Ba Vòng Quay Của Bánh Xe Đạo Pháp

Khái niệm “tất cả đều là tâm thức” (cittamatra)

Một sự diễn đạt mới và quan trọng thứ hai về Đạo Pháp thuộc vòng quay thứ ba là khái niệm cho rằng “tất cả đều là tâm thức”. Điều này có nghĩa là mỗi khi tri thức nhận biết được một hiện tượng nào đó thì tức khắc nó dán ngay lên hiện tượng đó một nhãn hiệu và xem hiện tượng ấy thuộc vào lãnh vực bên ngoài nó và hoàn toàn cách biệt với nó. Thí dụ những dòng chữ này mà chúng ta đang đọc trên màn ảnh máy tính và tưởng rằng đấy là một thực thể cách biệt không liên hệ gì với tri thức của chính mình, bởi vì đó chỉ là một bài viết của một người tên là X hay Y nào đó. Thế nhưng tính cách bên ngoài ấy chỉ là một khái niệm đơn thuần, hay nói cách khác là một sự “tưởng tượng”, bởi vì đấy chỉ là một nhãn hiệu phát sinh trong tâm thức người đọc và do chính người đọc đã gán cho những gì mà mình đang đọc. Sự thấu triệt mà mỗi người đọc tiếp nhận được đều mang tính cách cá biệt, sự thấu triệt đó đã được nhào nặn và biến đổi trong tâm thức của từng người và đã trở thành một sản phẩm của tâm thức của chính người ấy. Vô Trước có viết một câu như sau: “Tùy theo vị thế của mình, các thiên nhân, con người, súc vật hay quỷ đói khi đối diện với một đối tượng duy nhất đều phát lộ những tư duy hoàn toàn khác biệt nhau. Do đó có thể kết luận rằng đối tượng không thật sự hiện hữu”.

Những dòng chữ này mà người đọc đang đọc trên màn ảnh máy vi tính trước mặt mình chỉ là một sản phẩm hay một sự tạo dựng lệ thuộc vào vô số nguyên nhân và điều kiện: chẳng hạn như những gì thuộc vào người viết thí dụ như học vấn, sức khoẻ, quyết tâm, xúc cảm trong lòng của người ấy…, và những gì thuộc vào người đọc như cơ duyên, sự tò mò, thì giờ rãnh rỗi, cũng như khả năng chú tâm của mình. Đấy là chưa nói đến những điều kiện vật chất như chiếc máy vi tính, mạng lưới Internet, v.v. và v.v… Những gì vừa trình bày chính là bản chất lệ thuộc và cấu hợp của những dòng chữ này. Mặc dù chúng có vẻ như thuộc bên ngoài và khác với tâm thức của mỗi người, thế nhưng tri thức nhận biết được chúng cũng như đối tượng mà chính cái tri thức ấy nhận biết được – tức là các dòng chữ này – thật ra không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào cả. Sự hiện hữu của chúng chẳng những không mang một thực thể nào mà thật ra chỉ là những biểu hiện của tánh không. Những biểu hiện của sự trống không ấy chính là “bản chất được thiết đặt một cách hoàn hảo” của mọi hiện tượng bên trong tâm thức của mỗi cá thể.

Tất cả kinh điển thuộc vòng quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp đều nói lên khái niệm trên đây: tất cả những gì mà chúng ta quán nhận được, hình dung ra được đều là tâm thức. Trong kinh Dashabhumika-sutra (Thập Địa Kinh, ch.VI, phẩm 3) có một câu như sau: “Tất cả những gì hiện hữu trong tam giới nhất thiết chỉ là tâm thức đơn thuần” (tam giới ở đây có nghĩa là ba cõi của luân hồi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới). Thiết nghĩ đây là một câu kinh vô cùng quan trọng. Vị đại sư Thái Lan thật uyên bác là Buddhadhasa khi thuyết giảng về luân hồi, tam giới, v.v… đều cho rằng tất cả những thứ ấy chỉ là những thể dạng khác nhau thuộc vào quá trình vận hành liên tục của tâm thức, và đấy cũng là một cách hiểu về luân hồi và tam giới dưới góc cạnh của khái niệm “tất cả đều là tâm thức”.

Kinh sách Việt văn gốc Hán văn gọi khái niệm này là “vạn sự do tâm tạo”, thế nhưng nếu dịch chữ “cittamatra” là “vạn sự do tâm tạo” thì không được sát nghĩa lắm. Thí dụ tách nước đặt trên bàn trước mặt ta không do tâm thức “tạo ra” nó, mà đấy chỉ là một sự “nhận biết” và “diễn đạt” của tâm thức, mang bản chất tâm thức, thuộc tâm thức và ở bên trong tâm thức, nhằm áp đặt cho một thứ gì đó ở bên ngoài, tách nước mà chúng ta nhận biết được trong tâm thức chỉ đơn thuần là một khái niệm, một sự tạo dựng của tâm thức bên trong tâm thức.

Duy Thức Học mang hai tên gọi khác nhau: nếu căn cứ vào nền tảng giáo lý thì gọi là Cittamatra (tất cả là tâm thức / đơn thuần chỉ là tâm thức), hoặc căn cứ vào các phép tu tập tức là các cách ứng dụng vào việc thiền định thì gọi là Yogacara (Du-già thiền định). Duy Thức Học cũng còn được gọi là Vijnanavada (Học Phái Tri Thức) hoặc Vijnaptimatra (Duy nhất chỉ có tư duy). Sở dĩ mạn phép dài dòng vì nếu hiểu đúng được ý nghĩa một thuật ngữ thì cũng có thể đã giúp mình hình dung ra được phần nào nội dung của khái niệm ấy.

Ngoài hai khái niệm mới là “Phật tính” và “tất cả đều là tâm thức” vòng quay thứ ba của bánh xe đạo Pháp còn cho thấy một khái niệm mới khá quan trọng khác nữa đó là khái niệm về ” ba bản chất” của mọi hiện tượng.

Khái niệm về “ba bản chất” (trilaksana)

Nếu trong vòng quay thứ hai các hiện tượng được xem là ảo giác và chỉ hiện hữu nhờ vào sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa chúng với nhau, thì trong vòng quay thứ ba các hiện tượng được xem có ba bản chất khác nhau:

– bản chất hoàn toàn mang tính cách tưởng tượng (parikalpitasvabhava): thí dụ tri thức tưởng tượng ra một cái “ngã” mang tính cách cá thể. Cái ngã đó giữ một vai trò chủ động nhằm gán cho mọi hiện tượng một sự “hiện hữu thật”.

– bản chất lệ thuộc (paratantrasvabhava): tức là sự lệ thuộc giữa nguyên nhân và hậu quả, nói cách khác là tính cách lệ thuộc hay trói buộc giữa các hiện tượng với nhau. Tóm lại là “mỗi” hiện tượng thật ra biểu trưng cho cả một tổng thể kết nối gồm vô số các hiện tượng cấu hợp tương kết với nhau để tạo ra “nó”.

– bản chất được thiết đặt một cách hoàn hảo (parinispannasvabhava): có nghĩa là các hiện tượng nhận biết đúng như thế trong bối cảnh tương liên của nó. Hiện tượng ấy đúng thật là như thế, không có bất cứ một sự diễn đạt mang tính cách “giả tạo” hay “tưởng tượng” nào được ghép thêm cho nó. Có thể hiểu “bản chất thiết đặt một cách hoàn hảo” như là “bản chất đích thật” của các hiện tượng.

Bộ kinh căn bản của Duy Thức Học là kinh Samdhinirmocana-sutra (Giải Thâm Mật Kinh) có đưa ra một thí dụ rất cụ thể và dễ hiểu: thí dụ một tinh thể pha lê trong suốt được đặt lên trên một tấm vải màu xanh. Ánh sáng phản chiếu từ tấm vải màu xanh xuyên qua khối tinh thể khiến cho nó phát ra màu xanh. Hiện tượng hay sự cảm nhận về khối tinh thể màu xanh mang “bản chất lệ thuộc” (paratantrasvabhava). Nếu chúng ta cho rằng khối tinh thể là màu xanh có nghĩa là tự nó “có” màu xanh thì đấy là một sự tưởng tượng, một sự diễn đạt của tâm thức, ảnh hưởng bởi sự cảm nhận sai lầm về màu xanh của khối tinh thể. Vì vô minh chúng ta cho rằng khối tinh thể có màu xanh, thế nhưng đấy chỉ là một sự tưởng tượng (parikalpitasvabhava). Sau khi quan sát cẩn thận thì chúng ta nhận thấy khối tinh thể sở dĩ có màu xanh là vì tấm vải bên dưới có màu xanh, thật sự ra thì khối tinh thể vẫn trắng tinh và trong suốt. Do đó ảo giác cho rằng khối tinh thể là một viên “ngọc bích” hiện ra trong tâm thức của chúng ta trước đây cũng sẽ hoàn toàn bị loại bỏ. Sự loại bỏ bản chất lệ thuộc và tưởng tượng ấy sẽ giúp cho tâm thức nhận biết được “bản chất được thiết đặt một cách hoàn hảo” (parinispannasvabhava) về khối tinh thể.

Tóm lại căn bản giáo lý thuộc vòng quay thứ ba của Đạo Pháp cho thấy một sự chuyển hướng thật toàn diện. Nếu tánh không và mọi hiện tượng trong thế giới được nhìn qua một góc cạnh khá tiêu cực trong vòng quay thứ hai (tất cả chỉ là trống không tuyệt đối), thì cả ba khái niệm mới trong vòng quay thứ ba là “Phật tính”, “tất cả đều là tâm thức” và “ba bản chất” đều mang một khía cạnh rất thật và tích cực nào đó: một hạt bụi cũng có Phật tính, “tri-thức-căn-bản-của-tất-cả” là thể dạng đích thật của tâm thức, bản chất được thiết đặt một cách vững chắc là bản chất đích thật của mọi hiện tượng.

Nói chung vòng quay thứ ba đặt nặng vai trò của tâm thức trong mọi sự diễn đạt về thế giới hiện tượng bên ngoài và cả sự vận hành của chính nó. Khuynh hướng diễn đạt này đã khoác lên cho Đạo Pháp nhiều khía cạnh tâm lý học vô cùng sâu sắc và tinh tế. Trong khi đó thế giới Tây Phương phải chờ đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX mới bắt đầu chập chững tìm hiểu sự vận hành của tâm thức là gì và đưa ra khái niệm về tiềm thức (subconsciousness) qua các công trình khảo cứu của Sigmund Freud, Carl Jung…

Dưới đây là bảng tóm lược các điểm chính yếu thuộc ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp:

Bảng tóm lược ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp

Vòng quay thứ I

(Đức Phật tại thế)

Vòng quay thứ II

(thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến thế kỷ thứ III)

Vòng quay thứ III

(thế kỷ thứ III-IV đến thế kỷ thứ V-VI và sau đó)

giáo lý: Vô Ngã (Anatman)

– Bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Đế)

– Không có cái tôi (vô ngã)

giáo lý: Tánh Không (Sunyata)

– Tánh không (sunyata) – Hiện tượng tương liên (lý duyên khởi )

giáo lý: Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha)

– Phật tính hay Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha) – Ba đặc tính của các hiện tượng (trilaksana) – Tất cả đều là tâm thức (cittamatra) – Tri-thức-căn-bản-của-tất-cả (Alayavijnana)

Nền móng giáo lý của Theravada

nền móng giáo lý của Đại Thừa

(trong các thế kỷ đầu tiên khi mới được hình thành)

nền móng giáo lý của Duy Thức Học, Thiền Học, Kim Cương Thừa

(Đại Thừa nói chung sau thế kỷ thứ III)

– Bản chất của cõi luân hồi (samsara) là khổ đau (dukkha)

– Loại bỏ ảo giác của cái tôi (atman) có nghĩa là niết-bàn (nirvana)

– Cõi luân hồi (samsara) đối nghịch lại với cõi niết-bàn (nirvana)

– Tánh không là bản chất tối hậu của mọi hiện tượng

– Thể dạng viên mãn (tròn đầy) của tánh không.

– Các hình thức cụ thể hóa và thiêng liêng hóa tánh không: bản-thể-của-Phật, Như Lai Tạng, Phật Tính, Chân Như, Hiện Thực, Pháp Thân, Ánh sáng trong suốt, Trí Tuệ của Phật, Mạn-đà-la, v.v…

Kinh điển chính yếu:

Dhammacakka-sutta (Kinh Chuyển Pháp Luân)

Satipatthana-sutta (Kinh Tứ Niệm Xứ)

Dhammapada (Kinh Pháp Cú)

Kinh điển chính yếu:

Shalistamba-sutra (Đạo Can Kinh / Kinh về cọng lúa)

– Prajnaparamita-sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh)

Vimalakirtinirdesha-sutra (Duy-ma-cật Sở Thuyết Kinh)

Kinh điển chính yếu:

Lankavatara-sutra (Nhập Lăng-già Kinh)

Avatamsaka-sutra (Hoa Nghiêm Kinh)

Sandhinirmocana-sutra (Giải thâm mật Kinh)

Mahaparinirvana-sutra (Đại Bát Niết-bàn Kinh)

Bảng liệt kê trên đây cho thấy kinh sách và căn bản giáo huấn của Đức Phật được phân loại và sắp xếp thành ba chu kỳ khá rõ rệt. Các chu kỳ thứ hai và thứ ba cho thấy nhiều nét diễn đạt mới so với giáo huấn căn bản của vòng quay thứ nhất, do đó cũng đã làm phát sinh ra nhiều tông phái và học phái khác nhau. Nếu đứng trên phương diện thuần túy lịch sử thì vòng quay thứ nhất biểu trưng cho căn bản giáo huấn của Đức Phật do chính Đức Phật thuyết giảng khi còn tại thế. Giáo huấn trong hai vòng quay thứ hai và ba gồm những cách diễn đạt mới về Đạo Pháp và một số các khái niệm mới đã được phát sinh sau này song song với sự hình thành và phát triển của Đại Thừa Phật Giáo.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.