Thanh Tịnh Đạo – Chương XXIII

50. (ix) Tâm thức một vị xuất Diệt định hướng về cái gì? Hướng về Niết bàn, như kinh dạy: “Khi một tỳ kheo xuất Diệt định, này hiền giả Visakha, Thì tâm vị ấy nghiêng về viễn ly, tựa vào viễn ly, khuynh hướng viễn ly.” (M. i, 302)

51. (x) Gì là sự khác biệt giữa một vị đắc diệt định và một người chết? Ðiều này cũng đã được nói trong kinh: “Khi một tỳ kheo chết, này hiền giả, thì thân hành vị ấy hoàn toàn chấm dứt, tịnh chỉ, ý hành vị ấy hoàn toàn chấm dứt, tịnh chỉ, mạng căn đã dứt, hơi ấm không còn, các căn hư hoại. Khi một tỳ kheo đi vào diệt định, thì thân hành vị ấy chấm dứt, hoàn toàn tịnh chỉ, ngữ hành vị ấy hoàn toàn chấm dứt, tịnh chỉ, ý hành vị ấy hoàn toàn chấm dứt, tịnh chỉ. Nhưng thọ mạng vị ấy chưa tận, hơi nóng chưa hết, và các căn còn nguyên vẹn.” (M. i, 296)

52. (xi) Diệt định là hữu vi hay vô vi? v.v…? Không thể xếp loại nó là hữu vi, vô vi, thế gian hay xuất thế. Vì nó không tự tánh. Nhưng, vì nó được đạt bởi người chúng đắc nó, cho nên có thể nói nó có được tạo, không phải phi sở tạo.

[Chú thích: Tính cách tế nhị của danh từ “sở tạo” (nipphanna) có thể làm sáng tỏ bằng cách trích dẫn một đoạn từ sammohavinodani (Vbh. A. 29): “Năm uẩn là những pháp sở tạo có tính cách quyết định (parinipphanna), không phải sở tạo không quyết định; chúng luôn luôn là hữu vi, không phải vô vi. Vì trong những pháp có tự tánh, chỉ có Niết bàn là “quyết định phi sở tạo”. Vậy, “sở tạo quyết định” và”sở tạo” khác nhau chỗ nào? Một pháp có tánh, có đầu có cuối về thời gian, do nguyên sanh, có ba đặc tính vô thường, v.v… gọi là “sở tạo quyết định”. Ngoài ra, cái gì “được tạo” nhưng không tạo một cách tích cực, quyết định, thì gọi là pháp không tự tính, asabhàva-dhamma, khi nó sanh khởi nhờ có một cái tên, hoặc nhờ sự chứng diệt. “– Vbh. AA. 23. Xem Ch. XIV, 72, 77]

Ðây cũng là một sự chứng đắc
Mà một bậc thánh có thể tu tập
Niềm an tịnh nó đem lại
được xem là Niết bàn bây giờ và ở đây.
Người trí tu tập thánh tuệ
Có thể đắc thiền chứng ấy
Bởi thế khả năng này
Ðược gọi là ơn ích của Tuệ
Mà thánh đạo cho ta.

D. Thành Tựu Sự Xứng Ðáng Cúng Dường…

53. Và không những tuệ đem lại khả năng chứng diệt, mà còn thành tựu sự xứng đáng cúng dường, đó là lợi ích của tu tập tuệ xuất thế.

54. Vì nói chung, chính vì tuệ đã được tu tập theo bốn cách này, mà một người tu tập nó trở nên xứng đáng với sự dâng cúng của thế gian và chư thiên, đáng được mời thỉnh, cúng dường, đảnh lễ, và là ruộng phước cho thế gian.

55. Nhưng đặc biệt, trước hết một người đạt đến tuệ thuộc đạo lộ thứ nhất, với tuệ quán chậm lụt, các căn còn khập khiễng, thì gọi là một vị “còn tái sinh tối đa bảy lần nữa”, vị ấy đi qua vòng sinh tử bảy lần trong các thiện thú. Người thành tựu với tuệ trung bình, căn trung bình thì gọi là một bậc”gia gia” đi từ gia đình bậc thánh này qua gia đình bậc thánh khác, với hai hay ba lần tái sinh trong các gia đình thánh thiện, vị ấy chấm dứt khổ sanh tử. Người đắc quả với tuệ sắc bén, thì gọi là bậc “chỉ còn một lần tái sanh”, với một lần sanh lại trong loài người, vị ấy chấm dứt khổ. (A. i, 133)

Do tu tập tuệ thuộc đạo lộ thứ hai, vị ấy được gọi là một bậc Nhất lai. Vị ấy trở lui thế giới này một lần nữa, và chấm dứt đau khổ.

56. Do tu tập tuệ thuộc đạo thứ ba, vị ấy là một vị Bất hoàn. Tùy các căn của vị ấy khác nhau thế nào, vị ấy hoàn tất quá trình tu của mình theo một trong năm cách sau khi từ giã cõi đời này: Hoặc trở thành một vị đạt Niết bàn sớm trong hiện hữu kế tiếp, hoặc một vị đạt Niết bàn khi sống quá nửa đời sau, hoặc “một vị đạt Niết bàn không cần nhắc bảo”, hoặc “có cần nhắc bảo”, hoặc là một vị “ngược dòng đến cõi chư thiên cao nhất” (D. iii, 237) .

57. Ở đây, “người đạt Niết bàn sớm trong đời sau” là sau khi tái sanh trong cõi tịnh cư thiên, đạt Niết bàn ngay không đạt đến chặng giữa đời sống tại đấy. “Ðạt Niết bàn khi đã quá nửa đời sau” là đạt Niết bàn khi sống tại đấy quá nửa đời”. “Ðạt Niết bàn không cần nhắc bảo” là phát sinh đạo lột tối cao không cần được nhắc nhủ, không có nỗ lực. “Có cần nhắc bảo” là ngược lại. “Ngược dòng đi đến cõi chư thiên cao nhất” là tiếp tục lên các cõi cao tuần tự trong 5 cõi tịnh cư thiên, rồi đạt Niết bàn tại đấy.

58. Nhờ tu tập đạo lộ thứ tư, người ta trở thành một bậc Tín giải thoát, hoặc Tuệ giải thoát, Câu phần giải thoát, bậc Ba minh, Sáu thông, bậc đoạn tận lậu hoặc đã đắc bốn vô ngại giải. Chính ám chỉ một vị đã tu tập đạo lộ thứ tư này mà ở đầu sách nói: “Nhưng chỉ vào sát-na chứng đạo, vị ấy mới được g?i là đã gỡ xong trói buộc (triền) và xứng đáng sự cúng dường tối thượng của nhân loại và chư thiên.”(Ch. I, 7)

59.

Thánh tuệ khi được tu tập
sẽ có những phúc lạc này
do vậy người có trí
rất hân hoan tu học.

60. Ở điểm này, sự tu tuệ với những lợi ích của nó, được trình bày trong thanh tịnh đạo dưới các mục Giới Ðịnh Tuệ trong đoạn:

Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ kheo ấy thoát triền. (Ch. I, đoạn1) đã hoàn tất.

Chương thứ Hai mươi ba gọi là”Mô tả lợi ích của tuệ” trong Thanh tịnh đạo, được soạn vì mục đích làm hoan hỉ những người lành.

CHƯƠNG KẾT

Sau khi trích dẫn đoạn kệ:

“Người trú giới có trí,
tu tập tâm và tuệ,
nhiệt tâm và thận trọng,
tỳ kheo ấy thoát triền” (Ch. I, 1),

Chúng tôi có nói:

Bây giờ tôi sẽ, đưa ra ý nghĩa chân thực
chia làm giới, vân vân…
của câu kệ do bậc Ðại thánh nói.

Trong giáo pháp đấng Chiến thắng
Có những người tâm đạo đã từ bỏ
Gia đình, sống không nhà

-những người mặc dù khát khao sự thanh tịnh
nhưng vẫn chưa có được cái chánh kiến về con đường thắng, bảo đảm,
gồm Giới, Ðịnh và Tuệ.

Con đường khó tìm, dẫn đến thanh tịnh
Cho những người chưa được an, dù đã cố gắng,
Tôi sẽ giảng Ðạo lộ an ổn
Về Thanh tịnh
Y cứ lời dạy của những vị cư trú
Trong ngôi Ðại tinh xá
Những người ưa thích thanh tịnh
Hãy chú tâm nghe trình bày. (Ch. I, đoạn 4)

Ðến đây, tất cả những điều trên đã nói xong.

Sự trình bày đưa ra trên đây
Hầu như không có lầm lỗi
Sau khi đối chiếu tất cả các Luận
Về ý nghĩa Giới định tuệ
Trong năm bộ Nikàyas
Bởi thế, những thiền giả yêu mến thanh tịnh
Hãy kính lễ Ðạo lộ đưa đến Thanh tịnhnày.

* * *

Bao nhiêu công đức có được
Do muốn an trú trong diệu pháp này
Do nhận lời đề nghị của trưởng lãoSanghapàla

(Người được sanh vào hàng trưởng lão danh tiếng
cư trú trong ngôi Ðại tịnh xá,
Ngài là một nhà Phân tích chân chánh, một bậc trí giả,
sống đơn giản, giữ giới luật,
tâm vị ấy đầy đủ đức nhẫn nhục
hoà nhã, từ bi, vân vân)

Nhờ năng lực kho tàng công đức ấy,
mong cho tất cả hữu tình an lạc.
Và cũng như 58 chương Thanh tịnh đạo này
đã hoàn tất không trở ngại,
mong cho tất cả người lành trên thế giới
sẽ thành công nhanh chóng vui vẻ.

Tái Bút

Thanh Tịnh Đạo này được soạn bởi vị trưởng lão đầy đủ tín, tuệ và tấn thuần tịnh, nơi đức các ngài chính trực, từ hòa,… đều tập hợp do sự thực hành giới luật. Ngài là người có khả năng thăm dò sở kiến của chính mình và tin tưởng của những người khác, người có tuệ sắc bén, có hiểu biết không lầm về giáo pháp của đấng đạo sư gồm ba tạng và luận giải, Ngài là bậc thuyết giảng vĩ đại, có ngôn từ cao quý êm dịu lưu loát nhờ nắm vững cú pháp. Ngài đúng là bậc giảng sư tối thượng, một thi sĩ lớn, một người làm đẹp dòng dõi các trưởng lão trong ngôi Ðại tịnh xá, một ánh sáng chói lọi trong dòng các đại đ?c có thực chứng các pháp thượng nhân, như sáu thông, bốn biện… Người có trí tuệ dồi dào thanh tịnh ấy mang tên Buddhaghosa do các trưởng lão đặt, và thường được gọi là “người thuộc tự viện Moranda.”

Mong rằng sách này tiếp tục chỉ đường
đưa đến thanh tịnh tri kiến
cho những thiện nam tử tìm cách
vượt qua các thế gian.
Vì bao lâu thế giới còn tồn tại
thì đấng Giác ngộ sẽ còn
được những người có tâm thanh tịnh như thế
gọi là đấng Ðại thánh, chúa tể thế gian.

[Những câu sau đây chỉ có trong bản Tích lan:]

Do công đức của tác phẩm này,
và bất cứ tác phẩm nào khác,
nguyện cho tôi đời sau
thấy được thiên lạc ở cõi Tam thập tam thiên,
hoan hỉ trong những giới đức,
không vướng ngũ dục,
Sau khi đắc Sơ quả, sau khi thấy được
Di lặc Thế tôn, trong đời cuối cùng của tôi
và được nghe Ngài giảng diệu pháp,
mong tôi làm sáng Giáo pháp của đấng Chiến thắng,
bằng cách chúng quả tối thượng trong giáo lý này.

[Những câu sau chỉ có trong bản Miến điện:]

“Sự trình bày Thanh tịnh đạo, được thực hiện để làm hoan hỉ những người lành. Theo bản tiếng Pàli, thì sách này có 58 chương tụng đọc.”

Dịch Từ Bản Anh Ngữ Của Ðại Ðức Nanamoli, 1981.
Trí Hải – Tuệ Uyển. Vu Lan 2536 (1991)

HẾT

http://www.tangthuphathoc.net/phapluan/thanhtinhdao-23.htm

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.