thích, ở trong đại chúng luôn được tự tại.

+ Quả hiện tại: Được tất cả tín kính, cúng dường, cùng Niết-bàn của hiện pháp.

Ở đây, nếu Bồ-tát cầu quả vị lai nên hành thí, là trụ nơi vật để bố thí. Như nơi vật được thí, trở lại mong đạt được quả của vật ấy, vì vậy kinh nêu: Không trụ nơi vật để hành bố thí.

Nếu cầu quả vị lai như trì giới v.v…, nên hành thí, là có chỗ trụ để hành thí, do đấy, kinh viết: Nên không chỗ trụ để hành bố thí.

Quả như trì giới v.v… có rất nhiều, không thể phân biệt, nên gọi chung là có chỗ trụ.

Nếu cầu quả hiện tại như được tín kính, cúng dường v.v…, nên hành thí, là trụ nơi sắc thanh hương vị xúc để hành thí. Do đấy, kinh nói: Không trụ nơi sắc v.v…

Hoặc cầu Niết-bàn của hiện pháp nên hành thí, là trụ nơi pháp để hành thí, nên kinh viết: Không nên trụ nơi pháp để hành bố thí.

Lại, kinh nói: Nên hành bố thí: Tức nói về dục nguyện của việc thâu giữ thí. Kinh nêu: Không trụ để hành thí: Tức không trụ nầy là an lập đệ nhất nghĩa. Ở đây, do không trụ, nên hiển thị như sự hiện có nơi đệ nhất nghĩa. Không trụ nơi vật v.v…, là sự hiện có.

Kinh viết: Bồ-tát nên hành thí như thế, không trụ nơi tướng, tưởng: Đây là hiển thị: Tức tương ưng nơi Tam-muội cùng thâu giữ tâm tán loạn. Đối với hai thời nầy, không trụ nơi tướng, tưởng.

Như thế là kiến lập không trụ rồi, hoặc có Bồ-tát tham phước đức, nên ở đây không kham nhận. Vì khiến gắng nhận, nên Đức Thế Tôn đã hiển bày, chỉ rõ là không trụ để hành thí.

Tụ phước rất nhiều cũng như hư không, có 3 nhân duyên:

1. Hiện bày khắp tất cả xứ: Nghĩa là ở trong tướng trụ, không trụ, phước đều sinh khởi.

2. Rộng rãi, cao lớn, thù thắng.

3. Vô tận, cứu cánh không cùng.

Vì muốn đạt được trụ xứ của Sắc thân, nên kinh viết:: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị.

Nhằm đối trị kiêu mạn về Sắc thân Như Lai, nên kinh nói: Tướng đầy đủ. Đây là nói về tướng. Nhằm hiển thị về Sắc thân của Như Lai, nên Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa là: Không phải. Vì để thành tựu đầy đủ nghĩa nầy, nên Đức Thế Tôn nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tướng đầy đủ hiện có, chúng là hư giả, đây tức làm rõ về dục nguyện.

Ở trong nghĩa như thế nên thâu giữ, cùng tức là an lập đệ nhất nghĩa. Vì ở trong đệ nhất nghĩa, tướng đầy đủ là hư vọng, phi tướng đầy đủ là không hư vọng.

Kinh nói: Như thế, các tướng phi tương ưng là thấy Như Lai: Đây là hiển hiện. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn. Ở trong tướng ấy là phi tướng, kiến.

Vì muốn được trụ xứ của Pháp thân ngôn thuyết, nên kinh nói: Lại có chúng sinh nơi đời vị lai, đối với câu được nêu của kinh như thế v.v… Ở đây, câu được nêu của kinh: Tức là nghĩa hiện có, nên biết.

Thế nào là câu (cú)? Là như trên đã nói về 7 thứ Nghĩa cú.

Thượng tọa Tu-bồ-đề khởi suy niệm: Nơi đời vị lai không có người sinh thật tưởng: Vì nhằm ngăn chận điều ấy, nên Đức Thế Tôn nói: Có chánh pháp lúc sắp hoại diệt: Nghĩa là thời gian tu hành dần diệt, nên biết. Tiếp sau, Đức Thế Tôn, vì để hiển thị sự tu hành như thế, tập nhân như thế, thiện hữu đã thâu nhận như thế, gồm thâu phước đức tương ưng như thế, trong thật tưởng như thế sẽ có được tưởng thật, nên kinh nêu: Có giới, có công đức, có trí tuệ: Đây là ba học như giới tăng thượng v.v… Hiển thị về công đức tu hành, các công đức như thiểu dục v.v… là thứ nhất, cho đến Tam-ma-đề.

Kinh nói: Đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, cho đến nhất tâm tịnh tín v.v… Đây là hiển thị về tập nhân. Nhất tâm với niềm tin thanh tịnh, hãy còn đạt được nghiệp như thế, huống chi là sinh khởi tưởng thật.

Kinh nêu: Như Lai tất biết: Biết là danh thân. Như Lai tất thấy: Thấy là Sắc thân. Nghĩa là ở trong hết thảy hành trụ đã tạo tác, biết rõ về tâm, thấy rõ về chỗ nương dựa. Những thứ ấy là hiển thị về thiện hữu đã gồm thâu.

Kinh viết: Sinh giữ lấy vô lượng tụ phước: Đây là hiển thị việc gồm thâu phước đức. Sinh là lúc phước đang khởi. Giữ (thủ) lấy tức lúc phước kia đã diệt, nên thâu giữ chủng tử.

Kinh nói: Các Bồ-tát nầy không còn ngã tưởng, chúng sinh tưởng cùng chuyển, cho đến nói: Hoặc pháp tưởng cùng chuyển. Tức là có ngã chấp giữ: Đây là hiển thị về thật tưởng, đối trị năm thứ chấp giữ tà vạy. Những gì là 5 thứ chấp giữ tà vạy? Đó là:

1. Ngoại đạo.

2. Phàm phu cùng Thanh-văn của nội pháp.

3. Bồ-tát tăng thượng mạn.

4. Định cộng tưởng của thế gian.

5. Định vô tưởng.

+ Thứ 1: Là ngã v.v… tưởng chuyển.

+ Thứ 2: Là pháp tưởng chuyển.

+ Thứ 3: Là không pháp tưởng chuyển. Đây cũng có chấp giữ pháp. Có chấp giữ pháp: Nghĩa là chấp giữ về không pháp.

+ Thứ 4: Là có tưởng chuyển.

+ Thứ 5: Là vô tưởng chuyển.

Các Bồ-tát nầy, đối với các thứ kia đều không chuyển. Trong đó, hiển bày đầy đủ về có giới, cho đến sẽ sinh vô lượng tụ phước.

Kinh nêu: Vì sao? Ở đây nói là trong chấp giữ tà vạy, chỉ là pháp cùng phi pháp tưởng hợp chuyển, không phải ngã v.v… tưởng, do tưởng cùng chỗ nương dựa không chuyển. Nhưng ở trong ngã tưởng, tùy miên không đoạn, tức là có ngã chấp giữ. Thế nên kinh viết: Các Bồ-tát nầy, nếu khởi pháp tưởng, tức là có ngã chấp giữ. Nếu không pháp tưởng cùng chuyển, tức là có ngã chấp giữ. Trong ngã v.v… tưởng cùng chuyển ấy, các nghĩa khác vẫn chưa nói. Kinh nêu: Tức là có ngã chấp giữ: Ở đây là chấp giữ tự thể tương tục là ngã tưởng. Đối tượng chấp giữ của ngã là chúng sinh tưởng. Nghĩa là ngã, cho đến thọ mạng chấp giữ là mạng tưởng. Lần lượt hướng đến các nẻo khác để chấp giữ, là nhân tưởng, nên biết. Ở đây nói sẽ sinh thật tưởng: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị tưởng không thật.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.