Tu Tuệ

MỤC LỤC
Lời giới thiệu của người dịch
Lời tựa của Thupten Jinpa

Lời giới thiệu của người dịch

Vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ VIII tại đại học Na-lan-đà có một nhà sưkhác thường tên là Santideva, tác giả của một tập thơ được xem là một trong những tác phẩm thượng thặng và sâu sắc nhất đã được trước tác trên dòng lịch sửphát triển của Phật Giáo.

Santideva là pháp danh do các vị thầy ở đại học Na-lan-đà ban cho ông -tiếng Phạn santi có nghĩa là an bình,deva có nghĩa là thiên nhân – tiếng Hán dịch là Tịch Thiên. Tập thơ của ông mang tựa đề là Bodhicaryâvatâra, Bodhicó nghĩa là Giác Ngộ, caryâ là sựluyện tập, vatâra là con đường bước vào, tiếng Hán dịch là “Nhập Bồ-đềhành luận”, mà chúng ta có thể tạm dịch là “Hành trình đến Giác Ngộ”.

Con người và tác phẩm của Tịch Thiên mang đầy huyền thoại. Không có một tư liệu lịch sử chính xác nào về tiểu sử của ông. Người ta chỉ biết rằng ông sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII hay đầu thế kỷ thứ VIII, và ngày mất thì cũng không ai biết. Tục truyền ông là con của vua Kalyânavaraman. Ngày còn nhỏ được một nhà tu khổ hạnh truyền cho giáo pháp của Bồ-tát Văn Thù (Mansjurhi), theo đó ông tu tập rất chuyên cần và đã đạt được Giác Ngộ. Khi vua cha qua đời, ông nhất định không lên ngôi kế vị và bỏ trốn vào Tu viện Đại học Na-lan-đà xin thụ giới tỳ-kheo. Đêmđêm ông thức một mình và soạn được hai tập sách: Giản yếu về Giáo Huấn (Siksâmuccaya) và Giản yếu về Kinh Điển (Sutrasâmuccaya). Tập thứ hai bằng tiếng Phạn đã thất truyền, ngày nay chỉ còn lại bản dịch tiếng Hán. Cả tu viện không ai hay biết gì về việc ông soạn thảo hai tập sách này, chẳng qua là vì ban ngày ông ngủ li bì và chỉ thích viết lách một mình trong đêm tối. Cũng chính vì thế mà các vị thầy và cả các bạn đồng tu đều xem ông là người lười biếng và ngu đần và gán cho ông biệt danh là bhushuku, có nghĩa là “người chỉ biết ăn, ngủ và bài tiết”.

Những người trong tu viện có ý định muốn tống khứ ông nên đồng tình dựng lên một đàn thuyết giảng còn gọi là ngai thuyết giảng, nhưng lại dựng rất cao và rất khó trèo lên. Theo thông lệ, tước vị và uy tín của người thuyết giảng càng cao thì ngai thuyết giảng cũng phải được dựng với chiều cao tương xứng. Sau khi đàn được dựng xong, các người trong tu viện mời ông lên ngồi để thuyết giảng. Chưa dứt lời mời thì mọi người hết sức kinh ngạc khi thấy ông đã ngồi chễm chệ trên ngai. Ông liền mởlời hỏi cử tọa muốn ông giảng về một bài kinh quen thuộc hay mới lạ. Cử tọa yêu cầu ông giảng những gì mới lạ xem sao. Ông bèn cất lời đọc lên tập thơ Hành trình đến Giác Ngộ (Bodhicaryâvatâra) mà mười ba thế kỷ sauĐức Đạt-Lai Lạt-Ma đã đem ra giảng lại cho những người Tây Phương hôm nay.

Khi Tịch Thiên giảng đến chương IX và đúng vào lúc ông vừa thốt lên: “Khi không còn một thể dạng hiện-thực hay phi-hiện-thực nào hiện ra trong tâm thức…”, chưa kịp dứt câu thì mọi người bỗng thấy ông bay vọt lên không trung và đứng lơ lửng bên cạnh Bồ-tát Văn Thù. Câu giảng trên đây thuộc vào tiết 34 trong chương IX, và cũng là chương mà Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽbình giảng cho chúng ta trong quyển sách này.

Mặc dù trên đàn thuyết giảng lúc ấy đã trống không thế nhưng người ta vẫn tiếp tục nghe văng vẳng tiếng của Tịch Thiên thuyết giảng cho đến hết chương X là chương cuối cùng của tập thơ.

Sau đó vì muốn ghi lại bài giảng của ông, nên mọi người trong tu viện Na-lan-đà đã họp nhau lại và chia thành hai nhóm để cùng chép ra giấy những gì mà họ đã nhớ được. Nhóm thứnhất đưa ra một bản gồm 700 câu thơ, nhóm thứ hai thì lại chép thành một bản gồm 1000 câu. Tu viện gửi người đi tìm ông khắp nơi. Họ tìm được ông và ngỏ ý mời trở về chùa, thế nhưng ông nhất quyết khước từ và chỉ nhận duyệt xét lại hai bản thảo. Ông cho rằng bản gồm 1000 câu gần với lời giảng của ông hơn. Sau khi sửa chữa xong và chỉ chỗ cất dấu hai tập sách khác của ông trong chùa thì ông lại lên đường tiếp tục cuộc sống của một người du-già phiêu bạt.

Kể từ đó không còn ai biết ông ở đâu nữa. Lúc đầu người ta còn đồn rằng ông vẫn thường hay xuất hiện khắp nơi để đấu lý với các vị thầy ngoài Phật Giáo và thực hiện nhiều phép mầu để cứu giúp người hoạn nạn, thế nhưng dần dà về sau tiếng đồn cũng thưa dần và không còn nghe ai nhắc đến ông nữa.

Nếu các sự kiện lịch sử có thể mang những sự thật nào đó thì huyền thoại cũng có những sự thật của nó. Sự thật của một sự kiện lịch sử dù có thể chứng nghiệm được đi nữa nhưng với thời gian cũng sẽ bị phai mờ đi và biết đâu một ngày nào đó cũng sẽ rơi vào hố sâu của quên lãng, đấy là chưa nói đến trường hợp mà sự thật của ngày hôm qua cũng có thể không còn là sự thật của ngày hôm nay.

Sự thật của huyền thoại tuy khó để biện minh bởi vì sự thật ấy chỉ có thểhiện hữu và sinh động trong trái tim của con người, thế nhưng thật cũng lạ là đôi khi sự thật của huyền thoại lại có thể trường tồn qua không gian và thời gian. Những bước chân âm thầm của một nhà sư phiêu bạt không hề lưu lại một mốc thời gian nào trong lịch sử thế nhưng hình như vẫn còn vang động trong con tim của chúng ta hôm nay. Những vần thơ tuyệt đẹp của ông vọng lại từ một đàn thuyết giảng trống không ở đại học Na-lan-đà mười ba thế kỷ trước đã tan biến trong không gian, thế nhưng dường như vẫn còn văng vẳng bên tai chúng ta mãi tận hôm nay.

Tập Hành trình đến Giác Ngộ gồm có tất cả là mười chương và quyển sách này thì chỉ đặc biệt ghi chép lại những lời bình giải của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về chương IX, và cũng là chương khúc triết và sâu sắc nhất trong tác phẩm của Tịch Thiên.

Một bản dịch đầu tiên của quyển sách này đã được nhà xuất bản Phương Đông ấn hành vào năm 2008. Trong lần tái bản này phiên bản cũ đã được đọc lại và sửa chữa toàn bộ, thế nhưng người dịch cũng không dám tự cho rằng mình có thể nắm bắt được hết những gì thâm sâu và cao siêu trong các tiết thơ của Tịch Thiên và những lời giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Chẳng qua cũng vì tâm nguyện muốn được chia sẻ với người đọc một vài hiểu biết nhỏ nhoi đã lĩnh hội được, nên người dịch đã liều lĩnh chuyển ngữ một tác phẩm vượt xa hơn tầm với của mình. Dù lời dịch còn vụng về và sự hiểu biết nông cạn của mình có thể làm sai lạc ý nghĩa sâu sắc trong nguyên tác của Tịch Thiên cùng những lời thuyết giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, thế nhưng người dịch cũng xin chắp tay hồi hướng công lao nhỏ nhoi này để cầu xin cho thế giới vô thường của chúng ta vơi bớt hận thù và được hạnh phúc hơn, và cho hành tinh nhỏ bé này một ngày nào đó sẽ trở thành mảnh đất của Trí Tuệ vô biên.

Người dịch cũng xin mạn phép ghép thêm một vài lời ghi chú thẳng trong bản dịch hoặc đặt bên dưới các trang sách với hy vọng giúp phần dịch thuật được sáng tỏ hơn. Những lời chú thích ghi thẳng trong bản dịch được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu ngoặc.

Hoang Phong10-04-2013


Lời tựa

của Thupten Jinpa (1)

Tác phẩm Hành trình đến Giác Ngộ của Tịch Thiên do Đức Đạt-Lai Lạt-Ma bình giảng trong quyển sách này sẽ cho chúng ta thấy một cách thật rõ rệt rằng toàn bộ giáo huấn của Đức Phật đều chỉ hướng vào một chủ đích duy nhất là khuyên chúng ta phải nên trau dồi trí tuệ. Tuy chỉ là một lời khuyên thế nhưng thật ra đấy lại là một thông điệp thiêng liêng nói lên cả một sự hiểu biết thật thâm sâu, biểu trưng cho cốt lõi của toàn bộ tín ngưỡng Phật Giáo. Mặc dù một số môn đệ sau này của Đức Phật có đưa ra một vài phương pháp tu tập mang ít nhiều biến dạng, thế nhưng chúng ta cũng đừng quên là Đức Phật đã từng dạy rằng việc tu tập bằng cách hành xác, cầu xin hay thực thi các nghi lễ cầu kỳkhông thể nào mang lại được Giác Ngộ hoàn hảo, mà phải phát huy và triển khai tâm thức của chính mình. Chỉ khi nào ý thức được sự vướng mắc trong cõi luân hồi là do vô minh tự tại nơi sự hiện hữu của chúng ta gây ra thì khi đó chúng ta mới có thể nhận thấy được mục đích của mọi việc tu tập là phải xóa bỏ vô minh, và cũng chỉ khi đó thì chúng ta mới ý thức được vai trò chủ yếu của trí tuệ.

Tác phẩm của Tịch Thiên được trước tác vào khoảng thế kỷ thứ VIII và không lâu sau đó đã trởthành một tài liệu học tập quan trọng nhằm giúp người bồ-tát đặt những bước chân vững chắc trên con đường thật dài để đạtđược Phật Tính và sự Giác Ngộ hoàn hảo. Các chương I đến IV nêu lên các chủ đề nhưsự Tỉnh Thức, Sám Hối, Ý Thức về sự Giác Ngộ và các cách Ứng Dụng về sự Ý Thức ấy, nói chung đấy là các khía cạnh khác nhau của Bồ-đề-tâm (Bodhicitta). Năm chương tiếp theo từ chương IV đến chương IX nêu lên các đức tính như sự Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Kiên Trì, Thiền Định và sự Hiểu Biết Siêu Nhiên, đấy là bốn phẩm tính sau cùng trong số Sáu Điều Hoàn Thiện (Lục Ba-la-mật). Toàn bộ chương X và cũng là chương kết của tập thơ đã miêu tả thật xúc động lòng từ bi của người bồ-tát.

Ngay sau khi được phổ biến, tập Hành trình đến Giác Ngộ đã chinh phụcđược quảng đại quần chúng trên đất Ấn và cả ở Tây Tạng. Bản dịch sang tiếng Tây Tạng đã được thực hiện rất sớm từ thế kỷ thứ IX (và cũng đã được dịch sang tiếng Hán vào năm 985). Suốt trong nhiều thế kỷ sau đó tác phẩm này của Tịch Thiên đã trở thành một “tập sách căn bản” ảnh hưởng sâu đậm đến hầu hết các tông phái lớn. Các vị thầy lừng danh ở Ấn cũng như ở Tây Tạng thời bấy giờ đã không ngừng đưa ra những lời bình giải thật sâu sắc.

Ảnh hưởng của tập sách đã vượt qua thời gian. Ngày nay khi thuyết giảng thìĐức Đạt-Lai Lạt-Ma vẫn thường trích dẫn nhiều đoạn trong tập thơ trường thiên này. Ngài thường nói với mọi người rằng bốn câu thơ sau đây luôn mang lại cho Ngài một nguồn hứng khởi vô biên và một nghị lực lớn lao:

Khi nào không gian còn tỏa rộng,
Khi nào chúng sinh vẫn còn đấy,
Thì tôi sẽ còn nguyện cầu được còn đây,
Để làm tan biến những khổ đau của thế gian này.

Những lời thuyết giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về chương IX trong tác phẩm của Tịch Thiên được dựa vào hai cách bình giải quan trọng thuộc thế kỷ thứ XIXđại diện cho hai học phái khác nhau. Cách bình giải thứ nhất thuộc trường phái Ninh-mã (Nyingmapa) do Khentchen Kunzang Palden (2) nêu lên trong tập luận “Hương vị tuyệt vời trong những lời thuyết giảng của Manjushri”. Cách bình giải thứ hai thuộc trường phái Cách-lỗ (Guélougpa) do Minyak Kunzang Seunam (3)đưa ra trong tập luận “Ngọn đuốc sáng ngời”. Ngoài việc phân tích và bình giải trước tác của Tịch Thiên,Đức Đạt-Lai Lạt-Ma còn ghép thêm nhiều suy tư riêng của Ngài về Con Đường Đao Pháp nói chung. Nhằm để tránh mọi sự lẫn lộn với các lời bình giải nên các suy tư này của Ngài sẽ được trình bày riêng trong các phân đoạn mang tựa đề là “Sự hiểu biết siêu nhiên”, vàđấy cũng là cách giúp người đọc theo dõi văn bản gốc của Tịch Thiên dễ dàng hơn. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sử dụng cả hai cách bình giải xưa của hai nhà sư Tây Tạng trên đây, thế nhưng đồng thời Ngài cũng đưa ra các cách bình giải riêng của Ngài nhằm giúp chúng ta có thể hiểu sâu hơn nữa một trong những tác phẩm giáo huấn và triết học quan trọng nhất của Đại Thừa Phật Giáo.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đưa ra những lời bình giải trên đây trong các buổi thuyết giảng tại viện Vajra Yogini ở Pháp do “Hiệp Hội những người Phật Giáo Tây Tạng tại Pháp” tổ chức vào tháng 11 năm 1993. Các buổi giảng này chỉlà một phần của một chương trình thuyết giảng chung của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tại quốc gia này. Các buổi thuyết giảng đầu tiên đã được tổ chức trước đó từ tháng 8 năm 1991 trong vùng Dordogne, nhằm giải thích tám chương đầu của tập Hành trình đến Giác Ngộ. Quyển sách này ghi lại những lời bình giải của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, tuy thật thâm sâu và trong sáng nhưng không kém phần xúc động và không vượt quá xa tầm với của tất cả mọi người, về một trong những tác phẩm cổ điển có thể nói là tuyệt vời nhất của Phật Giáo.

Thupten Jinpa – Montréal, 2004

Down Load TU TUỆ – Đức Đạt-Lai Lạt-Ma – Hoàng Phong biên dịch pdf file 

Nhà Xuất Bản Phương Đông (Bản dịch mới toàn bộ quyển sách)

 http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75_4-18887_5-50_6-12_17-618_14-1_15-1/#detail

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.