Mẹ tôi – Trích Phật Ân số 9 – PL.2550 – DL.2006
Sáng nay, chuẩn bị viết bài cho Phật Ân số 9. Vì nhu cầu liên lạc của chùa, Ban Chức sự xin nối điện thoại để dùng, trừ các giờ: Tụng kinh, Thiền quán, Quá đường, Chỉ tịnh thì tắt. Vậy là có điện thoại reo, thì ra Đồng Phúc báo tin thân mẫu đã nguy kịch và xin tham vấn về hậu sự cho mẹ, khi mẹ Phúc qua đời.
Năm qua, cũng thời gian này tấm lòng của người mẹ (Phúc) khi sắp mất con (Long). Năm nay là tâm trạng của người con sắp mất mẹ. Lại một sự trùng hợp kỳ lạ, hai lần điện thoại cách nhau một năm vào đúng mùa An cư, lúc chuẩn bị bài cho Phật Ân hằng năm.
Bỏ điện thoại xuống, tôi lại thẫn thờ nhớ mẹ, đã hơn 17 năm vắng bóng mẹ, 17 năm cuộc sống của tôi ít sóng gió, ít nhiêu khê mặc dù trên vai còn nặng nợ đời, nợ đạo, nợ dòng họ. Vì khi Mẹ tôi còn sống, người chỉ chứng kiến cái khổ tù tội vất vả, nguy hiểm của tôi trong cuộc sống nên Mẹ tôi luôn luôn lo âu. Tôi thật quả bất hiếu, nghĩ lại mà xót xa, ân hận, dù tội bất hiếu ấy do hoàn cảnh tạo nên. Nghĩ vậy, tôi chỉ khuyên Đồng Phúc bình tĩnh để lo hiếu sự, việc gì đến phải đến không cản được tử thần. Nói thì dễ nhưng khi đối cảnh thì không dễ chút nào vì có ai không đau khổ khi tử biệt sinh ly với người thân, mà người ấy lại là mẹ mình, mẹ mình đang đối đầu với cái chết, đang cố giành giữ mạng sống từng giây, từng phút thì người sắt đá đến đâu cũng không thể dửng dưng được huống gì những người Phật tử lấy chữ Hiếu, chữ Tình, chữ Nghĩa làm đầu khi thấy mẹ mình đi dần đến cửa tử mà người con bất lực đứng nhìn trong tuyệt vọng. Tôi may mắn hơn, không chứng kiến cảnh này (hay vô phước hơn không được nhìn mẹ lần cuối khi mẹ tôi lìa bỏ cõi trần!).
Khi còn sống Mẹ tôi rất sợ cảnh đau ốm dài ngày, lê la, nằm ngồi một chỗ, hành hạ con cháu, tốn kém tiền bạc mà cuối cùng cũng phải ra đi theo nghiệp lực. Tôi khuyên Mẹ tôi niệm Phật thật chuyên cần, thật chí thiết để giải trừ nghiệp chướng và Mẹ tôi đã thực hành, nhờ công năng niệm Phật hay nhờ phước duyên mà Mẹ tôi đã vun bồi từ trước nên chỉ bệnh nhẹ hai ngày và trước khi nhắm mắt năm phút Mẹ tôi còn tự tay bưng sâm để uống. (Ngày 06/12 năm Tỵ) trong lúc tôi còn ở Long Thành dẫn đệ tử về Thường Chiếu dự lễ, tối ngày mùng bảy đón lễ kỷ niệm Đức Thích Tôn Thành Đạo.
Được tin lúc 10 giờ tối, tôi bàng hoàng và cố giữ bình tĩnh trở về thất để chuẩn bị hôm sau về Huế (thật ra lúc này tôi chẳng có gì để chuẩn bị, ngoài hai bộ quần áo cũ mèm) kiểm lại tiền bạc có được mấy trăm đồng, làm sao đủ tiền xe, chưa nói đến việc lo đám tang cho mẹ! Mượn ai? Xin ai? Tôi định lên Già Lam mượn của Thầy Đức Chơn và lên Ấn Quang xin Sư phụ, ngoài ra chẳng biết xoay xở thế nào.
Do tự trọng, thanh liêm nên tôi rất nghèo, nay gặp cảnh này thật nan giải, liều đi mượn ư? Dù mượn chứ không xin, nói thế nào mà mượn? Nêu lý do gì? Nói rõ lý do mẹ chết ư? Nhục quá, nói láo ư? Hèn quá! Im lặng ư? Thì mọc cánh bay về Huế sao? May quá, bà Năm Thông biết chuyện cho mượn một ít, cô đệ tử ở Liễu Đức cho một ít, tổng cộng vẫn không đủ tiền xe về Huế.
Đến bến xe Văn Thánh, gặp xe đi Đà Nẵng, trả giá và chủ xe bằng lòng, có lẽ Hương linh Mẹ tôi hộ trì nên tôi lên xe và trao hết tiền cho họ, trong bụng nghĩ cứ liều, đến đâu hay đó. Dọc đường, xe cà rịch cà tang, đường xấu, xe khi bò khi lết, khi nhảy như ngựa, khi lắc như say, tôi chẳng quan tâm chỉ mong cho mau đến Huế. Chưa bao giờ tôi thấy nôn nóng như lần này, dĩ nhiên xe chạy chậm, quá chậm, ngồi trong xe tôi nghĩ ngợi lung tung; Mẹ tôi 12 lần sinh nở nay chỉ còn 3, trước tôi 3 chị 1 anh đều chết hết, bây giờ tôi lại là trưởng và sau tôi còn hai em gái đều làm dâu xứ Quảng, tôi lại là Tu sĩ, không gia đình, không tài sản, ở tù về là hai bàn tay trắng, một chiếc áo lành không có, một đôi dép tốt cũng không, bộ Y Hậu cũ mèm đụng đâu rách đó, nay về Huế lo đám tang mẹ, làm sao đây! Nghĩ đến con cháu, thì đàn con anh trai (Đoàn Đình Phúng) chín đứa ở Nha Trang, lúc này chúng còn hiểu lầm Bà Nội. Chín đứa cháu nội con Long tản mác khắp nơi, được thằng Luyện, biết sống thì ở quá xa, nửa vòng trái đất. Cháu ngoại mẹ tôi thì đông lắm nhưng kinh tế kiệt quệ, tản mác khắp ba miền đất nước mưu sinh, liệu có đứa nào về đám tang Bà Ngoại?! Tôi tính, nhanh lắm cũng hai ngày một đêm tôi mới có mặt ở Huế, Mẹ tôi nằm đó ai lo, ai liệm, ai làm lễ, quan tài ai mua? Tiền bạc ở đâu? Đành rằng ở quê còn có anh rể, em gái, có các Nghĩa tử của Mẹ tôi, có bà con làng xóm họ hàng. Nhưng ai chủ động? Ai mời Quý Thầy kinh kệ? May sao lăng mộ sanh phần kim tỉnh của Mẹ tôi, tôi đã lo trước, do em dâu tôi nhường sanh phần của nó. Tôi thấy mình quá bất hiếu, quá tệ hại, trên 50 tuổi đầu, bôn ba bay nhảy suốt đời, bấy giờ về quê lo tang lễ mẹ, không một xu dính túi, nhịn đói nhịn khát suốt một ngày một đêm rồi… Xe nghỉ, người ta vào quán xôn xao ăn uống, còn tôi lững thững dựa cột quán tiếp tục nghĩ ngợi mông lung mà thật tình, tâm trạng đâu mà nghĩ đến việc ăn uống! Cái thằng tôi vô vị, cái thằng tôi bất hiếu, cái thằng tôi vô phước… Tôi tự trách mình, MT ơi, mày tệ lắm phải không? Mày phải thấy cái nghiệp dĩ của mày, xã hội, chế độ đày đọa mày như vậy có phải không? Không phải, tại tôi u mê, tại tôi vô phước, tại tôi thiếu tu. Vì chống Mỹ, chống Diệm, chống Thiệu nên ở tù, Cha chết mày không gặp mặt, không lo được tang lễ (1968) nay Mẹ chết mày cũng không có bên cạnh, Mẹ đau, mày không có một viên thuốc, một muỗng cháo và liệu về quê mày có lo nỗi đám tang? Khi chính bản thân mày còn nhịn đói!
Mẹ ơi! tôi thầm gọi, xin Mẹ tha thứ cho con tội bất hiếu này, con tự biết, con không hư đốn, không vô tình, không bất nghĩa nhưng nghiệp dĩ của con Mẹ đã thấy, đã thông cảm và hơn nữa Mẹ đã đồng ý cho con được theo lý tưởng của mình, lý tưởng phụng sự Đạo pháp và phục vụ Dân tộc, những lúc vấp ngã, có Mẹ đỡ đần, những lúc khó khăn có Mẹ khuyến khích, lúc trở ngại có Mẹ sách tấn, nếu không có Mẹ chắc gì con đã đứng vững giữa cuộc đời đầy bão táp chông gai này, trong cuộc sống bốn lần tù mà không tội!
Ngày con ra khỏi trại cải tạo, bị quản thúc tại quê nhà, hằng ngày đến chính quyền trình diện, gặp mấy đứa cháu làm Cán bộ, Bí thư, sáng xỉn chiều say con bất tuân quyền lực, Mẹ lo ngại bảo con “Nên tìm cách vào Nam, hoàn cảnh khắc nghiệt ở Huế sẽ làm con tù túng, bức xúc sẽ rất phiền phức, đừng lo nghĩ bận tâm về Mạ, Mạ còn khỏe, tự lo được”, vâng lời Mẹ con đã đi kinh tế mới tự túc, vào Long Thành dựng thảo am tu niệm và nhờ vậy mới có Chùa Phật Ân ngày nay. Sơ khởi, lắm khó khăn, mẹ vào thăm tiếp tế, khi trở về mẹ cũng thường liên lạc bằng thư, mới mấy hôm trước đây, đọc thư mẹ, vẫn những lời dặn dò, chăm sóc, hỏi han, chỉ bảo, mẹ dặn con đừng thức khuya, đừng lao động quá sức, phải uống nước nấu chín, xử sự mềm mỏng, một sự nhịn chín sự lành, thiếu tiền tiêu mẹ gởi vào cho…
Mẹ ơi, bây giờ Mẹ không còn nữa, con chẳng còn có ai để được an ủi khi hoạn nạn, chăm sóc khi ốm đau, khuyến khích khi khó khăn, trợ duyên khi thiếu thốn. Nghĩ đến đây con xấu hổ, con thấy mình ít kỷ, tệ mạt. Tại sao con không ở bên mẹ để chăm sóc mẹ lúc tuổi già, không sống bên mẹ để lo thuốc thang cơm cháo! Sao con lại ngu ngốc đến thế để hôm nay Mẹ nhắm mắt thì con ở quá xa, không thấy mặt Mẹ lần cuối. Có lẽ giờ này bà con đã liệm Mẹ rồi!
Về Huế lần này con không còn diễm phúc được Mẹ gội đầu, được Mẹ cho ăn canh mướp đắng, ăn tương ớt thật ngon do Mẹ làm. Về Huế lần này để đưa Mẹ về miền đất lạnh, con vĩnh viễn xa Mẹ.
– Mời Thầy vào uống nước. Người khách ngồi bên cạnh lên tiếng, tôi sực tỉnh, xe đã dừng lại trước một quán cơm lụp xụp bên đường.
– Cám ơn, tôi không khát.
– Thầy đừng ngại, gần một ngày một đêm rồi, nhìn Thầy thẩn thờ không ăn uống gì, thỉnh thoảng lau nước mắt, con biết Thầy đang đau buồn.
– Không có gì. Tôi gượng cười nhưng nước mắt cứ chảy, người khách nhìn tôi ái ngại.
Mẹ ơi, con phải can đảm, phải tỉnh táo, đừng ủy mỵ phải không mẹ, mẹ từng dạy con như thế mà.
Đến Đà Nẵng, anh lơ xe lại tìm xe gởi con ra Huế khỏi trả tiền, con mừng lắm vì tiền đâu mà trả. Lần này con gặp toàn người tốt nên cũng nhẹ chút trong cuộc hành trình về lễ tang mẹ, lại một lần nữa con nghĩ Linh hồn Mẹ đã hộ trì theo từng bước con đi.
Đến nhà, mọi việc đã đâu vào đó, không có con, quý Thầy ở Huế, bà con ở làng, các Nghĩa tử của mẹ đã lo rất chu đáo, mọi người đón chờ con cả tấm lòng và nước mắt vì ai cũng thương mẹ con mình. Đứng trước quan tài, con hình dung xác thân mẹ nằm trong đó, nhìn ảnh mẹ trên bàn thờ, mẹ nhìn con, im lặng, mọi người chung quanh con im lặng và con chỉ nói được hai tiếng “Mạ ơi!”
Ảnh mẹ rất nghiêm trang, nhưng con thấy Mẹ đang cười rồi nước mắt Mẹ chảy làm nhòa cả tấm ảnh rồi mờ cả bàn thờ, khi nghe môi mằn mặn con mới biết là con khóc chứ không phải mẹ. Con bước đến sờ vào quan tài mà con tưởng như đang cầm tay mẹ mà sao lạnh ngắt chứ không ấm áp như nhiều lần trước đây, quan tài là gỗ, nó vô tri vô giác nhưng nó đang ôm giữ thân xác của mẹ tôi. Không khí im lặng, giờ phút thiêng liêng mẹ con gặp nhau nhưng là âm dương hai ngã, nhìn mọi người chung quanh, ai cũng thút thít khóc kể cả các em nhỏ trong xóm đôi mắt cũng đỏ hoe.
Bàn Phật, bàn thờ được thiết trí trang nghiêm, quan tài của Mẹ được trang trí rất công phu, mỹ thuật. Hồ Khế, con thầy Phổ Lợi gia công trang trí để cúng Mệ.
Con muốn quỳ xuống đảnh lễ cám ơn mọi người đã thay con lo mọi việc rất chu đáo, họ không cho con lạy, con lí nhí nho nhỏ hai tiếng cám ơn.
Mẹ tôi không có phúc duyên để được “Dự tri thời chí” (biết trước giờ chết) nhưng mẹ đã chuẩn bị rất cẩn thận, nghiêm túc. Mẹ đã biết khi mẹ nhắm mắt con không về kịp nên đã dặn dò kỹ, ghi vào băng nhựa, bảo anh Nhu (Nghĩa tử) lo mời Quý Thầy tẩm liệm, nhờ thầy Phổ Lợi, thầy Thiện Chí, sắp xếp bàn Phật, bàn linh… đợi Minh Tâm về sẽ lo tiếp những gì còn lại. Lời di huấn của mẹ đọc rất rõ ràng, dạy dỗ con cháu rất kỹ lưỡng kể cả việc ma chay, kỵ chạp, kể cả bổn phận đối với bà con dòng họ, trách nhiệm đối với Tam Bảo với Đất nước, với Tổ Tiên Ông Bà, Mẹ đều phân tích và chỉ giáo rất nghiêm. Chúng con nhất nhất làm theo không dám trái ý Mẹ và dĩ nhiên có nhiều điều rất khó trong hoàn cảnh hiện nay.
Tang lễ Mẹ khá lớn, không phải lớn vì heo mập bò to mà lớn nhờ tình đời nghĩa đạo. Hòa Thượng Thiện Siêu về chứng minh quy linh, Thượng Tọa Khế Chơn thuyết linh, các Thượng Tọa Từ Vân, Thanh Huyền, Hải Ấn, Quang Nhuận, Phước Toàn, Khế Viên, Thiện Chí, Tâm Thọ… đều thương mến hộ niệm cho đến ngày chung thất. Phật tử và Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni các nơi: Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Thiết, Cam Ranh, Sài Gòn, Long Thành, Đồng Nai đều có phúng điếu, viếng tang cầu nguyện. Những nơi này con đã ở trong cuộc đời hoằng hóa rày đó mai đây và đều được bà con Pháp Lữ huynh đệ yêu thương nên khi nghe tin họ đều cảm thương mà gia tâm cầu nguyện. Ni chúng các chùa Hồng Ân, Kiều Đàm, Diệu Đức, Diệu Viên, Hoàng Mai cử quý cô về tụng kinh hộ niệm hằng tuần cho đến ngày chung thất.
Lại thêm, có những Huynh Trưởng và Đoàn sinh trong GĐPT Thừa Thiên và Phú Vang, Phú Thứ mà ngày trước con cùng sống chết với họ cho đạo, cho Tổ chức, trong dịp này anh chị em thể hiện trọn vẹn tấm chân tình, có mặt đông đủ, trừ những người đã chết. Vào mùa đông trời xứ Huế mưa lạnh cắt da thế mà anh Sơn và các cháu ở Nam Phổ không thiếu tuần nào tụng Đàn Thủy sám, Địa tạng cầu siêu cho Mệ, các khuôn hội lân cận như Triều Thủy, Dưỡng Mong, Phước Linh, An Lưu, Mỹ Lam, Diên Trường, Quy Lai, Tân Dương, Thuận An… đều viếng tang cầu nguyện. Tinh thần các Phật tử đất Thần Kinh, đạo tình thấm đượm, tình Pháp Lữ của các Thầy ở Huế đối với con với mẹ, với Đoàn Đình Gia Tộc thật cao quý, con chỉ biết khắc vào tâm khảm niệm ân.
Mẹ ơi! Con nghĩ, cái phúc duyên phước báo của Mẹ, của Con gieo trồng từ trước nay kết trái đơm hoa, rõ ràng không phải giàu sang chức quyền mà có được, nên Con nguyện đền đáp ơn Tam Bảo, ơn Đàn na, ơn thiện hữu, ơn chúng sanh bằng sự nỗ lực, tinh tấn tu hành, trung thành, phụng thờ và phát huy nền văn hóa Việt Phật trong khả năng hạn chế của bản thân mình.
Riêng với Mẹ, thân tứ đại Mẹ đã yên nghỉ dưới lòng đất, mồ đã yên, mã đã tốt và Mẹ đã để lại trong con, trong nhiều người những cái hay, cái đẹp. Khi còn sống Mẹ cấm con làm sai, nói trật, nghĩ xấu, 17 năm rồi không có Mẹ nhưng con vẫn luôn thấy mẹ bên cạnh, con đã cố gắng thực hiện những gì Mẹ dặn, Mẹ muốn. Mẹ có hai người con dâu, một người đã theo Mẹ về cõi âm, một người còn lại đã là một Phật tử thuần thành, hai đàn cháu nội đã nên người, biết sống cho ra sống như Mẹ muốn, còn năm đàn cháu ngoại của Mẹ thì nên hư là chuyện của nghiệp thức, nhân quả, chỉ có điều là hai cháu Đích Tôn Nội Ngoại của Mẹ (Minh Trí, Ngô Cát) chúng đã từ bỏ cõi đời giả huyễn này rồi, không biết Mệ cháu có gặp nhau bên kia thế giới? Con nhắc như thế để tự nhắc mình và nhắc những đứa cháu còn lại vì có đứa nó quên ngày giỗ bà! Nói điều này tim con nhói đau, đau vì con cháu có đứa vô tình thì ít mà đau vì thói đời của một xã hội băng hoại đạo đức nghĩa tình thì nhiều, mà điều này với Mẹ thì khó tha thứ phải không Mẹ?
Mẹ ơi! Con viết về Mẹ, nói việc của Mẹ và Con nhưng cũng là nói việc mọi người, tâm trạng của Con cũng là tâm trạng của nhiều người tuy hoàn cảnh có khác nhưng chữ Hiếu, chữ Tình, chữ Nghĩa, chữ Trung, chữ Tín nó chỉ có một nghĩa, một nghĩa thiêng liêng cao cả không ai phủ nhận được dù Đông Tây kim cổ hay Chủ nghĩa, Chế độ nào cũng thế mà thôi vì đó là Nhân bản, là Nhân cách, là Đạo lý làm người, Chế độ nào, Chủ nghĩa nào phủ nhận điều này thì sẽ biến con người thành con vật và còn tệ hơn con vật nữa là khác! Lời nói này Mẹ thường nhắc, Mẹ bảo đây là lời dạy của cụ Nguyễn Thượng Hiền (Nghĩa phụ của Mẹ).
Mỗi năm, trong Phật Ân con đều có một bài về Mẹ, con tâm sự với Mẹ, dâng cúng Mẹ trong lễ Vu Lan, con tưởng nhớ Mẹ bằng cách này vì có nhiều người đồng cảm. Con viết rất thật, rất chân tình vì nếu có một chữ một lời không thật thì con biết Mẹ sẽ giận rồi trừng phạt con như khi Mẹ còn sống, Mẹ chúa ghét dối lòng.
Tháng 10 tới, con đủ 70 tuổi, đã là một lão già, ước gì giờ này có Mẹ, để Mẹ vò cái đầu tóc bạc của con để chứng minh lời Phật dạy trong Kinh Báo Hiếu “Mẹ già trăm tuổi còn thương con 80” mà thấy mình hạnh phúc “Già đời còn có mẹ”. Nhưng mẹ ơi, con không có diễm phúc ấy nữa rồi. Đã 17 năm vắng mẹ, bây giờ mẹ ở đâu? Con tin tưởng và cầu nguyện mẹ của con được Hạ Phẩm Hạ Sanh cũng quý hoặc chí ít cũng tái sinh làm người và được sống trong Chánh Pháp của Phật.
Như vậy, dù đời này hay bao đời nữa, dù ở Âu hay ở Á, dù cõi trời hay cõi người, điểm mẹ con chúng ta phải đến và gặp nhau, mẹ tìm con bên cánh sen hồng, con gặp mẹ dưới hào quang chư Phật. Ở đó, Con gặp Mẹ của Con.
Mùa Vu Lan 2550
Minh Tâm