Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện – Ch. 11

KARMA PAKSHI (1204-1283) : Vị thứ hai trong dòng các Karmapa tái sanh và được xem là Tulku thứ nhất được nhận biết của Tây Tạng. Tên Pakshi là tiếng Mông Cổ để chỉ “đạo sư,” một tên hiệu sau khi được vua Mông Cổ ban cho một vị trí tôn giáo cao cấp. Trong các đệ tử của ngài có đại thành tựu giả Orgyenpa Rinchen Pal (1230-1309).

KAWA PALTSEK : Đệ tử trực tiếp của cả Padmasambhava và Shantarakshita ; người đóng góp quan trọng vào việc dịch thuật Ba Tạng Tây Tạng và Gyušbum Nyingma. Sinh trong thung lũng Phen, ngài trở thành một dịch giả kiệt xuất ứng với một lời tiên tri của Padmasambhava, và ở trong nhóm bảy nhà sư Tây Tạng đầu tiên được thọ giới bởi Shantarakshita. Ngài nhận giáo lý Kim Cương từ đại sư Padma và đạt được thiên nhãn thông vô ngại. Kawa là tên của một nơi chốn, và Paltsek nghĩa là “Núi Rực Rỡ.”

KAYA : “Thân” trong nghĩa một thân thể có nhiều phẩm chất. Khi nói đến hai thân : Pháp thân (dharmakaya) và Sắc thân (rupakaya). Ba thân là Pháp thân, Báo thân (sambho-gakaya) và Hóa thân (nirmanakaya).

KHANDRO NYINGTIG : Nghĩa là “Tâm Yếu của các Dakini.” Một toàn tập sâu xa về giáo lý Dzogchen được Padmasam-bhava truyền cho công chúa Pema Sal. Nằm trong bộ Nyingtig Yabshi nổi tiếng.

KHENPO : Một danh hiệu dành cho người hoàn thành khóa học chính kéo dài khoảng mười năm về các ngành truyền thống của triết học, luận lý, Luật học Phật giáo… Cũng có thể nói đến vị trụ trì một ngôi chùa hay vị thầy truyền giới luật tỳ kheo.

KHENPO NGAKCHUNG BIỆT HIỆU NGAWANG PAL-SANG (1879-1941) : Một Khenpo ở Katok và một nhà phục hưng rất quan trọng của dòng học giả về kinh điển Dzogchen công truyền. Được xem là tái sanh của cả Vimalamitra và Longchenpa. Chandral Sangye Dorje là một trong những đệ tử cuối cùng còn sống của ngài.

KILAYA : Các tantra về hóa thần Vajra Kilaya.

KIM CƯƠNG TÒA : Chỗ ngồi dưới cây Bồ Đề ở Bồ Đề đạo tràng nơi đức Phật giác ngộ.

KINH MẠCH TRUNG ƯƠNG : Kinh mạch vi tế trung ương ở trong thân thể, chạy từ cuối xương sống đến đỉnh đầu.

KOŠNCHOK CHIDUŠ : “Hiện thân của các bậc quý giá.” Một terma được Jatsošn Nyingpo vĩ đại (1585-1656) khám phá ra, tập trung vào Padmasambhava. Ngài truyền bộ lời dạy này trước tiên cho Dušdušl Dorje (1615-1672). Một số lớn của nguyên tác này đã được dịch ra Anh ngữ bởi Peter Roberts.

KOŠNCHOK JUNGNEY HỌ LANGDRO : Ban đầu là một vị quan trong triều đình của vua Trisong Deutsen. Về sau trở thành một đệ tử thân thiết của Padmasambhava và đạt đến thành tựu. Hai đại Terton Ratna Lingpa (1403-1471) và Longsal Nyingpo (1625-1692) được xem là trong số các tái sanh của ngài. Košnchok Jungney nghĩa là “Nguồn các bậc Quý Giá.”

KRIYA YOGA : Cái thứ nhất của ba tantra ngoại, nhấn mạnh vào sự sạch sẽ và giới hạnh thanh tịnh. Các kinh văn của Kriya Yoga xuất hiện đầu tiên ở Varanasi.

KUNZANG TUKTIG : “Tâm Yếu của Phổ Hiền.” Một tuyển tập các lời dạy Terma do Chokgyur Lingpa khám phá, tập trung nói về các hóa thần từ hòa và hung nộ.

LẠC, SÁNG TỎ VÀ VÔ NIỆM : Ba kinh nghiệm tạm thời của thiền định. Trụ vào chúng sẽ có sự ươm hạt cho sự tái sanh trong ba cõi của sanh tử. Không trụ vào, chúng là sự trang hoàng của ba thân.

LAMA GONGDUŠ : Vòng giáo pháp được khám phá do Sangye Lingpa (1340-1396) gồm 18 bộ, mỗi bộ khoảng 700 trang. Lama Gongduš nghĩa là “hiện thân sự chứng ngộ của Đạo sư.”

LAMA SANGDUŠ : Một terma khám phá bởi Guru Chošwang (1212-1270), một trong những terton sớm nhất và quan trọng nhất. Nó tập trung vào bản thể Guru như hình thức Báo thân của Padmasambhava của mạn đà la năm phần của Toštreng Sal. Lama Sangduš nghĩa là “hiện thân những bí mật của Đạo sư.”

LOKYI CHUNGPA : Một đệ tử thân cận của Padmasambhava, trở thành một dịch giả Phật giáo lúc còn rất trẻ, do đó có tên. Ngài cũng được biết với tên là Khyen-chung Lotsawa “Đứa trẻ Dịch giả.” Trong số các tái sanh về sau là Terton Dušdušl Dorje (1615-1672), Dudjom Lingpa (1835-1903), và đức Dudjom Rinpoche, Jigdrel Yeshe Dorje (1904-1987).

LONGCHENPA BIỆT HIỆU LONGCHEN RABJAM (1308-1363) : Một tái sanh của Công chúa Pema Sal, con của vua Trisong Deutsen. Guru Rinpoche đã trao truyền dòng Dzogchen (tức Khandro Nyingtig) cho bà. Ngài được xem là tác giả quan trọng nhất viết về giáo lý Dzogchen. Công trình của ngài gồm trong Bảy Đại Kho tàng, Tam Bộ và các luận giải trong Nyingtig Yabshi. Nhiều chi tiết về cuộc đời và lời dạy của ngài ở trong cuốn Tâm Phật của Tulku Thondup Rinpoche, nhà xuất bản Snow Lion, 1989. Long-chenpa nghĩa là “Đại Không.”

MACHIG LABDROŠN (1031-1129) : Vị đại sư người nữ ghi lại sự thực hành pháp môn Choš, cắt đứt chấp ngã. Đệ tử và người phối ngẫu của đạo sư Ấn Độ Phadampa Sangye. Machig Labdrošn nghĩa là “Ngọn đèn Mẹ độc nhất của Pháp.”

MAHAYANA : “Đại thừa.” Khi dùng từ “Đại thừa và Tiểu thừa,” thì Đại thừa bao gồm các thừa Tantra trong khi Tiểu thừa gồm các giáo lý cho bậc Thánh Văn và Bích Chi Phật. Hàm ý “đại” hay “tiểu” để chỉ phạm vi nguyện vọng, các phương pháp tu hành và độ sâu của sự thấu hiểu. Trung tâm của thực hành Đại thừa là lời nguyện Bồ tát giải thoát cho tất cả chúng sanh qua phương tiện và trí huệ, đại bi và quán thấu tánh Không. Hai phái lớn của Đại thừa là Duy Tâm và Trung Đạo. Bảy tính cách vĩ đại của Đại thừa được đề cập trong Trang nghiêm các Kinh của Maitreya được Jamgošn Kongtrušl giải thích trong Trí Huệ Toàn Khắp : “Sự vĩ đại tập trung vào kho tàng bao la của giáo lý Đại thừa, sự vĩ đại của các phương tiện thành tựu lợi lạc cho mình và cho người, sự vĩ đại của trí huệ thấu rõ hai vô ngã, sự vĩ đại của tinh tấn chuyên cần trong ba a tăng kỳ kiếp, sự vĩ đại của phương tiện thiện xảo như là không bỏ sanh tử và thị hiện bảy hành động bất thiện của thân và khẩu mà không có phiền não ; sự vĩ đại thành tựu chân thật thập lực, bốn vô úy, những phẩm chất độc nhất của bậc giác ngộ, và sự vĩ đại của hoạt động tự nhiên và không ngừng nghỉ.”

MAHAYOGA : Cái thứ nhất của “Ba Tantra Nội.” Mahayoga trong kinh văn được chia làm hai phần : Phần Tantra và phần Sadhana. Phần Tantra gồm Mười Tám Mahayoga Tantra trong khi phần Sadhana gồm có Tám Giáo Lý Sadhana. Jamgošn Kongtrušl nói trong Kho Tàng Trí Huệ của ngài : “Mahayoga nhấn mạnh vào phương tiện (upaya), giai đoạn phát triển, và cái thấy rằng giải thoát được đạt đến qua sự quen dần với sự quán thấy bản tánh không thể phân chia của nhị đế.” Nhị đế trong Mahayoga là thanh tịnh và bình đẳng – bản tánh thanh tịnh của các uẩn, các đại, và các thành phần của các căn là chư Phật và Bồ tát nam và nữ. Trong cùng lúc đó, mọi sự vật xuất hiện và hiện hữu đều là tánh bình đẳng của tánh Không.

MAMO : Viết tắt của “các hóa thần Mẹ trong thế gian.” Một trong Tám Sadhana. Các hóa thần nữ lưu xuất từ pháp giới nhưng xuất hiện theo các cách phù hợp với hình tướng thế gian qua sự tương liên giữa thế giới thế tục và các kinh mạch, khí và tinh chất trong thân thể chúng ta. Các vị có cả hai phương diện, một tối hậu và một tương đối. Nhân vật chính trong mạn đà la này là Chemchok Heruka, hình tướng hung nộ của Phật Phổ Hiền được gọi là Ngošndzok Gyalpo, Vua của Hoàn Thiện chân thật.

MANDALA : 1/ “Trung tâm và chu vi.” Thường là một hóa thần cùng với môi trường bao quanh của vị ấy. Một mạn đà la là một tượng trưng bằng đồ họa cảnh giới sống động của một hóa thần Mật thừa. 2/ Cúng dường mạn đà la là một cúng dường được quán tưởng như là một toàn bộ vũ trụ, cũng như sự sắp xếp đồ cúng trong nghi lễ Mật thừa.

MANTRA : 1/ Một đồng nghĩa với Kim Cương thừa. 2/ Một tổ hợp các âm thanh tượng trưng và truyền thông bản tánh của một hóa thần, nó dẫn đến sự tịnh hóa và chứng ngộ, ví dụ OM MANI PADME HUNG. Có ba loại mantra chính : guhya mantra, vidya mantra và dharani mantra.

MANTRA BÍ MẬT : Đồng nghĩa với Kim Cương thừa hay giáo lý Tantra. “Guhya” là bí mật, cất dấu và tự ẩn. “Mantra” trong văn cảnh này nghĩa là siêu xuất, tuyệt hảo, đáng tán dương.

MANTRA TINH YẾU (Tâm chú) : Hình thức thu gọn của thần chú của một hóa thần bổn tôn so với thần chú đà ra ni dài ; ví dụ “OM MANI PADME HUNG.”

MANTRIKA : Hành giả của Mantrayana (Mật thừa hay là Kim Cương thừa).

MARA : Ma, ảnh hưởng tà tạo nên những chướng ngại cho thực hành và giác ngộ. Một vị thần có thần lực ở nơi cao nhất của Dục giới, bậc thầy của ảo hóa đã tìm cách ngăn cản đức Phật thành đạo ở Bồ đề đạo tràng. Với người thực hành Pháp, Ma tượng trưng cho sự chấp ngã và sự bận rộn với tám mối quan tâm thuộc thế gian. Tổng quát có bốn loại Ma ngăn cản người tu : phiền não ma, tử ma, ngũ ấm ma và thiên ma. Đôi khi bốn loại Ma được đề cập bằng tên : Tử Thần, Con của Tử thần, Phiền não và Ngũ Ấm.

MILAREPA (1040-1123) : Một trong những thiền giả và thi sĩ nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Nhiều giáo lý của phái Karma Kagyuš truyền qua ngài. Để có nhiều chi tiết hơn, xin đọc Cuộc đời của Milarepa và Một Trăm Ngàn Bài Ca của Milarepa (Nhà xuất bản Shambhala). Tên ngài nghĩa là “Mila áo vải.”

MƯỜI HOẠT ĐỘNG TÂM LINH : Chép kinh điển, cúng dường, bố thí, nghe thuyết pháp, ghi nhớ, đọc, trình bày, tụng, tư duy và tu hành nghĩa của Pháp.

MƯỜI CHỦ ĐỀ CỦA TANTRA : Cái thấy, hạnh, mạn đà la, truyền pháp, samaya, hoạt động, thành tựu, định, dâng cúng puja, thần chú và ấn. Đây là mười phương diện của con đường của một hành giả Mật thừa, cũng là mười chủ đề căn bản.

NADI : Các kinh mạch trong thân kim cương qua chúng các dòng năng lực chuyển động.

NAMKHAI NYINGPO HỌ NUB : Sinh ở quận Nyal Hạ, ngài là một trong những người Tây Tạng đầu tiên thọ giới tỳ kheo. Một đệ tử dịch giả, ngài du hành qua Ấn ở đó nhận được sự truyền pháp từ Hungkara và đạt được thân của trí huệ bất nhị. Namkhai Nyingpo cũng được kể trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Nhận được sự trao truyền của Guru, ngài có thể bay theo những tia mặt trời. Khi thiền định trong Hang Dài Rực Rỡ ở Lhodrak, ngài có những linh kiến về nhiều yidam và đạt đến mức độ vidyahara của Đại Ấn. Cuối cùng ngài ra đi đến những cõi trời mà không để lại thân xác. Namkhai Nyingpo nghĩa là “Tinh Túy của Không Gian.”

NĂM TERTON GIỐNG NHƯ VUA : Một danh sách gồm Năm Terton Vua là : Nyang Ral Nyima OŠzer (1124-1192), Guru Choškyi Wangchuk (1212-1270), Dorje Lingpa (1346-1405), Pema Lingpa (1445/50-1521) và (Padma OŠsel) Do-ngak Lingpa (Jamyang Khyentse Wangpo) (1820-1892). Đôi khi danh sách còn gồm đại Terton Rigdzin Gošdem (1337-1408).

NĂM CON ĐƯỜNG : Năm con đường hay năm cấp bậc trên đường giác ngộ : con đường tích lũy, tham gia, thấy, tu tập, và hoàn thành hay không học hỏi nữa.

NĂM ĐỘC : Tham, sân, si, mạn, ganh ghét.

NANAM YESHE : Còn được biết với tên là Bandey Yeshe Dey họ Shang. Một dịch giả nhiều tác phẩm với hơn 200 bản văn và là một đệ tử của Padmasambhava. Tu sĩ học rộng và thành tựu này một hôm biểu hiện những thần thông đã đạt được qua sự lão luyện Vajra Kilaya, bằng cách bốc lên trời như một con chim. Yeshe nghĩa là “Giác bổn nguyên.”

NÂNG CẤP, TĂNG TIẾN : Các loại thực hành khác nhau với mục đích làm vững vàng “quán.” Theo Tulku Urgyen Rin-poche, sự thực hành nâng cấp chính yếu là trau dồi sùng mộ và đại bi.

NGƯỜI NẮM GIỮ CHÀY KIM CƯƠNG : 1/ Danh hiệu tôn kính để dành cho một vị thầy thành tựu. 2/ Trạng thái giác ngộ.

NIRMANAKAYA : Hóa thân, “sự xuất hiện huyễn hóa.” Cái thứ ba trong ba thân. Phương diện giác ngộ mà người bình thường có thể tri giác được.

NÚI HUY HOÀNG Ở CHAMARA / NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG ĐỎ : Xứ sở tịnh độ của Guru Rinpoche trên tiểu lục địa Chamara phía đông nam của đại lục Jambu (Diêm Phù). Chamara là đảo chính trong chín đảo do loài raksha dã man ở. Ở giữa Chamara có một ngọn núi nguy nga màu đỏ cao ngất trời. Trên đỉnh núi là cung điện thần biến Ánh Sáng Hoa Sen, xuất hiện từ sự biểu lộ tự nhiên của tánh Giác bổn nguyên. Đức Padmasambhava ở tại đây trong một thân bất diệt siêu việt sống chết, trường tồn ngày nào sanh tử vẫn còn và qua đó, ngài không ngừng mang lại lợi lạc cho chúng sanh qua các hóa thân thần biến của thân, ngữ và tâm của ngài.

NÚI TU DI VÀ BỐN CHÂU : Ngọn núi huyền thoại vĩ đại ở trung tâm của hệ thống thế giới chúng ta, bao quanh bởi bốn châu lục, nơi đó hai loài thấp nhất của chư Thiên cõi Dục giới sống. Nó bao quanh bởi các dãy núi thấp hơn, các hồ, các lục địa và đại dương nhô lên khỏi mặt biển 84.000 lý (lý : ba dặm Anh). Thế giới chúng ta đang sống nằm trên châu lục phía Nam gọi là Jambudvipa (Nam Thiệm Bộ Châu).

NÚT NADI : Đôi khi tương đương với luân xa, một chỗ tiếp hợp chính hay điểm giao nhau của các kinh mạch. Đôi khi là một chỗ bế tắc vi tế cần phải cởi mở nhờ các thực hành yoga.

NYANG RAL NYIMA OŠZER (1124-1192) : Vị thứ nhất của năm Terton Vua và là một tái sanh của vua Trisong Deutsen. Một số kho tàng do ngài khám phá được gồm Rinchen Terdzoš, trong đó nổi tiếng nhất là Kagye Deshek Dušpa, một bộ các giáo lý nhắm vào Giáo lý Tám Sadhana, và tiểu sử của Guru Rinpoche gọi là Sanglingma hiện giờ đã xuất bản là Liên Hoa Sanh (Shambhala). Nyang Ral nghĩa là “Người trang sức từ Nyang” và Nyima OŠzer nghĩa là “Tia Sáng Mặt Trời.”

NYINGTIG YABZHI : Một trong những tuyển tập nổi tiếng nhất của kinh điển Dzogchen. Vimalamitra kết hợp hai phương diện của Phần Thậm Thâm Vô Thượng – dòng giải thích với kinh điển và dòng nghe khẩu truyền không kinh điển – và cất dấu chúng để rồi được khám phá như là giáo lý Nyingtig Vima Nyingtig, và cũng như là Tâm Yếu Bí Mật của Vimalamitra. Longchenpa minh giải chúng trong 51 đoạn của Lama Yangtig. Padmakara cất dấu lời dạy của ngài về Vòng Thậm Thâm Vô Thượng và sau này được khám phá như là Khandro Nyingtig, Tâm Yếu của các Dakini. Longchenpa cũng minh giải các lời dạy này trong bộ Khandro Nyingtig của ngài. Bốn bộ đặc biệt về giáo lý Dzogchen này, cùng với lời dạy thêm của Longchenpa là Zabmo Yangtig, gồm lại trong tuyển tập của ngài, tức là tuyển tậïp Nyingtig Yabzhi.

PALGYI DORJE HỌ LHALUNG : Sinh ở Drom Thượng, ngài phục vụ như một người canh biên giới nhưng có tâm từ bỏ và cùng với hai anh nhận truyền giới xuất gia từ Vimalamitra. Ngài nhận Bồ tát nguyện từ Padmasambhava cũng như sự truyền pháp và lời dạy miệng. Ngài thiền định ở Hẻm Núi Trắng xứ Tsib và ở Yerpa, ở đó ngài đạt thành tựu có thể đi xuyên qua đá núi. Những năm sau ngài ám sát vị vua ác Langdarma. Palgyi Dorje nghĩa là “Kim Cương Rực Rỡ.”

PALGYI SENGE HỌ LANG : Cha ngài là Amey Jangchub Drekhošl, một mantrika thần lực đủ để sử dụng tám loại thần và quỷ như những người giúp việc. Ngài là một trong tám đại đệ tử của Padmasambhava khi pháp quán đảnh “Hội Chư Như Lai” được ban cho. Ngài đạt cả hai sự thành tựu thông thường và tối thượng ở Paro Taktsang qua sự thực hành pháp môn “Thuần hóa mọi Hồn Linh Kiêu Ngạo.” Các Rinpoche Dzogchen được xem như các tái sanh của ngài. Palgyi Senge nghĩa là “Sư Tử Vinh Quang.”

PALGYI SENGE HỌ SHUBU : Một trong các quan của vua Trisong Deutsen, trong những sứ giả được gởi đi để mời Padmasambhava đến Tây Tạng. Ngài học dịch thuật từ Guru Padma và dịch nhiều giáo lý Mamo, Yamantaka và Kilaya sang tiếng Tây Tạng. Đã đạt được nhiều thành tựu với Mamo và Kilaya, ngài có thể chẻ đá cuội và tách dòng sông bằng con dao găm của mình. Các tái sanh của ngài có đại Terton Mingyur Dorje của truyền thống Nam-choš. Palgyi Senge nghĩa là “Sư Tử Vinh Quang.”

PALGYI WANGCHUK HỌ KHARCHEN : Trong tiểu sử Sanglingma ngài là cha của Yeshe Tsogyal ; chỗ khác ngài được xem là anh của bà, một đệ tử thân cận của Padmasambhava đạt đến siddhi qua sự thực hành Vajra Kilaya. Palgyi Wangchuk nghĩa là “Bậc Rạng Rỡ.”

PALGYI WANGCHUK HỌ O-DREN : Một đại học giả và mantrika, đạt được thành tựu qua sự thực hành Guru Drakpo, phương diện hung nộ của Padmasambhava.

PALGYI YESHE HỌ SOGPO : Đệ tử của Padmasambhava và Jnana Kumara họ Nyag. Palgyi Yeshe nghĩa là “Trí Huệ Rực Rỡ.”

PANDITA (pháp sư) : Một vị thầy học rộng, học giả hay giáo sư triết học Phật giáo.

PARAMITA (Ba la mật đa) : Nghĩa đen là “qua đến bờ bên kia.” Đặc biệt, nó có nghĩa là siêu việt khỏi các ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động. Thừa Paramita là hệ thống Đại thừa của con đường tiệm tiến qua năm đường và mười địa theo kinh điển Bát Nhã ba la mật đa. Xem thêm “Sáu Ba la mật.”

PEMA LEDREL TSAL (1291-1315) : Tái sanh của Pema Sal, con gái của vua Trisong Deutsen. Người khám phá các giáo lý Dzogchen của Guru Rinpoche nổi danh với tên là Khandro Nyingtig. Sự tái sanh trực tiếp của ngài là Long-chenpa. Pema Ledrel Tsal nghĩa là “Sức mạnh Hoa Sen của Chuỗi Nghiệp.”

PEMA SAL, CÔNG CHÚA : Con của vua Trisong Deutsen. Padmasambhava đã trao cho bà dòng Đại Toàn Thiện có tên là Khandro Nyingtig. Cô chết lúc trẻ tuổi, sau đó Padmasambhava đã làm bà sống lại. Khi cha cô hỏi tại sao một người có phước lớn vừa là công chúa vừa là đệ tử của đạo sư Liên Hoa Sanh lại phải chết lúc còn thiếu niên, Padmasambhava kể lại câu chuyện cô đã là một con ong chích một trong bốn anh em trong thời gian hoàn thành Đại Tháp Boudhanath. Pema Sal nghĩa là “Hoa Sen Rạng Rỡ.”

PHÁP GIỚI (Dharmadhatu) : ‘Vũ trụ hiện tượng’ ; tánh Như trong đó tánh Không và duyên sanh không tách lìa nhau. Bản tánh của tâm và hiện tượng vượt khỏi sanh, trụ, diệt.

PHÁP TÁNH (Dharmata) : Bản tánh bổn nhiên của tâm và hiện tượng.

PHÁP THÂN (Dharmakaya) : Cái đầu tiên của ba thân, không có bất kỳ tạo tác nào, như hư không. “Thân” của những phẩm tính giác ngộ. Cần được hiểu một cách phân biệt theo nền tảng, con đường và quả.

PHÁT TRIỂN VÀ THÀNH TỰU : Hai phương diện chính, “phương tiện và trí huệ” của thực hành Kim Cương thừa. Xác định ngắn gọn, giai đoạn phát triển nghĩa là sự tạo tác tích cực của tâm thức trong khi giai đoạn thành tựu nghĩa là an trụ trong bản tánh không tạo tác của tâm. Cốt tủy của giai đoạn phát triển là “tri giác thuần túy” hay “cái nhìn linh thiêng,” nghĩa là tri giác cảnh quan, âm thanh và tư tưởng như là hóa thần, thần chú và trí huệ. “Giai đoạn thành tựu với hình tướng,” nghĩa là các thực hành yoga như là tummo, nội nhiệt. “Giai đoạn thành tựu không hình tướng” là sự thực hành Đại Toàn Thiện hay Đại Ấn.

PHẬT TÁNH : Sự giác ngộ toàn diện và tròn đủ không trụ trong sanh tử lẫn Niết bàn ; trạng thái đã hết mọi vô minh, cùng với trí huệ nhìn thấu bản tánh của sự vật như chúng là và trí huệ thấu hiểu mọi hiện hữu.

PHIỀN NÃO : Năm độc tham, sân, si, mạn và ganh ghét. Chúng trói buộc, làm phiền nhiễu, và tra tấn tâm người. Sự kéo dài của các phiền não này là một trong những nguyên nhân chính của sanh tử luân hồi.

PHƯƠNG TIỆN VÀ TRÍ HUỆ : Phật tánh được đạt đến qua sự kết hợp thống nhất các phương tiện và trí huệ. Trong Đại thừa, đó là sự thống nhất của Đại Bi và Tánh Không, của Bồ đề tâm tương đối và Bồ đề tâm tuyệt đối. Trong Kim Cương thừa, phương tiện và trí huệ là các giai đoạn phát triển và thành tựu. Theo các phái Kagyu, phương tiện đặc biệt để chỉ cho “con đường phương tiện” là sáu Giáo Pháp của Naropa và trí huệ là “con đường giải thoát,” tức là sự thực hành hiện thực về Đại Ấn Mahamudra. Theo Dzogchen, “trí huệ” là cái thấy về tính thanh tịnh bổn nhiên, tức là sự thực hành Trekchoš để thực chứng cái tâm của giác ngộ trong một khoảnh khắc hiện tại, trong khi “phương tiện” là sự thiền định của cái hiện tiền tự nhiên bổn hữu, tức là sự thực hành Tošgal để làm sạch hết nhiễm ô phiền não và an trụ qua đó thân cầu vồng được thực chứng trong nội một đời.

QUẢ : Kết quả, thường là sự chấm dứt của một con đường tâm linh. Một trong ba mức độ giác ngộ của một Thanh Văn, Bích Chi Phật hay Bồ tát. Trong Đại thừa là trạng thái Phật tánh hoàn toàn và tròn đủ ; trong Kim Cương thừa là “trạng thái thống nhất của một Kim Cương trì,” trong sách này diễn tả như “25 thuộc tính của quả.” Xem “cái thấy, thiền định, hành và quả.”

QUANG MINH (od gsal) : Nghĩa đen là “thoát khỏi bóng tối vô minh và có khả năng thông tỏ, hiểu biết.” Hai phương diện ấy là “quang minh trống không,” như bầu trời trong rộng mở, nó có tính chất thông tỏ của bản tánh của tâm ; và “quang minh biểu lộ,” như là ánh sáng năm sắc, hình ảnh vân vân. Quang minh là bản tánh không trộn lẫn hiện diện khắp suốt mọi sanh tử và Niết Bàn.

RANGNANG / KINH NGHIỆM CÁ NHÂN : để biểu trưng cho kinh nghiệm giấc mơ, từ này đôi khi được dịch là “sự phóng ảnh của cá nhân,” hay “tự biến.”

RIGDZIN GOŠDEM (1337-1408) : Nhà khám phá kho tàng vĩ đại của truyền thống Jangter. Trong các terma của ngài có các giáo lý Dzogchen Kadag Rangjung Rangshar và tác phẩm nổi tiếng Gongpa Santal. Năm lên 12 tuổi, ba lông chim kên kên mọc trên đầu, và thêm năm cái nữa vào lúc 24 tuổi. Ngài ra đi năm 71 tuổi giữa những dấu hiệu kỳ diệu. Rigdzin Gošdem nghĩa là “Vidyadhara Lông chim Kên Kên.”

RINCHEN CHOK HỌ MA : Dịch giả Tây Tạng sơ thời, trong bảy tu sĩ Tây Tạng đầu tiên thọ giới với Shantarakshita và là người nhận chính yếu pháp môn Mạng Lưới Huyễn Hóa của Mahayoga. Ngài được biết đã dịch Tinh Túy của các Bí Mật Guhyasamaja Tantra ; tantra chính yếu của Mahayoga. Qua các lời chỉ dạy nhận từ Padmasambhava, ngài đạt đến mức độ của một vidyadhara. Rinchen Chok nghĩa là “Ngọc Cao Cả.”

RINCHEN TERDZOŠ : “Kho tàng lớn các Terma quý giá,” một trọn bộ các terma quan trọng nhất của Padmasambhava, Vimalamitra, Vairochana và các đệ tử thân thiết nhất của các ngài, gom lại bởi Jamgošn Kongtrušl Lošdroš Thaye với sự cộng tác của Jamyang Khyentse Wangpo. Xuất bản thành 63 bộ bởi Đức Dilgo Khyentse Rinpoche, New Delhi, có thêm vài bộ terma và chú giải. Khakyab Dorje, vị Kamarpa thứ mười lăm, nói về nó bằng những lời sau : “ ‘Kho tàng lớn các Terma quý giá’ là tinh túy của đại dương giáo lý của chư Phật, tạng Vidyadhara thâm sâu của Trường phái Dịch thuật Sơ thời.”

RONGZOMA (1012-1088) : Pháp sư Rongzom, Choškyi Sangpo. Cùng với Longchenpa, ngài được xem là học giả Nyingma lỗi lạc sáng chói nhất.

SADHANA : “Các phương tiện của thành tựu.” Nghi thức và thủ tục Mật thừa để thực hành, thường nhấn mạnh giai đoạn phát triển. Kết cấu tiêu biểu của sadhana gồm một phần sơ khởi với quy y, phát Bồ đề tâm, phần chính có quán tưởng một vị Phật và trì chú, và một phần kết với hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh.

SAMADHI (định) : “Gắn liền với sự tương tục của bình thản.” Một trạng thái tập trung không phóng tâm hay sự đắm mình trầm tư mà trong bối cảnh Kim Cương thừa có thể ám chỉ đến hoặc giai đoạn phát triển hoặc giai đoạn thành tựu.

SAMANTABHADRA (Phổ Hiền) : “Bậc mãi mãi trọn hảo.” 1/ Phật Pháp thân nguyên thủy. 2/ Bồ tát Phổ Hiền là gương tiêu biểu cho sự thành tựu của một sự cúng dường triển khai đến vô hạn.

SAMAYA : Các cam kết hứa hẹn, các điều luật hay cam đoan của thực hành Kim Cương thừa. Chính yếu, các samaya về bên ngoài cốt ở duy trì một mối liên quan hòa hợp với đạo sư kim cương và các bạn Pháp và bên trong không đi lạc ra ngoài sự liên tục hành trì. Cuối của mỗi chương, chữ “samaya” đứng riêng là một lời thề xác nhận rằng điều được nói là sự thật.

SAMBHOGAKAYA : “Báo thân.” “Thân của sự hưởng thụ hoàn mãn.” Trong bối cảnh của “năm thân của Quả,” báo thân là hình thức biểu lộ phần nửa của chư Phật cùng với “năm sự hoàn hảo” là đạo sư, tùy tùng, nơi chốn, giáo huấn và thời gian mà chỉ bậc Bồ tát địa thứ mười mới có thể tri giác.

SAMYE : Một tổ hợp chùa chiền kỳ diệu, làm theo kiểu tu viện Ấn Độ Odantapuri, xây dựng bởi vua Trisong Deutsen (790-844) và được Guru Rinpoche khánh thành năm 814. Một trung tâm chính của sự truyền bá đạo Phật ở Tây Tạng lúc sơ thời. Nó nằm ở miền Trung Tây Tạng gần Lhasa. Nó cũng có tên Ngôi Chùa Samye Rực Rỡ, sự Thành Tựu Tự Nhiên và Bất Biến của những Nguyện Vọng Vô Biên. Ba tầng của nó được vẽ theo các kiểu thứ tự là Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng.

SAMYE CHIMPHU : Một nơi thiêng liêng thuộc ngữ của Guru Padma. Một chỗ ẩn cư trên núi nằm cách Samye bốn giờ đi bộ phía trên Samye. Trong 12 thế kỷ qua nhiều đại sư đã thiền định trong các hang động của chỗ ẩn cư này.

SANGYE LINGPA (1340-1396) : Một tái sanh của người con trai thứ hai của vua Trisong Deutsen ; một Terton chính và là người khám phá vòng Lama Gondu gồm 13 bộ. Sangye Lingpa nghĩa là “Điện thờ của Giác Ngộ.”

SANGYE YESHE HỌ NUB : Một trong hai mươi lăm đệ tử của Padmasambhava, ngài là người thọ nhận chính các giáo lý Annu Yoga, Yamantaka của Mahayoga. Các vị thầy khác của ngài là Traktung Nagpo và Chogyal Kyong của Ấn Độ, Vasudhara của Nepal, và Chetsen Kye từ xứ Drusha. Ngài viếng thăm Ấn Độ và Nepal bảy lần. Khi hôn quân Langdarma định phá hủy Phật giáo ở Tây Tạng, Sangye Yeshe làm vua kinh hãi bằng cách làm hiện ra một con bò cạp khổng lồ dài bằng chín con trâu yak chỉ bằng một cử động đơn giản của bàn tay phải. Vì thế, Langdarma không còn can đảm để ngược đãi Tăng già Kim Cương thừa. Tulku Urgyen được xem là một trong những tái sanh của ngài. Sangye Yeshe nghĩa là “Trí Huệ Phật.”

SÁU GIỚI HẠN : Những quan điểm về quyền nghĩa và thực nghĩa, ngụ ý và không ngụ ý, nghĩa đen và không phải nghĩa đen. Cùng với “bốn cách kiểu,” chúng tạo thành các chìa khóa cần thiết để mở ra ý nghĩa của các tantra.

SÁU LOÀI CHÚNG SANH : Trời, một nửa Trời (A tu la), người, thú vật, ngạ quỷ và địa ngục.

SÁU SIÊU TRI GIÁC : Những khả năng làm các phép lạ, thiên nhãn, thiên nhĩ, nhớ các kiếp trước, biết tâm của người khác, và biết sự tận diệt của phiền não nhiễm ô. (thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông và lậu tậïn thông).

SẮC GIỚI : Mười bảy cõi trời nằm trong sanh tử gồm mười hai cõi của Bốn Thiền (mỗi Thiền ba cõi) và năm Tịnh Cư Thiên. Một trạng thái vi tế của sanh tử giữa cõi Dục và cõi Vô sắc, ở đó các cảm giác ngửi, nếm và tình dục vắng mặt. Các chúng sanh có thân thể bằng ánh sáng, sống lâu và không có cảm giác đau đớn. Các yếu tố xấu của tâm thức như là bám chấp không thể sinh ra.

SHAMATHA : “an trụ trong tĩnh lặng,” Chỉ so với Quán, sau khi hoạt động của tư tưởng đã lắng yên. Hay là sự thực hành thiền định để làm yên lặng tâm thức với mục đích thoát khỏi sự quấy nhiễu của tư tưởng.

SƠ KHỞI : Các sơ khởi tổng quát bên ngoài là Bốn Hồi Tâm : suy nghĩ về thân người quý giá, vô thường và chết, nhân quả của nghiệp, và lỗi lầm của sanh tử. Các sơ khởi đặc biệt bên trong là Một Trăm Ngàn Bốn Thời Thực Hành về quy y và phát Bồ đề tâm, trì tụng Vajrasattva, cúng dường Mạn đà la, và guru yoga. Xem Ngọn đuốc của Xác Chứng (N. X. B Shambhala) và Cửa Lớn (N. X. B Ranjung Yeshe).

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.