Phật giáo luôn lấy Từ và Bi cùng song hành với Trí huệ, như thể đôi cánh của một con chim. Trí huệ ở đây là nhận ra chân lý của cuộc đời, làm cho tâm tự tại giải thoát khỏi trói buộc, ám ảnh và kiến chấp sai lầm…
Tiến sĩ Chen Yu-His từng là Trưởng khoa Tôn giáo học thuộc Đại học Fo Guang, Đài Loan từ năm 2000 đến 2003. Hiện nay, ông là giáo sư giảng dạy bộ môn Tâm lý và Tâm lý trị liệu tôn giáo tại khoa này. Ông đã công bố nhiều bài báo và khảo luận trong lĩnh vực tâm lý học tâm linh và tôn giáo.)
Từ và Bi là hai yếu tố quan trọng trong giáo lý Tứ vô lượng tâm mà đức Phật đã dạy. Trong đời sống đức hạnh với lý tưởng lợi tha, người Phật tử luôn ý thức từ bi và yêu thương như hình thức luân lý hay đạo đức để hướng thượng hoặc như là lý tưởng cao quý để “hiến dâng”. Về hình thức thì đây là tiêu chuẩn đạo đức của Phật giáo, chiết xuất từ tâm Từ nghĩa là “đem đến cho chúng sanh niềm vui” và tâm Bi là “cứu giúp chúng sanh ra khỏi khổ não”. Nói cách khác, Từ và Bi được xem là ý nghĩa quy phạm và sứ mệnh của lòng vị tha.
Đức Phật và những vị Thánh Tăng trong lịch sử Phật giáo thì không phải là những nhà rao giảng về đạo đức, mà là tiếp cận thực tại, chỉ cho mọi người tình thương và lòng từ bi là phẩm chất – và là sức mạnh nội tại – có sẵn bên trong thật tánh của mỗi chúng ta, đó là “Phật tánh”. Nếu chúng ta biết cách để gắn kết được với Phật tánh bên trong của chúng ta thì sẽ đạt đến nguồn thiêng dồi dào ấy. Ở đây, chúng ta đang bàn về chiều sâu của tâm lý trên cấp độ tinh thần chứ không phải là đạo đức tôn giáo. Giới luật của Phật giáo là “Từ bi vô lượng” không phải mang ý nghĩa trừu tượng siêu hình và cũng không phải duy tâm hư vô. Quả vậy, đây là thực chứng cơ bản, được thể nghiệm bằng tâm giác ngộ một cách tự nhiên – vượt thoát bản ngã cố chấp với suy nghĩ và cảm thọ đối đãi.
Lòng từ và tình thương chân thật là kết quả của sự chuyển hóa tự thân, bao gồm cả lòng vị tha vô ngã, tha thứ và hiểu biết cảm thông. Hơn bất kỳ những điều gì khác, những đức tính này chính là sự thử thách cho sức mạnh của tình yêu thương khi chúng hiện hữu trong những hoàn cảnh mà cái tôi như đang bị xúc phạm và vạch trần. Còn cái gì là vô giá hơn trong thế giới đầy xung đột và khác biệt này? Lòng bao dung hướng cho tâm chúng ta rộng mở để tiếp thu những ý kiến, quan điểm và niềm tin tôn giáo của người khác. Lòng tha thứ giúp cho ta bỏ đi cảm giác thua thiệt rồi gây ác cảm và thù hận khi người khác xúc phạm mình. Hiểu biết cảm thông nghĩa là đặt bản thân vào hoàn cảnh của người khác và xem những vấn đề của người khác trong trường hợp của họ như chính chúng ta khi xảy ra xung đột. Những đức tính ấy giúp chúng ta hàn gắn khoảng cách giữa ta và người khác, để mang lại sự hòa giải xung đột và trái ý.
Hơn nữa chúng còn liên quan đến việc tu tâm, những đức tính này giúp chúng ta tránh xa được những tiêu cực về thù hận, chống đối và ganh ghét của đời thường, vì thế làm cho những tâm lý này không còn bị che giấu, giúp cho hành giả phát triển thiện tâm và đức tính tốt đẹp. Đó là lý do mà chúng ta thực tập lòng Từ trong đạo Phật – thực tập lòng Từ không những trực tiếp hướng đến tâm Từ, thân làm việc tốt và nói lời hay, mà còn quan trọng hơn là trau giồi lòng tha thứ, khoan dung và tiếp nhận.
Phật giáo luôn lấy Từ và Bi cùng song hành với Trí huệ, như thể đôi cánh của một con chim. Trí huệ ở đây là nhận ra chân lý của cuộc đời, làm cho tâm tự tại giải thoát khỏi trói buộc, ám ảnh và kiến chấp sai lầm. Chân lý ở đây chính là sự hiểu biết sâu tột về ngã thức (ego-consciousness) của chúng ta, cùng với những hoạt động của các quan năng của nó, là một trạng thái không có mặt của ngã, chứng ngộ vô sở đắc, chân lý tuyệt đối phi nhị nguyên, hoặc tâm vũ trụ mà tâm lý học siêu cá nhân đã gọi tên. Khi nhận thức được vấn đề thì ngã nhị nguyên lập tức tiêu tan vào vô ngã, chân ngã hay tâm vô lượng, phát khởi lòng thương yêu chúng sanh bằng cả tâm Từ và tâm Bi.
Ngược lại, nếu chúng ta không lấy tâm Từ và tâm Bi làm đầu thì chúng ta không hy vọng đạt đến Trí huệ. Ở điểm này, bằng phép loại suy cho ta một điều lý thú: Trên vùng đất phì nhiêu với điều kiện thời tiết thuận lợi thì có thể tăng năng suất cho cây ngô, nhưng ban đầu lại không gieo hạt giống ngô khỏe, thì làm sao có thể có mùa thu hoạch tốt? Cũng thế Trí tuệ và Từ bi luôn tương quan mắc xích với nhau. Việc thực hành tâm Từ bi thì trước hết là thực hành lòng vị tha, sự khoan dung và hiểu biết cảm thông như đã được đề cập ở trên. Do đó, nó là cái vô cùng quan trọng để đạt đến sự giải thoát trong tâm hồn.
Phật giáo không chỉ duy nhất giải thích mối tương quan giữa Từ bi và Trí tuệ. Ngài Nisargadatta Maharaj – một vị Thánh Ấn Độ đã đưa ra ví dụ nổi tiếng nhấn mạnh rằng: “Trí huệ nói cho tôi không là gì cả; tình thương nói với tôi là tất cả. Giữa cả hai, đời tôi trôi chảy.”
Khi nói “Tôi không là gì cả” đồng nghĩa với Phật giáo về sự thể nghiệm “không tánh” và “vô ngã”, thể hiện rõ ràng qua sự chuyển thức, tỏa sáng bên trong, không chướng ngại bởi những đám mây tư duy và cảm thọ. Là “không”, vì không có gì cả, không chướng ngại gì cả, đưa chúng ta ra khỏi phàm tình. Giống như Sharon Salzberg, bậc thầy hướng dẫn thiền giải thích một cách khéo léo, rằng cả sự rõ ràng và tỏa sáng của “không” và sự tương quan của cái “là tất cả” đã làm cho ta thấy rõ bản chất thực của chúng ta.
Mọi sự thảo luận về Từ và Bi đều sẽ không trọn vẹn nếu không thảo luận đến những khả năng của Từ và Ti trong vấn đề tâm lý trị liệu. Đức Phật nói rằng Từ và Bi là năng lượng duy nhất bên trong chúng ta có khả năng giúp ta vượt thoát sợ hãi và căm ghét, giúp chữa lành tâm hồn đã bị thương tật. Ngài quán thấy, “Hận thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù; chỉ có tình thương mới xóa bỏ được hận thù.” Ngài cũng khuyên mọi người hãy, “điều phục sân hận bằng tình thương.” Những lời dạy đáng lưu ý này chỉ cho chúng ta chớ nên đối xử với nhau bằng sự căm ghét và sân hận. Trên thực tế, chúng ta có thể đưa ra nhiều ví dụ chứng minh được làm thế nào thực hành điều thiện, biết khoan dung và độ lượng thì có thể giúp mang lại sự hòa giải những xung đột cá nhân.
Chúng ta đừng nên bỏ qua mặt quan trọng khác của vấn đề này, đó là tâm Từ và tâm Bi cũng là liều thuốc giải độc hữu hiệu cho tâm sân, giận, thù oán… khởi lên trong mỗi chúng ta. Chúng ta biết rằng tinh thần tiêu cực có thể sản sinh ra những độc tố phá hủy sức khỏe thân thể lẫn tinh thần. Trong số độc tố khác nhau ấy, tâm hận thù bị dồn nén tạo nên sự hỗn loạn của tâm lý, là nguy cơ đưa đến chứng rối loạn thần kinh và bệnh trầm cảm.
Khoa Tâm lý trị liệu chính thống cung cấp toàn bộ phương pháp chữa trị được cho là hợp lý dựa vào thuyết Tâm lý vị kỷ, thực ra đã bỏ qua các phương pháp hiệu quả nhất đó là khơi dậy nguồn yêu thương bên trong của các bệnh nhân. Điều vô lý và không xác đáng của những tiếp cận khoa Tâm lý trị liệu cho thấy qua phép phân tích này: Tại sao bạn lại bận tâm với việc dùng xẻng để dọn dẹp băng tuyết khi ánh mặt trời có thể làm điều đó dễ dàng? Có khối năng lượng luôn tiềm ẩn bên trong trái tim của mỗi chúng ta. Và khoa Tâm lý học hiện sinh đề nghị, con người hoàn toàn tự do chọn cho mình nguồn năng lượng bên trong ấy để chữa lành cho người khác cũng như cho chính mình.
Vậy thì, lần sau khi bạn khởi tâm sân hận và giận dữ thì bạn hãy dừng lại để tĩnh tâm và quán chiếu nội tâm trước khi đến gặp bác sĩ Tâm lý trị liệu. Phải chăng tất cả những tâm lý tiêu cực đang hiện diện trong tâm thức của bạn là điều cần thiết? Phải chăng ta không có đủ sức mạnh nội tâm để chế ngự chúng? Xin lưu ý rằng, sự thực hành tha thứ có thể thúc đẩy xây dựng lợi lạc cho chính mình. Mỗi khi tha thứ cho kẻ thù của bạn, không phải là để làm một việc đạo đức hay tôn giáo nào, mà đơn giản là mang lại lợi ích cho chính mình. Bạn không muốn làm tổn thương, xúc phạm đến ai thì tâm hồn của bạn luôn tốt đẹp. Với sự hiểu biết trong tâm, việc thực hành tha thứ và khoan dung có thể đem lại nhiều kết quả không ngờ đến với bạn.
Sức mạnh nội tâm mà chúng ta có thể sử dụng cho mục đích này có liên hệ với một chủ đề quan trọng trong cuộc thảo luận về Từ và Bi: Đó là tình yêu đối với tự ngã. Nhiều nhà tư tưởng phương Tây đồng tình với nhận định của đức Phật rằng tình thương yêu chính mình là nền tảng của tâm Từ và tâm Bi đối với người khác. Như đức Phật nhận xét, “Các ngươi có thể du hành khắp thế gian để tìm kiếm một người nào đó đáng thương yêu hơn chính ngươi, nhưng con người đó không thể tìm thấy được.” Tuy nhiên, không nên lẫn lộn tình thương yêu chính mình với tâm lý quá lo lắng chăm sóc cho mình và khuynh hướng tự coi mình là trung tâm. Tình thương yêu chính mình xảy ra từ một tiến trình trưởng thành cá nhân một cách lành mạnh, trong đó việc biến những tiềm năng cá nhân của chúng ta thành hiện thực, nhất là trong lúc phục vụ người khác, mang lại cho chúng ta niềm vui và sự hạnh phúc, và tăng cường niềm tin vào giá trị tự lực của chính mình thay vì chỉ làm mình thêm hợm hĩnh. Tự thương yêu chính mình là tiếp tục liên kết được với cội nguồn của niềm vui và hạnh phúc, và là học tập để đánh giá phần tinh túy có sẵn trong chính tâm thức mình. Cần lưu ý, tình thương yêu chính mình trong ý nghĩa này sẽ bị xói mòn bởi mọi khuynh hướng vị kỷ và quá chăm lo săn sóc cho bản thân, kể cả những khuynh hướng tự cao hay tự hạ.
Ngược lại, khi tình thương được tăng trưởng thì con tim và tâm hồn chúng ta mở rộng để chấp nhận mọi tình huống và mọi người, để xoa dịu nỗi đau bằng tình thương, đưa bàn tay thân thiện tiếp đón người khác khi họ cần giúp đỡ. Vượt ra ngoài ích kỷ thì sức mạnh của tâm Từ và tâm Bi sẽ tăng trưởng.
Từ bi là năng lượng đủ ấm áp để chữa lành được vết thương, đủ mạnh mẽ để vượt qua trở ngại và đủ bức xạ để phát quang. Đó là năng lượng tiềm ẩn cần thiết cho mỗi chúng ta – là nguồn năng lực quý giá bên trong mà tất cả chúng ta có thể trau giồi để phát triển và làm lợi lạc tự tha.¡
Liên Như dịch
http://www.daophatngaynay.com/
_______________________________
i. Được trích dẫn trong Sharon Salzberg, Loving-kindness: The Revolutionary Art of Happiness, Boston: Shambhala, 1997, tr.15.
ii. Sđd