Nguy hại của sự chấp trước

Chấp hay cố chấp vào một điều gì đó, còn gọi là định kiến. Chính sự chấp trước này làm chúng ta đau khổ, cho nên coi nó là mối nguy hại cần phải tránh. Tránh bằng cách nào?

Phật dạy một là phá chấp, tức có gì ràng buộc thì chúng ta tìm cách phá bỏ, hai là xả chấp, chúng ta không phá, nhưng bỏ quên để nó rơi xuống, không dính vô ta. Giống như hoa sen mọc từ bùn nhơ, nhưng ra khỏi bùn, nó là sen mà có trút đổ lên hoa sen cái gì thì nó cũng không bị dính nhơ và vẫn tỏa mùi hương; đó là thực chất của tu hành theo Đại thừa, hay tu Pháp hoa. Trong khi tu theo Tiểu thừa, chúng ta có sự đối nghịch, nên cái gì làm trở ngại thì phá nó; nhưng từ sự phá trừ đó khiến chúng ta trở thành cố chấp.

Thật vậy, Đức Phật dạy chúng ta phá bỏ sự cố chấp, nhưng vì hiểu lầm, chúng ta lại phá bỏ tất cả những gì không giống chúng ta, trong khi chúng ta còn là phàm phu chưa có trí tuệ của Phật, nên sự hiểu biết của chúng ta không chính xác. Vì vậy, chúng ta thường cố chấp rằng cái gì không giống như hiểu biết của mình, thì sẵn sàng phá bỏ, từ đó tạo thành thế đối lập cho đến ta không còn chỗ dung thân. Sự cố chấp như vậy dẫn đến sai lầm tai hại. Thực tế cho thấy khi có định kiến, ban đầu là ý thức tốt, nhưng vì cố thực hiện điều tốt này, chúng ta lại tạo thành oán thù, trần lao, nghiệp chướng.

Nhận ra được sự nguy hại do cố chấp, chúng ta phải bỏ nó, gọi là xả chấp. Theo kinh nghiệm của tôi, từ khi mới phát tâm cho đến nay và mãi đến ngày thành Phật, cái gì qua rồi, thì bỏ nó về quá khứ, sẽ có được nhận thức mới. Thật vậy, sự hiểu biết của ngày hôm qua mà chúng ta coi là đúng, nhưng hôm nay thấy điều đó chưa đúng; như vậy, chúng ta đã có tiến bộ. Còn cố chấp vào việc làm thì không tiến bộ được.

Ngay như lời dạy của Phật, mặc dù chúng ta tin, nhưng không chấp vào đó, vì nhận thức được rằng Phật dùng vô số phương tiện giáo hóa để giúp chúng ta xa rời tâm chấp trước; cho nên chấp vào phương tiện là sai lầm. Trên bước đường tu, chúng ta nhận thấy có người vì chấp vào pháp tu mà nghiệp chướng và phiền não mỗi lúc tăng lên.

Các Phật tử nghiệm xem từ khi phát tâm học đạo, vào chùa, lễ Phật mỗi ngày thì phiền não của mình tăng hay giảm. Nếu phiền não tăng, phải biết chúng ta đã rơi vô chấp ngã là có cái ta và chấp pháp là có pháp hành trì, thì kẹt vô thân và pháp, chúng ta đã tu sai, không giải thoát. Chúng ta tạm nương bất cứ phương tiện nào của Phật để bỏ phiền não, trần lao, nghiệp chướng và bỏ được phiền não, trần lao là tu đúng.

Tu hành, nương vào pháp được giải thoát rồi thì pháp này cũng phải xả, vì pháp cũng là phương tiện. Trong quá trình tu, từng bước chúng ta đi lên. Thật vậy, Phật tu chứng và thành đạo, Ngài dạy chúng ta cách tu để phá bỏ sự chấp trước và thăng hoa tuệ giác. Theo kinh Hoa nghiêm, lấy trí tuệ làm chính và trí tuệ phát sanh nhờ có đối cảnh. Nếu đối cảnh sanh tâm chấp trước thì bị đọa, nhưng đối cảnh sanh ra sự hiểu biết chính xác gọi là tu chứng.

Tại sao chấp trước bị đọa. Khi thấy vật hay điều gì khiến chúng ta ưa thích hay chán ghét thì hai tâm ưa thích và chán ghét đều làm chúng ta đau khổ là bị đọa. Trên cuộc đời này, con người khổ vì gặp điều chán ghét mà không bỏ được, hoặc điều ưa thích mà không nắm giữ được.

Đối cảnh sanh tâm là giai đoạn một. Đối cảnh vô tâm là bước thứ hai, gọi là xả chấp. Người không tu thì luôn khởi tâm ưa thích hay ghét bỏ, nhưng chúng ta thể nghiệm pháp Phật, không ưa không ghét, vì vật là vật, ta là ta. Đối với việc phải trái, tốt xấu, chúng ta vô tâm. Phương tiện của Phật mà chúng ta tiếp nhận được giúp cho chúng ta sự vô tâm, không nghĩ đến nó thì không khổ, còn nghĩ đến là còn vướng mắc, còn chấp trước chắc chắn phải khổ.

Bỏ là xả, nên không khổ, gọi là xả tục xuất gia, nghĩa là bỏ chấp trước của thế gian làm chúng ta phiền não, nhiễm ô, tội lỗi. Theo Phật tu, không có sở hữu, không nhà cửa, không tiền bạc, không tài sản, không người thân. Bỏ hoàn toàn, chúng ta chỉ còn một bóng một hình gọi là cô thân độc ảnh; người xuất gia luyện tập cuộc sống như vậy, không có gì, nhưng còn thân này thì phải nuôi nó để tu hành, cho nên người tu hạn chế ba việc ăn, mặc, ở, là sống tam thường bất túc. Người đời vì lòng tham, nên có nhiều của cải, có người thân mà vẫn thấy thiếu.

Người tu một mình một bóng, nhưng thấy không thiếu là tri túc, biết đủ. Hoàn cảnh nào chúng ta cũng sống được là ban đầu nương pháp Phật được giải thoát, đó là pháp xả ly phải thực tập. Và thành tựu pháp này, không còn tâm chấp trước, trí tuệ phát sanh, tức hiểu biết của chúng ta chính xác lần. Trước kia, vì tham lam chấp trước, muốn đủ thứ, nên không thấy đúng; nhưng nay không còn tâm chấp trước, không còn tâm ưa ghét, nên thấy đúng sự thật của sự vật, tức biết ta là gì và ta đang ở đâu, sự hiểu biết như vậy rất quan trọng.

Và khi định vị được con người thật của mình, chúng ta quan sát xung quanh. Định vị mình là một con người trong xã hội loài người, ta là một sinh vật trên trái đất cộng tồn với vô số sinh vật khác. Nhưng từ một sinh vật trên trái đất này, chúng ta bắt đầu bỏ cố chấp, nên trí tuệ phát sanh thì thấy loài người là một sinh vật có sự đặc thù hơn các loài khác. Đức Phật khẳng định rằng chỉ loài người là cao quý nhất, vì có thể xuất gia và làm Phật được. Các loài khác phải chuyển thân làm người mới làm Phật được.

Thật vậy, chúng ta phải có công phu tu tập nào đó mới được làm người. Thuở nhỏ, tôi đọc truyệnPhong thần, nói rằng trước khi Hồ ly tinh là Đắc Kỷ chết, nó than là một ngàn năm làm con chồn, nhờ công tu luyện mới thành người, nhưng tính chất Hồ ly tinh còn, nên phạm nhiều điều sai trái, thì mất kiếp người, phải trở lại làm chồn.

Có trí tuệ thấy ta được làm người là rất quý so với các loài khác. Phật nói rằng con người là tối linh, nên sử dụng cấu trúc thân người đặc biệt để phát sanh trí tuệ. Các loài khác không có cấu trúc thân đặc thù như loài người, nên không phát huy trí tuệ được. Con người có hệ thần kinh đặc biệt mới có khả năng thăng hoa trí tuệ, trở thành Thánh Hiền, Tiên, Phật. Từ thân người nếu phát huy được sự đặc thù của tâm linh sẽ kết nối được với chư Phật và Bồ-tát trong mười phương.

Vì vậy, nói theo khoa học thì thân người là cỗ máy kỳ diệu, biết tiếp thu những gì cần thiết và thải bỏ những thứ độc hại, tự nó có khả năng chữa lành bệnh tật, nhưng vì vô minh tạo thành tội ác và các bệnh tật. Nếu biết vận dụng đúng đắn hệ thần kinh, chúng ta có thể tiếp nhận được các từ trường đến với mình. Ngồi yên, nhưng có người nghĩ thương ta hay ghét ta, hại ta, ta đều nhận ra được. Thân người giống như một vệ tinh nhận được tín hiệu trong trời đất, xa hơn là ta nhận ra sự hiện hữu của chư Phật và Bồ-tát.

Chỉ vì cố chấp, chúng ta hạn chế lần khả năng tiếp thu của mình cho đến chỉ sống với bản năng, vô tri. Vì vậy, chấp pháp, trí tuệ không sanh, không còn quan hệ tốt với loài người và các loài khác.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.