Sự Tích Niệm Phật Vãng Sinh Của Cư Sĩ Lạc Toàn Thông

Hiếu Cảm Thiên Địa. Tấm Lòng Con Gái

I. Duyên Khởi.

Pháp sư Tịnh Không nói: “Phật pháp chẳng phải tôn giáo, chẳng phải triết học mà là sự giáo dục tột cùng viên mãn của Đức Phật đối với chúng sinh trong chín pháp giới. Đây là sự thật căn bản mà đệ tử Phật cần phải nhận rõ trước tiên”. Tiên phụ có thể vãng sinh cõi Tây phương, một đời bất thoái thành Phật, thật sự đã được sự trợ duyên ở hai phương diện:

Một là được sự giáo hóa từ bi khế lý, khế cơ của pháp sư Tịnh Không; hai là nhờ quyển sách “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật?”, nói rõ về tình huống lúc lâm chung. Và sự giải bày trong quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến văn ký”, thuật rõ quá trình vãng sinh của Bồ-tát; sự khai thị của cư sĩ Hòa Liêu v.v… đều là những tăng thượng duyên cho việc vãng sinh của tiên phụ.

Pháp sư Tịnh Không thương xót chúng sinh, đã mấy mươi năm ngài dùng phương tiện thiện xảo, giảng kinh thuyết pháp lợi ích chúng sinh. Nhất là những năm tuổi xế chiều, ngài chuyên hoằng dương kinh điển Tịnh Độ. Ở trong nước hay ngoài nước, ngài đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà, khuyên người thật tâm niệm Phật. Dù cho có tuyên giảng những kinh điển đại thừa khác, ngài vẫn từng câu từng câu tán thán kinh A-di-đà, nơi nơi đều hướng dẫn người quay về Cực Lạc. Pháp sư đã từng nêu ví dụ của đại sư Thiện Đạo: “Cho dù Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện thân trở lại, bảo với chúng tôi còn có một pháp môn khác thù thắng hơn pháp môn Trì danh niệm Phật, có thể thành tựu ngay hiện đời, chúng tôi cũng phải chắp tay cung kính cảm ơn ý tốt của Ngài. Đồng thời nói rõ chúng tôi đang chuyên tu pháp môn Trì danh niệm Phật, hoàn toàn có thể một đời bất thoái thành Phật. Đối với pháp môn Trì danh niệm Phật đây, không hề có pháp môn nào thù thắng hơn, cần có lòng tin như thế”.

Pháp sư lại nói: “Chỉ có cầu sinh Tịnh Độ mới là thật sự báo đáp ân Phật, thật sự làm tròn đại hiếu”. Tiên phụ có thể hôm nay đã giải thoát sinh tử, vãng sinh Tịnh Độ, đã không uổng phí công giáo hóa chân thành của pháp sư.

Hai quyển sách, quyển “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” và quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến văn ký”[41] là tài liệu tham khảo quan trọng, đúng như lý, như pháp cho người trợ niệm, trong quyển “Kiến, văn, ký” của cư sĩ Liêu, thuật rõ quá trình vãng sinh của Bồ-tát, đó là người niệm Phật giới thiệu cha mẹ mình niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ và là ngọn đèn sáng chỉ dẫn trợ niệm cho cha mẹ lúc lâm chung. Nhờ cư sĩ Liêu nhiều lần đích thân đến đạo tràng hướng dẫn trợ niệm, có sự giúp đỡ rất lớn đối với sự vãng sinh của tiên phụ.

Sự tích tiên phụ niệm Phật vãng sinh, thật là sự minh chứng chân thật của tiến trình “Phát lồ sám hối” và “Thật tâm niệm Phật”. Được cư sĩ Liêu khích lệ viết thành văn, vì để báo ân Phật, báo đáp ân đức từ bi giáo hóa của pháp sư Tịnh Không, đệ tử hổ thẹn, cung kính ghi thuật lại tình huống chân thật trước và sau khi tiên phụ vãng sinh; mong rằng có thể giúp cho bốn chúng[42] đồng tu, thiết lập được niềm tin sâu, nguyện thiết đối với pháp môn Trì danh niệm Phật và có thể từng câu thánh hiệu Di-đà, mỗi niệm về cõi Tây phương, đầy đủ hành trang vượt qua sáu đường, thoát khỏi mười pháp giới, trọn đời này viên thành quả Phật vô thượng.

Kính ghi:

Đệ tử hổ thẹn, Ông Nghê đau lòng kính thuật.

Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển, ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đản sinh, năm Mậu Dần (1998).

II. Ký Thật[43].

– Nam-mô A-di-đà Phật!

– Thưa các vị thiện tri thức, tiên phụ thế danh Lạc Toàn Thông, pháp danh Diệu Âm, hưởng thọ 78 tuổi, cả đời làm công chức. Trước khi về hưu, ông giữ chức vụ Trưởng phòng nhân sự Sở vệ sinh của chính phủ tỉnh và ngụ ở ký túc xá công nhân viên của chính phủ tỉnh.
1. Cuộc sống của phụ thân sau khi về hưu.

Phụ thân là nhân viên nhà nước, thuở còn sống, ai dạy gì ông cũng không tin. Năm 1985, sau khi về hưu, phần lớn ông đều ở trong nhà, ít khi ra ngoài. Một lần nọ, chân phải của ông bị viêm đỏ một vùng như tổ ong, từ bắp vế đến bàn chân đều sưng phù rất nghiêm trọng. Sau đó, ông đến Tổng y viện Vinh Dân để phẫu thuật, khoét bỏ phần thịt ở đùi bị thối rữa, rồi lấy phần da nguyên ở bộ phận khác đắp vá lên đùi. Bác sĩ nói: “May mà ông phát hiện sớm, kịp thời đến bệnh viện, nếu không thì cái chân này có thể sẽ phải cưa bỏ, mới có thể bảo vệ mạng sống”.

Một hôm, ông cho những đứa con của tôi xem bắp chân của mình sau khi mổ, tôi trông thấy thật đau lòng! Lúc đó, tôi đã tiếp xúc Phật pháp, đã xem rất nhiều câu chuyện nhân quả báo ứng, nên tôi có lòng tin sâu sắc không nghi ngờ gì đối với sự báo ứng của nhân quả. Trước mắt, bắp chân của cha tôi, giống như chân gà, khiến tôi liên tưởng đến lúc nhỏ, cha thường hầm chân gà cho chúng tôi ăn. Mỗi lần ăn, cha đều làm một nồi to. Bấy giờ, tôi còn nhỏ dại, cũng thường vây quanh nhà bếp nghe mùi thơm mà thèm rỏ dãi. Nào ngờ, quả báo hiện tiền của cái “bụng tham ăn”. Cuối cùng lại báo ứng trên chân của cha tôi, quả thật khiến người ta đau lòng, hổ thẹn, cũng khiến tôi cảm thấy nhân quả thật đáng sợ.

Sau khi cha nghỉ hưu, chính phủ mở ra chính sách thăm viếng họ hàng ở Đại lục. Tuy ông cũng rất nhớ cha mẹ ở Đại lục nhưng không liên hệ được bạn bè ở đó và cũng chưa từng được trở về quê hương thăm viếng. Một phần vì sự đi đứng của cha đã không còn thuận tiện, mặt khác vì số tiền nghỉ hưu dùng trị liệu cho cái chân phải đã hết sạch, không còn cách nào trở về thăm viếng họ hàng một cách rỡ ràng. Vì vậy, cha tôi buồn bực lặng lẽ một mình. Tóm lại, cuộc sống sau khi nghỉ hưu của cha hoàn toàn không được như ý. Trong tâm ông vẫn còn một chút tiếc nuối.
2. Nhân duyên Tiên phụ tiếp xúc Phật pháp và tình hình niệm Phật hằng ngày của ông:

Lần thứ nhất, tôi tiếp xúc Phật pháp là do người hàng xóm, (bảo mẫu của con trai) tặng tôi một cuộn băng ghi âm truyền thụ Tam quy mà pháp sư Tịnh Không giảng giải.

Trước giờ tôi chưa hề tiếp xúc Phật pháp thì đâu có sách vở liên quan đến Phật học, cũng chưa hề nghe qua Sư phụ hoặc cư sĩ giảng kinh. Khi được nghe cuộn băng “truyền thụ Tam quy” này, lòng tôi rất vui vẻ, nghe đi nghe lại biết bao lần, vì nội dung của nó, thực sự rất khoa học, rất hợp lý. Từ trong cuộn băng này, tôi quả thực nhận thức được bản chất của Phật pháp là giáo dục, chứ không phải là tôn giáo. Tuy tôi đã nghe rất nhiều lần, lòng rất hoan hỷ song vì vẫn còn nhiều nghi ngờ nên không dám mạo muội học Phật. Tôi liền thỉnh giáo người hàng xóm, người ấy trả lời: “Trí huệ của tôi kém cỏi, không cách nào giải đáp câu hỏi của chị. Tôi sẽ đưa chị đến thư viện Hoa Tạng, Sư phụ ở đó trí huệ khá cao, có thể giải đáp cho chị”.

Cuối năm 1993, tôi và người hàng xóm cùng đến thư viện Phật giáo Hoa Tạng nghe sư phụ giảng kinh, chúng tôi đến sớm hơn nửa tiếng đồng hồ, đúng lúc sư phụ rảnh rỗi, người hàng xóm liền đưa tôi đến thỉnh giáo ông.

Sư phụ trả lời tôi: “Học Phật không nhất định phải ăn chay, cũng không cần chạy đến Đạo tràng”. (Sau đó, nhân tiếp xúc được tin tức y học gần đây, tôi đã hiểu rõ ăn chay đối với sức khỏe, có được lợi ích tuyệt đối, nhờ đó con cái lớn nhỏ cả nhà tôi đều tự nhiên đổi lại ăn chay). Ngài còn nói: “Hiếu thuận với cha mẹ, ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất không cho thiếu thốn cũng phải bố thí tạo công đức cho cha mẹ, khiến cho cha mẹ có được lợi ích chân thật”. Ngay hôm đó, pháp sư còn tặng tôi tám cuộn băng “Lời khai thị Phật thất của pháp sư Đàm Hư”, “Nhận thức Phật giáo”, “kinh Phật thuyết thanh tịnh tâm”. v.v … và một quyển kinh Vô Lượng Thọ. Đồng thời, ngài bảo tôi: “Quyển kinh Vô Lượng Thọ này, cô trở về nhà đọc ba nghìn biến, công đức của ba nghìn biến viên mãn, có thể giúp cô giải quyết được vấn đề của cha mẹ mình”.

Sau khi trở về nhà, tôi đã nghe những cuộn băng này rất nhiều lần. Nhất là cuộn băng “Lời khai thị Phật thất của pháp sư Đàm Hư” đã gợi mở cho tôi tin sâu pháp môn Trì danh niệm Phật, có sự giúp đỡ rất lớn đối với tôi. Ban đầu, tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ, một biến khoảng một tiếng rưỡi, sau đó chỉ cần khoảng bốn mươi đến bốn mươi lăm phút là xong một biến. Vì sư phụ nói phải đủ ba nghìn biến thì đối với cha mẹ mới có lợi ích trọn vẹn. Mỗi ngày, nếu tôi chỉ đọc một biến thì phải mất thời gian mười năm. Đương thời phụ thân đã hơn bảy mươi tuổi, mẫu thân đã hơn sáu mươi tuổi, biết hai người có chờ đợi đến mười năm không? Tôi không dám nói. Nếu như mỗi ngày tôi đọc ba biến, thì ba năm có thể viên mãn. Tôi nghĩ cha mẹ tôi sẽ còn cơ hội. Thế là, mỗi ngày tôi đọc theo ba bữa ăn. Trong quá trình đọc tụng, tôi dần dần thể hội được, hoàn toàn chẳng phải là đọc tụng ba nghìn biến kinh Vô Lượng Thọ thì cha mẹ tôi sẽ không xảy ra việc gì, mà là trong quá trình đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, tư tưởng và hành vi của mình đã có sự thay đổi, mới có trí huệ giải quyết vấn đề của cha mẹ. Để đặt nền tảng cho việc học Phật, năm 1996, tôi lại trì tụng trọn vẹn ba nghìn biến “Liễu Phàm Tứ Huấn”. Tôi phát hiện ra trong phương diện đoạn trừ phiền não, xác thực có được lợi ích khá lớn.

Do nghe cuộn băng giảng của pháp sư Tịnh Không mà pháp hỷ sung mãn, tôi cũng phát hiện Phật pháp thật sự có thể giải quyết được tất cả những vấn đề lớn nhỏ trong cuộc sống. Vì vậy, hầu như mỗi tháng, tôi đều đến thư viện Hoa Tạng thỉnh băng kinh, gần như cũng đã nuôi dưỡng thành thói quen hằng ngày nghe pháp sư giảng kinh.

Sau một khoảng thời gian tiếp xúc với Phật pháp, tôi cảm nhận sâu sắc mọi người đều nên học Phật, mọi người đều sẽ thành Phật, cũng rất mong mỏi mọi người sẽ đem Phật pháp giới thiệu cho cha mẹ, những người thân yêu nhất của mình, hy vọng họ có thể nhận được lợi ích chân thật của Phật pháp, có thể được giải thoát sinh tử trong đời này, vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Vấn đề khó ở chỗ, tôi không biết làm cách nào giới thiệu được Phật pháp cho cha mẹ. Và có thể khiến cho cha mẹ hoan hỉ tiếp nhận? Đúng lúc tôi đọc được quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến, văn, ký” do cư sĩ Liêu ghi, cư sĩ đã tích cực khuyên cha mẹ niệm Phật. Trước tiên, đối với cha mẹ đã thể hiện được sự quan tâm nhiều hơn trên mặt tinh thần và sự chăm sóc cung cấp trên mặt vật chất cũng đầy đủ hơn trước, dùng hành động thực tế để chứng thực, thân làm đệ tử Phật là phải vô cùng hiếu thuận, khiến cho cha mẹ sinh tâm hoan hỉ mà chấp nhận Phật pháp. Đọc đến đây, tôi bắt đầu hiểu, tôi cũng nên học tập “kiến hiền tư tề” của cư sĩ Liêu, phải làm cho cha mẹ tiếp xúc Phật pháp, nhất định phải hiếu đễ hơn, thuận thảo hơn đối với cha mẹ, khiến cho cha mẹ cảm nhận được sau khi học Phật con mình không giống như xưa, còn giới thiệu Phật pháp cho cha mẹ, thì chướng ngại tự nhiên sẽ bớt đi một ít. Cách làm của tôi cụ thể là:

a) Thường xuyên điện thoại về nhà hơn trước, thành thật thăm hỏi, vấn an sức khoẻ của cha mẹ.

b) Trên mặt vật chất, phải cung cấp nhu cầu cho cha mẹ đầy đủ chân thành hơn trước.

c) Thái độ nói năng đối với cha mẹ phải hòa thuận vui vẻ, cung kính hơn trước.

d) Khi cùng cha mẹ chuyện trò, phải lắng nghe nhiều, nên ít ngắt lời và ít phê bình.

e) Khi nghỉ phép lâu ngày, có cơ hội nên về thăm nom cha mẹ, phải cùng cha mẹ chuyện trò Phật pháp, cũng nên tùy duyên hướng dẫn cha mẹ ăn chay, phóng sinh.

Ngoài ra, hãy lấy danh nghĩa của cha mẹ, hết lòng in ấn, thu băng các loại pháp bảo.

Tôi đã làm như thế khoảng mấy tháng, có một lần tôi đưa con về nhà thăm cha mẹ, cha tôi bảo: “Sau khi con học Phật pháp, toàn bộ con người đều thay đổi hẳn, không như xưa nữa”. Tôi mượn cơ hội này đem những lợi ích thù thắng mà mình đã nhận được trong Phật pháp, nói rõ cho cha nghe: “Đời này chúng ta có thể gặp Phật pháp, là nhân duyên tối thượng, nhất là gặp được pháp môn Trì danh niệm Phật, là pháp môn thù thắng hơn hết. Hơn nữa, pháp sư Tịnh Không cũng đặc biệt nhấn mạnh, học Phật không cần thay đổi phương thức sống vốn có sẵn, chỉ cần thường xuyên niệm Phật, sức khỏe nhất định sẽ ngày càng tốt đẹp”.

Khi ấy, cha tôi hoàn toàn không biểu lộ điều gì. Thế là, tôi đi đến thư viện Hoa Tạng, thỉnh giáo sư phụ: “Nên hướng dẫn cha mẹ học Phật như thế nào?” Sư phụ bảo tôi: “Có thể giới thiệu cho thân phụ đọc kinh Vô Lượng Thọ”. Tôi liền thỉnh cho cha quyển kinh Vô Lượng Thọ và cuộn băng niệm tụng trong hai giờ, lại thỉnh tượng Phật A-di-đà. Vào giữa năm 1994, cha tôi bắt đầu nghe kinh. Mỗi ngày theo thời khóa sáng, cha tôi nghe máy ghi âm đọc kinh Vô Lượng Thọ trong hai tiếng đồng hồ.

Từ đó về sau, tôi càng điện thoại liên tục về nhà thỉnh an sức khỏe cha mẹ. Ngoài việc vấn an sức khỏe, tôi đều hỏi: “Ba có thực hành thời khóa sáng không? Có đọc kinh Vô Lượng Thọ không?” Mẹ đều trả lời: “Có, hằng ngày bốn năm giờ sáng ba thức dậy liền bắt đầu thời khóa sáng, mỗi ngày đều niệm không thiếu buổi nào cả”.

Tôi hỏi tiếp: “Mẹ có niệm Phật không?” (Vì mẹ tôi phải đảm đương tất cả công việc nhà, còn phải chăm sóc cha và con cái của em gái tôi, công việc khá vất vả, không có thời gian ngồi đọc kinh, nhưng tôi mong mẹ ít nhất cũng có thể tùy thời, tùy nơi mà niệm Phật). Mỗi lần như thế, mẹ tôi đều có chút ngại ngùng, cười cười trả lời: “Mẹ không có niệm ra tiếng đâu, chỉ tưởng ở trong lòng thôi!”

Tôi liền khích lệ mẹ: “Nhớ tưởng Phật cũng là một phương pháp rất hay. Có người không quen niệm ra tiếng, trong lòng nghĩ đến Phật cũng rất tốt”. Vì cha mẹ không phản đối cho nên tôi đến thư viện Hoa Tạng thỉnh về nhà thánh tượng Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Thế Âm, thiết lập ngay trong phòng khách một Phật đường đơn giản mà trang nghiêm.

Từ khi cha tôi bắt đầu đọc kinh Vô Lượng Thọ, mỗi lần về nhà, tôi đều cùng cha nói chuyện Phật pháp, đàm luận lục đạo[44] luân hồi, giảng giải những vấn đề sinh và tử. Hơn nữa mỗi lần như thế tôi đều hỏi cha có muốn đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha luôn đáp như thế này: “Người giống như cha làm sao đi được Tây phương! Cũng không biết thế giới Tây phương Cực Lạc ở đâu nữa? Bây giờ cha không muốn điều gì cả, nhưng kinh Vô Lượng Thọ này, cha nhất định sẽ tiếp tục đọc nữa”.

Tôi cũng nhân cơ hội này nói với cha: “Ba à, lúc giảng kinh, pháp sư Tịnh Không đặc biệt nhấn mạnh: Người muốn đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, nhất định phải có đủ ba món tư lương: Tín-hạnh-nguyện. “Tín” chính là tin có thế giới Tây phương, tin có Đức Phật A-di-đà vậy”. “Nguyện” tức là bằng lòng đi, bằng lòng dời dần đến ở cõi Tây phương thế giới Cực Lạc. “Hạnh” chính là bằng lòng trì danh niệm Phật. Vả lại, trong quyển “Di-Đà Yếu Giải” Ngẫu Ích đại sư đã đề cập đến việc: “Vãng sinh được chăng hoàn toàn dựa vào Tín Nguyện có hay không? Phẩm vị cao thấp là do sự sâu cạn của công phu tu tập”. Mỗi lần thảo luận đến vấn đề này, tôi luôn quả quyết bảo với cha mẹ: “Con thể hội sâu sắc được sáu nẽo luân hồi quá khổ sở, đời này không dễ gì gặp được Phật pháp, hơn nữa là gặp được pháp môn Trì danh niệm Phật, pháp môn thù thắng này, con quyết định phải nắm thật vững, trọn đời này nhất định phải vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc”. Tôi muốn đưa cha mẹ đến Phật Quang Sơn tham quan động Tịnh Độ, nhưng khổ nỗi là không có cơ duyên.

Vào mỗi chiều và buổi tối, cha tôi vẫn xem truyền hình, có khi xem tin tức, càng xem càng tức giận. Tôi thường khuyên cha: “Đã xem rồi còn tức giận, thì không nên xem làm gì!” Cha nói: “Làm sao có thể không xem được chứ? Tức giận nhưng vẫn phải xem thôi!”

Tôi khuyên cha hãy đem thời gian xem kịch truyền hình liên tục mỗi chiều để xem băng hình giảng kinh, cha cũng nói không được. Tuy là xem kịch liên tục cũng sẽ tức giận nhưng vẫn phải xem.

Cha tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ khoảng một năm rưỡi, tôi lại kiến nghị: “Cha có thể tăng thêm khóa buổi tối, đọc thêm một biến kinh Vô Lượng Thọ. Sau đó, biết được phụ thân đã bắt đầu tăng thêm thời khóa tối, tôi vô cùng hoan hỷ.

Vào giữa năm 1997, tôi trở về nhà, cha bảo tôi hiện giờ kết quả mà ông đọc kinh Vô Lượng Thọ đã tốt hơn trước. Trước đây, có khi niệm một niệm là sẽ bị ngủ gật, hiện giờ thì không. Hơn nữa, ba năm nay ba chưa hề bỏ sót thời khóa nào. Mỗi ngày, cha nhất định thời khóa công phu sớm chiều hai giờ đồng hồ. Nhưng cha cũng nói ý của kinh Vô Lượng Thọ đó rất sâu xa! Đọc xong, chỗ nào hiểu thì hiểu, chỗ nào không hiểu thì thôi. Tôi nói với ông: “Cảnh giới ý nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ quả thật rất sâu xa. Con cũng có nhiều chỗ không hiểu”. Nhưng tôi có một kinh nghiệm, có một số điều vốn không hiểu, đọc lâu ngày, có lúc dường như đột nhiên vỡ lẽ ra những ý tứ trong đó. Mẫu thân thì bảo tôi buổi sáng sớm, khi trên đường đi mua thức ăn, bà cứ đi mãi, trong lòng vẫn vang lên thánh hiệu của Đức A-di-đà. Tôi nhân cơ hội này khích lệ mẹ, càng nhớ Phật, niệm Phật. Nói ví dụ như khi xắt rau, cắt rau một cái thì niệm câu hiệu Phật; lúc xào rau, xáo một cái thì niệm một danh hiệu Phật. Mẹ tôi gật đầu: “Được”.
3. Chuẩn bị trước khi trợ niệm.

Hạ tuần tháng 12 năm 1997, mẹ điện thoại bảo tôi: “Con à, ba con muốn con chuẩn bị 100 nghìn đồng, nói là sắp đi rồi”. Tôi vội vàng khuyên mẫu thân nhắc cha chuyên tâm niệm Phật. Bà đề cập đến việc gần đây sức khỏe của cha không được tốt lắm, kết quả đi bệnh viện kiểm tra là bị uất hơi, sau đó uống thuốc thì khỏi bệnh. Mẹ còn bảo tôi, cha thường hỏi: “Y phục đã chuẩn bị xong chưa? Lại nói là ông sắp đi rồi”.

Do quan hệ công việc, tôi không cách nào lập tức trở về nhà thăm bệnh tình cha được, nhưng tôi bắt đầu lên kế hoạch việc trợ niệm cho cha vãng sinh, đồng thời cũng xem đó là một nhiệm vụ quan trọng trong khâu chuẩn bị. Chỉ vì từ trước đến giờ, bản thân tôi không có kinh nghiệm giúp người trợ niệm, chỉ sợ vì thiếu kinh nghiệm hoặc sơ suất mà dẫn đến làm mất đi cơ hội tốt vãng sinh của cha, thì tội lỗi này rất lớn. Vì thế tôi phải soạn lại quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” và bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”. Vì để chuẩn bị hậu sự cho cha theo nghi thức Phật môn trang nghiêm nhất. Tôi đã làm hết sức mình lo đủ mọi mặt, thỉnh giáo người khác: Trong khi đệ tử Phật chính thức vãng sinh nên mặc y phục gì? Kết luận sau cùng là: Một bộ áo được giặt-giũ sạch sẽ, một bộ y phục cư sĩ, một cái áo tràng, ngoài ra khi trợ niệm phải chú ý chuẩn bị chiếc mền vãng sinh đắp cho thân phụ.

Sau khi hỏi rõ ràng, tôi lập tức đến nơi phát hành đồ vật của Phật giáo mua một loạt những thứ cần thiết. Ngoài ra còn thỉnh hai cây đèn hoa sen, một bài vị vãng sinh, một chiếc khánh. Vì trong sách có ghi, khi lâm chung người bệnh không ý thức rõ ràng, có thể dùng khánh để thức tỉnh người bệnh niệm Phật.

Vì muốn ghi nhớ rõ những việc đáng chú ý lúc lâm chung trợ niệm, tôi phải xem đọc kỹ nhiều lần quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật”. Về trợ niệm, trong sách có một đoạn ghi: “Tốt nhất nên mời những bạn đồng tu có kinh nghiệm trợ niệm đến trợ niệm, người nhà có lúc cần phải tránh đi, để tránh người lâm chung vướng bận tình thân thiết mà trở ngại việc vãng sinh”. Tuy tôi hy vọng mình có thể đích thân trợ niệm cho cha, nhưng lại sợ mình không có kinh nghiệm, trong quá trình xử lý, vì sơ suất mà lỡ đi đại sự vãng sinh của cha. Vì thế, tôi bắt đầu thăm hỏi khắp nơi, làm thế nào để có thể mời được đoàn trợ niệm? Nhưng lại gặp qua những năm trước, đoàn thể Phật giáo ở miền Trung, họ đều không rảnh, đáp án trả lời đều là không chắc chắn, không có đoàn trợ niệm. Sau cùng, thật không còn cách nào khác, tôi giở phần mục lục phía sau sách bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”, tìm được điện thoại của Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển, hy vọng có thể mời được cư sĩ Liêu.

Buổi trưa ngày 05 tháng giêng năm 1998, trong sự liên lạc rất thuận lợi với cư sĩ Liêu, cư sĩ bảo với tôi về then chốt của sự trợ niệm như sau:

Thứ nhất: Trợ niệm cho người lâm chung không cần số người đông mà cốt yếu ở tâm thành kính. Nếu như có đông người trợ niệm mà tâm tạp loạn không thành kính, vọng tưởng lăng xăng, thì vẫn không bằng một hai người trợ niệm chí thành tha thiết, đạt đến thanh tịnh trang nghiêm, đưa đến hiệu quả tốt đẹp.

Thứ hai: Người nhà trợ niệm cũng có điểm tốt, cần đem tình thân yêu mến của con cái đối với cha mẹ chuyển đổi thành động lực cầu vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc. Nên bảo cha mình, nhân duyên của cha đã sớm thành thục. Vì vậy, trước tiên cha nên dời đến thế giới Tây phương Cực Lạc. Sau này khi chúng con sắp vãng sinh, cha sẽ theo Đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn chúng con.

Thứ ba: Cư sĩ đặc biệt dặn dò tôi, nếu mời được đoàn trợ niệm thì rất tốt, nếu như không mời được thì cũng không nên sinh lòng phiền muộn. Cư sĩ bảo tôi trong quá trình xử lý trợ niệm, cần phải giữ cho được tâm thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh mới có thể tương ưng với Phật và Bồ-tát.

Trong lúc nói chuyện, nhắc đến bệnh của cha, nghĩ đến cha sẽ không còn sống bao lâu nơi cõi đời này, trong lòng tôi đau xót khôn cùng. Cuối cùng, tôi hỏi:

– Thưa Liêu cư sĩ phải làm cách nào đây, tôi biết là người trợ niệm không được rơi một giọt nước mắt. Rơi nước mắt tức là đưa tiễn người thân của mình vào sáu nẽo luân hồi. Nhưng tôi vẫn không có cách nào kiềm chế được. Mỗi lần nghĩ đến cha không còn sống bao lâu trên cõi đời này nữa thì nước mắt cứ tuôn như mưa.

Cư sĩ Liêu điềm tĩnh nói:

– Hiện giờ chị vì lòng hiếu cho nên mới rơi nước mắt, nhưng khi đối đầu với sự việc, Phật và Bồ-tát sẽ gia hộ, chị sẽ không khóc đâu!

Tôi cũng thỉnh giáo cư sĩ Liêu:

– Khi trợ niệm, giọng điệu nhanh chậm nên điều chỉnh thế nào?

Cư sĩ nói:

– Có thể theo giọng điệu và tốc độ của máy niệm Phật để trợ niệm.

Sau khi điện thoại cho cư sĩ Liêu xong, đối với việc mời đoàn trợ niệm, đã không còn là nỗi lo canh cánh, lòng tôi cũng tạm được an ổn.

Buổi chiều ngày hôm ấy, tôi và cô út bàn đến việc trợ niệm. Cô út nói nếu như không mời được đoàn trợ niệm thì cô bằng lòng cùng tôi trở về thôn Trung Hưng Tân trợ niệm giúp cha. Sau khi ý kiến ổn định, tôi nói với cô út:

– Lần này về trợ niệm, chỉ cho phép chúng ta thành công, không được thất bại, không thể mang tâm lý thí nghiệm để niệm Phật. Vì đây là đại sự chỉ một lần chớ không thể lặp lại. Hơn nữa, con nắm chắc chắn cha nhất định vãng sinh, chỉ có điều chúng ta không có kinh nghiệm trợ niệm, sợ nhất là trong quá trình trợ niệm có sự sơ suất, làm trở ngại cơ duyên vãng sinh của cha thì tội đó rất lớn. Vì vậy, có thời gian, chúng ta phải ôn tập nhiều lần cho tốt hai quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật ” và bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”, đến lúc đó mới có thể đúng như lý, như pháp.

Mẹ tôi là một phụ nữ trí huệ, hiểu lý lẽ và rất từ bi. Khi tôi bảo mẹ: “Hiện giờ trong nhà chúng ta không nên mở ti vi, chỉ chuyên tâm niệm Phật, cả nhà tốt nhất chỉ nghe tiếng niệm Phật của máy ghi âm, đặc biệt là ti vi trong phòng của cha càng không nên mở, phải để cho cha chuyên tâm niệm Phật”, thì mẹ đều một mực làm theo, đồng thời bà còn bảo tôi, cha tôi luôn hỏi: “Sao lúc này không thấy con về thăm, tôi có nhiều điều muốn hỏi nó”.

Bà còn nói: “Cha con bây giờ rất hay nói chuyện. Mỗi ngày đều phải nói chuyện với mẹ, có khi đến khuya cũng không chịu ngủ, cứ muốn bà trò chuyện với ông. Chuyện bạn bè, chuyện con cái, dường như muốn đem chuyện những người đã lâu rồi không gặp mặt, kể ra hết một lần”. Còn có buổi tối nọ, cha tôi bảo mẹ: “Tối nay đừng nên tắt đèn, tắt đèn họ sẽ đến bắt tôi đi”.

Ông còn nói trong ống tay áo ông có con quỷ, trong ruột có quỷ.v.v…lại nói mộng thấy họ hàng thân quyến đến tìm ông. Vì vậy, tối nào cha cũng ngủ không ngon giấc.

Lúc ấy, tôi thầm nghĩ: “ Tuy tôi không thể về nhà, nhưng tôi ở Đài Bắc tụng kinh, lễ Phật, đem công đức ấy hồi hướng cho cha ở thôn Trung Hưng Tân, có lẽ cũng được”. Tôi cũng khuyên mẹ nên bắt đầu ở nhà lễ Phật, sám hối cho cha, đồng thời đem công đức lễ bái Phật hồi hướng cho cha. Từ đó, tôi bắt đầu nghiêm túc đọc kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày có thể đọc được mấy biến thì cứ đọc, đồng thời đem công đức tụng kinh hồi hướng cho những oan gia trái chủ của cha. Cách một ngày tôi lại điện thoại cho mẹ, mẹ liền nói đêm qua cha ngủ rất ngon. Tôi càng khích lệ mẹ nên tiếp tục lễ Phật, tôi cũng sẽ tiếp tục lễ Phật và tụng kinh.

Ngày mùng 5 tháng giêng, tôi tiếp tục đọc kinh Vô Lượng Thọ và đem công đức đó hồi hướng cho cha. Do cách ngày có một thời khóa suốt ngày, vì vậy phải từ tối đến gần sáng mới ngủ. Sáng ngày thứ hai, tôi vừa thức dậy thì đầu choáng váng không chịu nổi, đây là hiện tượng rất ít có. Trực giác của tôi cho biết tôi và cha có liên quan, nhưng tôi tự nhủ: “Hôm nay có thời khóa suốt ngày, nhất định sẽ làm cho tinh thần căng thẳng”.

Hơn ba giờ chiều ngày hôm đó, sau khi xong thời khóa sau cùng, tôi vẫn theo kế hoạch ban đầu, đến thư viện Hoa Tạng, một mặt là in ấn kinh điển trợ giúp cho cha, đem công đức hồi hướng cho những kẻ oan gia trái chủ của cha, một mặt muốn thỉnh giáo sư phụ về những việc liên quan đáng chú ý trong trợ niệm. Sư phụ bảo tôi mấy kinh nghiệm quan trọng trợ niệm lúc lâm chung:

1. Thông thường người sắp vãng sinh, họ sẽ không muốn ăn thứ gì cả, vì vậy nếu phụ thân không muốn ăn, cũng không nên miễn cưỡng, không cần lo lắng thái quá.

2. Tuyệt đối không được khóc lóc trước mặt phụ thân để tránh làm trở ngại việc vãng sinh của ông. Nếu những người khác trong nhà khó tránh được đau lòng thì nhất định nên đi đến chỗ khác mà buồn, dù thế nào đi nữa cũng không được khóc trước mặt phụ thân.

3. Khi đánh khánh tiếp dẫn, nên gõ nhịp ngay chữ “Đà” trong bốn chữ hồng danh “A-di-đà Phật”.

Ngay hôm đó, thư viện vừa mới có băng nghe kết duyên “Sự tích niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ”, tôi hết sức vui mừng, liền thỉnh về nghe. Buổi chiều, khoảng 4 giờ 45 phút, em gái tôi từ nhà điện thoại đến, nói với tôi là đã đưa cha đi bệnh viện, kết quả kiểm tra sơ bộ, bạch huyết cầu khoảng 1.300 (quá thấp, không đủ sức đề kháng). Bác sĩ cho mẹ tôi biết, do quy mô của bệnh viện nhỏ nên sự giúp đỡ cho phụ thân không nhiều, và ông có thể không qua khỏi ngày hôm nay. Nếu mong phụ thân sống thêm, đề nghị lập tức đưa đến bệnh viện trung tâm ở Đài Trung. Đương nhiên là mẹ tôi mong cha tiếp tục sống, nhưng bệnh viện ở Đài Trung cách thôn Trung Hưng Tân rất xa, phải qua lại giữa nhà và bệnh viện, thật sự mẹ tôi không đủ sức tiếp tục chèo chống, không biết nên làm thế nào cho tốt? Thế là em gái điện thoại hỏi ý kiến tôi. Cách nghĩ trực tiếp nhất của tôi là: “Về nhà niệm Phật mới có thể cứu. Vì bệnh viện không có máy niệm Phật trong 24 giờ, đối với cha tôi quả là không có lợi”.

Nhưng cách nghĩ này của tôi, trong cách nhìn của một số người có thể cho là tôi học Phật đã mê tín, nhưng kiến nghị của bác sĩ tôi cũng không dám quyết định, vì vậy tôi vẫn mời mẹ ra quyết định. Trong lòng tôi luôn cầu nguyện: Mong cha nhất định phải chờ tôi về giúp ông niệm Phật.

Tôi vốn định đợi sau khi kết thúc lịch trình giảng ở trường sẽ lễ bái nhiều hơn, không còn bận tâm gì nữa. Sau đó trở về nhà một thời gian dài niệm Phật cho cha. Vì ngày 16 tháng giêng tôi có một lịch trình giảng dạy quan trọng, tôi là một trong những giảng viên chính, không thể nào vắng mặt. Nhưng khi em gái tôi điện thoại lần thứ hai, trong lòng tôi nghĩ: “Sinh tử sự đại, nên mau về mới đúng”. Tôi bảo em gái: “Ngày mai (mùng 7 tháng giêng), chị đến trường sắp xếp xong mọi việc, sẽ lập tức về ngay, đến nhà có lẽ là buổi chiều”. Tiếp đó tôi suy nghĩ, tôi sợ cha không chờ được lâu như thế, lại sợ mình có một niệm sơ suất mà làm lỡ sự vãng sinh của cha. Thế là vừa thổi cơm chiều, tôi vừa nghĩ thầm: “Chiều nay lập tức phải về ngay mới được”.

Sau bữa cơm chiều, tôi bắt đầu liên lạc với các đồng nghiệp ở trường, hy vọng có thể sắp xếp ổn thỏa công việc ở trường, đồng thời đem ba đứa con nhỏ học tiểu học gởi lại Đài Bắc, nhờ các bạn đồng tu của tôi chăm sóc. Còn bé gái nhỏ mới một tuổi hơn 5 tháng thì tôi và cô út cùng mang bé theo về thôn Trung Hưng Tân.
4. Trợ niệm trước giường bệnh.

Tám giờ tối, tôi cùng cô út và đứa con gái nhỏ, ba người bắt đầu lên đường. Dọc đường tôi luôn nghe cuộn băng “Sự tích niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ”. Thật ra, tiếng Đài Loan của tôi không tốt lắm nhưng điều lạ lùng là ngay cuộn băng này, tôi có thể nghe hiểu tám chín phần. Mười giờ đêm, chúng tôi đã đến phòng bệnh trong bệnh viện nơi cha nằm. Lúc đó, đứa em trai đang chăm sóc cha. Nó bảo với tôi, cha luôn hôn mê. Phụ thân trong cơn bệnh, hai gò má gầy hóp lại, quầng mắt và hai gò má đều thâm đen, đã khác đi rất nhiều với dung mạo của người cha trong ký ức tôi. Sau khi có được sự đồng ý của người bạn bệnh chung phòng, tôi mở máy niệm Phật, đồng thời gõ khánh tiếp dẫn bắt đầu niệm thánh hiệu A-di-đà Phật. Niệm Phật chỉ mới một lát, chân tay tôi đã bắt đầu run rẩy không tự chủ được, bàn tay cầm khánh cơ hồ không vững, nhưng tôi vẫn kiên trì tiếp tục niệm, cô út cũng niệm theo. Qua mấy phút sau, cha tôi mở mắt ra, đôi mắt trong suốt chăm chú nhìn tôi. Tôi nói nhỏ bên tai cha: “Ba không có sức niệm Phật không sao cả, chúng con giúp ba niệm, trong lòng ba cứ niệm theo chúng con là được rồi”.

Đứa em trai nhỏ hỏi tôi phải niệm bao lâu? Tôi nói: “Cần phải tiếp tục niệm”. Cậu em rất ngạc nhiên. Tôi bảo nó mau gọi điện thoại mời mẹ đến bệnh viện, quyết định là có xuất viện hay không?

Cậu em nhỏ nghi ngờ hỏi tôi: “Có việc gì sao?” Hiểu ý nó, tôi nói: “Nhất định phải niệm Phật liên tục 24 tiếng đồng hồ, thì mới có lợi ích lớn nhất cho cha”. Đứa em vẫn hồ nghi, ý không muốn đi gọi điện thoại.

Tôi đưa ánh mắt tha thiết van cầu, thuyết phục nó: “Trung! Ba là cha ruột của em mà! Tuy ông không phải là cha ruột của chị, nhưng chị luôn xem ông là cha ruột của mình”. Bấy giờ, trong lòng tôi nghĩ: ( Hiện giờ tôi chỉ có một người cha có thể hiếu thuận thôi, làm sao có thể bỏ lỡ mất cơ hội tốt!). Cha ruột của tôi đã qua đời 9 năm rồi. Năm tôi 11 tuổi, cha và mẹ kết hôn, ông còn có một đứa con gái và một đứa con trai, nhưng cha vẫn chăm sóc dưỡng nuôi chúng tôi như những đứa con mình sinh ra. Vì vậy, tôi vẫn luôn cư xử xem ông như cha ruột của mình.

Câu nói này rất quan trọng, cậu em đã đi gọi điện, nhưng nó không trở lại phòng bệnh.
a) Buông bỏ muôn duyên cầu sinh Tịnh Độ.

(Thứ tư ngày 7 tháng giêng năm 1998)

Mẹ tôi vội vã đến bệnh viện, nói với bác sĩ xin thu xếp tự mình xuất viện. Trên đường trở về nhà, tôi vẫn không ngừng niệm danh hiệu Phật. Hơn 12 giờ khuya mới về đến nhà, sau khi sắp xếp cha nằm an ổn, tôi an trí tượng Phật, đèn hoa sen trên bàn sách trong phòng cha, và đắp chiếc mền vãng sinh cho ông. Tôi và cô út bắt đầu chuyên tâm niệm Phật theo chiếc máy niệm Phật. Cứ cách khoảng một lát tôi lại đi lễ Phật, cầu xin chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho phụ thân lâm chung được chính niệm rõ ràng, có thể niệm Phật vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Hơn 3 giờ sáng, cậu em trai trở về, tôi biết vừa giải quyết xong thủ tục xuất viện khiến cho nó mệt mỏi. Tôi mời mẹ đến trước giường trợ niệm cho cha, còn tôi giải thích với cậu ấy là tại sao phải xuất viện, đồng thời nói rõ lợi ích của công đức “Trì danh niệm Phật”.

Tôi nói với em trai:

– Thế giới hiện tại mà chúng ta đang ở đây là thế giới Ta-bà, trong đó có sáu đường. Sáu đường là: Cõi trời, cõi người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Con người của chúng ta chia làm hai phần: Thần thức và thân hình. Thân giống như là một bộ áo quần, sử dụng lâu ngày rồi sẽ cũ mục hư hoại, khi thân chúng ta hư hoại, thần thức phải lìa khỏi thân. Sau khi thần thức lìa khỏi thân, sẽ theo sự dẫn dắt của nghiệp lực luân hồi trong sáu đường. Nếu lúc sắp ra đi có thể trì niệm thánh hiệu A-di-đà thì Phật A-di-đà sẽ đến đón chúng ta về thế giới Tây phương Cực Lạc. Đó là một thế giới không có ba đường ác, đến nơi đó có thể một đời thành Phật, mãi mãi thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong sáu đường.

Sau khi nghe xong, em trai hỏi:

– Điều chị nói là hão huyền, có khoa học nào chứng minh?

Tôi nói:

– Vấn đề em hỏi rất hay, chị không có cách để chứng minh, ngoại trừ bản thân mình thể nghiệm, nhưng trong kinh điển Đức Phật đã giảng, sự thật này được trình bày rất rõ.

Cậu em tiếp lời:

– Mấy hôm nay mắt em cứ giựt mãi, hôm nay trong nhà gọi điện thoại đến công ty tìm em, em mới biết việc đã nghiêm trọng như thế.

Tôi lại bảo em:

– Em là do cha sinh ra, lại là con trai, nếu em chịu đến niệm Phật cho cha thì với cha sẽ có được những lợi ích tuyệt đối. Nhưng niệm Phật không thể nào miễn cưỡng, cần có tâm chuyên nhất. Nếu tâm không chuyên thì hiệu quả giảm rất nhiều.

Nói xong tôi liền đi vào phòng cha niệm Phật. Lát sau, đứa em trai cũng đến niệm. Tôi chân thành nói với em: “Cảm ơn em!”

Cậu em trả lời: “Đây là việc em nên làm”. Mới niệm mấy phút, toàn thân cậu em đã nóng bừng. Đã hơn 3, 4 giờ sáng, cậu chỉ mặc áo ngắn tay mà cũng không thấy lạnh.

Cha tôi lúc tỉnh lúc mê, phần lớn là do nội tạng đau đớn nên thức tỉnh thì rên rỉ. Mỗi lần nhìn thấy tình trạng này, lập tức tôi đến bên tai cha lớn tiếng niệm Phật nhanh bốn chữ thánh hiệu A-di-đà Phật. Đồng thời tôi bảo cha cố gắng cùng tôi niệm ra tiếng. Tôi làm như vậy là mong đổi tiếng rên của cha thành tiếng danh hiệu Phật. Ban đầu cha tôi vẫn kêu đau, nhưng sau đó từ từ ông gượng đau cắn răng niệm danh hiệu Phật, có thể niệm theo tôi hai tiếng hoặc ba, bốn tiếng, nhưng không có cách nào niệm liên tục đến mười tiếng.

Hơn 6 giờ sáng, cha tôi đưa đôi mắt trong trẻo nhìn cô út hỏi: “Cô là ai?”. Tôi nói với cha, đây là cô út của tôi, mục đích đến đây niệm Phật cho cha. Cha vội vàng xin lỗi cô út.

Tôi hỏi:

– Cha có đồng ý đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha đáp:

– Đi chứ!

Tôi nói:

– Chỉ có Đức Phật đến cha mới được đi theo Ngài, còn gặp bất kỳ họ hàng quyến thuộc trong nhà nào khác đến tìm, cha đều không nên đi theo nhé!

Cha gật đầu. Hơn 7 giờ, tôi lại hỏi cha:

– Cha có muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha lắc đầu nói:

– Không muốn đi!

Trong lòng tôi rất căng thẳng, tôi hỏi:

– Vì sao cha không muốn đi, vẫn còn điều gì chưa buông bỏ được?

Cha đáp:

– Không lìa bỏ được con cái.

Tôi hiểu ý cha, đó là ông không nỡ xa lìa đứa con gái và cậu con trai ruột của mình. Tôi vội mời mẹ đến nói chuyện với cha. Mẹ bảo:

– Ông hãy an lòng, ông đi trước đến thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng tôi cũng sẽ đi. Ông đi trước an ổn, sau này lúc chúng tôi sắp đi, ông lại theo Đức Phật A-di-đà đến đón chúng tôi nhé!

Cha đáp: “Vâng!”

Tôi lập tức đến phòng khách bảo em gái:

– Ba không chịu đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, vì ông không nỡ rời xa con cái.

Nghe mấy lời này, cô em khóc nức nở. Tôi khuyên nhủ:

– Dung, em không thể khóc được, em khóc tức là đưa ba đi vào sáu nẽo luân hồi. Em phải nói với ba: “Duyên đã chín mùi, ba đi trước đến thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng con cũng sẽ đi, đến lúc đó ba lại theo Đức Phật đến đón chúng con”.

Cô em khóc, nói không biết phải làm cách nào đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc?

Tôi bảo:

– Chuyên tâm niệm Thánh hiệu Phật A-di-đà, một lòng muốn đi, nhân duyên chín mùi thì Phật A-di-đà sẽ đến tiếp dẫn”.

Tôi lại bảo:

– Đợi em khóc xong rồi, lau khô nước mắt, nhất định em phải đến nói với ba đó.

Nói xong, tôi liền trở vào niệm Phật bên cạnh cha. Lát sau, cô em gái đi vào phòng cha. Cô nói với cha: “Ba, con là Dung đây, con sẽ chăm sóc tốt bản thân mình, cũng sẽ chăm sóc tốt mẹ nữa, ba hãy an lòng đi về thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng con cũng sẽ đến thế giới Tây phương Cực Lạc. Chúng ta sẽ mãi đoàn tụ ở thế giới đó”.

Niệm Phật được một lát, tôi lại hỏi cha:

– Ba, ba muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Ba vẫn lắc đầu nói: “Không muốn đi”.

Tôi và cô út đều rất hồi hộp. Tôi vội hỏi:

– Ba vẫn còn điều gì chưa dứt được sao?

Ông đáp: “ Mẹ của ba đó”.

Tôi hiểu ý cha, ông vẫn luôn nhớ đến mẫu thân mình ở Đại lục chưa thăm viếng, điều đó luôn ray rứt trong lòng ông. Tôi nói:

– Ba, mẹ của ba cũng ở thế giới Tây phương Cực Lạc, ba phải tin Đức Phật A-di-đà, đến thế giới Tây phương Cực Lạc, Đức Phật A-di-đà sẽ đưa ba đi tìm mẹ”.

Cha gật đầu, tiếp tục niệm được một lát, tôi lại hỏi:

– Ba có muốn đi thế giới Tây Phương Cực Lạc không?

Ông đáp: “Muốn”.

Cuối cùng, trong lòng tôi mới được an.

Trong suốt quá trình niệm Phật, chúng tôi gặp phải vấn đề khó xử. Ví dụ:

1. Có nên để cha ngủ không? Vì sợ cha ngủ thì đi luôn trong giấc ngủ, nhưng sợ cha mệt, không cho ông ngủ thì lòng không nỡ.

2. Lúc trợ niệm cho cha, tôi luôn chú ý đến từng cử động của ông, niệm Phật như thế có được tâm chuyên nhất không?

Hơn 9 giờ sáng, tôi điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông nói: “Cha muốn ngủ cứ để ông ấy ngủ, còn chúng ta những người trợ niệm phải luôn bên cạnh chuyên tâm trợ niệm, nhưng khi trợ niệm cho người sắp ra đi, cũng phải chú ý đến tình trạng của họ, song không nên chú ý quá nhiều”. Cư sĩ Liêu còn bảo tôi: “Thông thường người sắp vãng sinh sẽ không muốn ăn gì cả, hơn nữa sẽ từ từ bài tiết hết những chất dơ trong cơ thể. Nếu cha niệm Phật miệng khô, thì có thể cho ông uống một ít nước nóng, còn không muốn ăn thì chẳng sao cả”.

Sau đó, chúng tôi vẫn niệm theo nhịp điệu của chiếc máy niệm Phật, chỉ khi cha đau kêu rên, thì tôi mới đến bên cha niệm lớn tiếng và thật nhanh bốn thánh hiệu A-di-đà Phật. Cha tôi cũng đổi tiếng kêu rên thành tiếng niệm Phật. Khi mới bắt đầu, cha chỉ có thể tiếp theo được bốn, năm câu danh hiệu Phật, đến sau thì có thể niệm được mười mấy câu. Thậm chí có lúc cha có thể tự mình chủ động niệm ra tiếng đủ mười câu thánh hiệu Phật A-di-đà. Tôi nhìn trong ánh mắt, đột nhiên cảm thấy một bức màn giống như trong chương “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng-nghiêm kinh Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật Viên Thông” đã nhắc đến cảnh tượng: “Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con, thì mẹ con gặp nhau không thể xa rời”.

Niệm được một lát, cha bảo tôi:

– Nghê à! Con có biết người cha này của con (chỉ chính mình) từ năm 20 tuổi đến sau này rất là bừa bãi không?”.

Về điểm này, đương nhiên tôi không hiểu được, vì ba và mẹ tôi khi kết hôn đã 50 tuổi rồi. Tôi nói:

– Ba à! việc trước đây không còn lo nữa, hiện giờ chúng ta chuyên tâm niệm Phật. Phật Di Đà rất từ bi, chỉ cần ba bằng lòng đi thế giới Tây phương Cực Lạc, chịu niệm Phật thì Phật Di-đà nhất định đến đón ba. Nếu như ba thấy Đức Di-đà đến đón thì nên cho chúng con biết, ba phải vui vẻ theo Đức Phật A-di-đà đến thế giới Tây phương Cực Lạc được không?

Ông gật đầu đáp: “Được!”.

Cha niệm Phật rất tốt, niệm một hơi đủ mười câu, đột nhiên ông lại bảo tôi:

– Nghê à! Ba rất xấu hổ (chỉ cho trước đây mình không thường niệm Phật). Tôi bảo:

– Con cũng vậy, mỗi lần đọc kinh đều không thể chuyên tâm, nhưng không sao cả, hiện giờ chúng ta bắt đầu chuyên tâm niệm Phật, nhất định phải niệm đến khi Phật A-di-đà đến đón, ba phải theo Đức Phật Di-đà đến thế giới Tây phương Cực Lạc.

Cha lại bảo:

– Nghê à! Kinh Vô Lượng Thọ thật sâu xa! Có chỗ ba hiểu, có những chỗ ba không hiểu.

Tôi nói:

– Đúng vậy! Kinh Vô Lượng Thọ thật là sâu xa! Con cũng có nhiều chỗ không hiểu. Vì tuổi thọ của chúng ta nơi cõi này có giới hạn nên không thể làm sáng tỏ hết ý tứ đã có trong kinh, nhưng đến thế giới Tây phương Cực Lạc, tuổi thọ nơi đó vô hạn lượng, lại được học với Đức Phật Di Đà thì có thể hiểu được tất cả ý nghĩa trong kinh. Ba à! Đức Phật Di-đà rất từ bi, Ngài đã phát 48 đại nguyện để độ tất cả chúng sinh khổ nạn nơi thế giới Ta bà của chúng ta. Bây giờ, con sẽ đem lời nguyện của Đức Phật Di-đà đã phát, đọc một lần cho ba nghe, được không?

Cha đáp: “Được!”.

Thế là, tôi liền bắt đầu đọc phẩm thứ sáu phát đại thệ nguyện của kinh Vô Lượng Thọ. Tôi đọc ngay đoạn:

“Nguyện khi ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương, nghe đến danh hiệu ta, chí tâm tin, ưa thích, có bao nhiêu căn lành, đều hết lòng hồi hướng, nguyện sinh về nước ta, cho đến trong mười niệm. Nếu người nào không sinh về Cực Lạc, thì ta quyết không thành Chính Giác, chỉ trừ những người tội ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”.

“Ba à, ý đoạn này nói, mười phương chúng sinh, nghe đến thánh hiệu của Phật A-di-đà mà sinh lòng hoan hỷ, và bằng lòng vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ cần chuyên tâm, chí thành niệm mười câu thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà thì có thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc”.

“Khi ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương, nghe đến danh hiệu ta, phát bồ-đề tâm, tu các công đức, thực hành sáu Ba-la-mật, bền lòng không thoái chuyển, lại đem tất cả căn lành hồi hướng, nguyện sinh vào nước ta, một lòng nhớ nghĩ ta, ngày đêm không gián đoạn thì lúc lâm chung, ta sẽ cùng chúng Bồ-tát đến rước người ấy trong khoảng sát na, liền sinh vào nước ta, làm Bồ-tát bất thoái chuyển. Nếu không được như nguyện này, ta nguyện không thành Chính giác”.

Thưa ba, ý đoạn này nói: “Chúng sinh trong mười phương nghe đến thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà, mà nhất tâm hướng thiện, và phát nguyện vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ cần ngày đêm niệm Phật liên tục thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà thì khi lâm chung, Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí cùng đến đón về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Sau đó tôi lại hỏi cha:

– Ba có muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Ông đáp: “Muốn”.

– Ba đã quy y Tam bảo, quy y Đức Phật A-di-đà, là đệ tử của Ngài, Phật A-di-đà rất từ bi, chúng ta chuyên tâm niệm Phật, Phật nhất định sẽ đến tiếp dẫn. Khi Phật A-di-đà đến rước, ba nhất định phải cho chúng con biết nhé!

Ông nói:

– Ừ, y phục chuẩn bị xong chưa?

– Thưa ba, mọi thứ đã chuẩn bị xong, khi còn ở Đài Bắc con đã giúp ba thỉnh hết rồi. Đức Phật Di-đà bao giờ mới đến đón ba vậy?

Ông nói: “Có lẽ là hôm nay”.

Niệm danh hiệu Phật được một lát, đột nhiên cha sờ tìm vật gì dưới chiếc gối, nói là cần lấy giấy bút ghi địa chỉ. Tôi nói:

– Ba, sau khi ba đến thế giới Tây phương Cực Lạc muốn đi đâu thì sẽ được đi đến đó, muốn tìm ai thì có thể tìm, tự nhiên tìm được, không cần địa chỉ.

Sau đó, tâm cha bắt đầu ổn định, ông niệm Phật rất chuyên tâm, có lúc trong một hơi niệm đủ mười câu danh hiệu Phật, có lúc vì đau mà kêu lên. Tôi càng kiên định bảo cha:

– Ba hãy chuyên tâm niệm Phật, còn những thứ khác không cần lo. Pháp sư Tịnh Không nói, vãng sinh về thế giới Tây phương là đi vào cõi sống, tuyệt đối không thể chết, đã chết thì không đến được.

Cha hỏi:

– Phải chuyên tâm như thế nào, có phải là ngay cả đau đớn cũng không nghĩ đến nó?

Tôi đáp:

– Đúng rồi, đau đớn cũng không cần để ý nó, phải chú tâm vào danh hiệu Phật.

Cứ luôn nhắc nhở, hỗ trợ như thế, cha tôi đã chuyển tiếng kêu rên thành tiếng niệm Phật. Dần dần cha vừa đau liền có thể tự mình niệm thánh hiệu Phật A-di-đà. Nhìn biểu hiện trên gương mặt của cha, có thể thấy là cha rất đau, nhưng vẫn mười phần kiên định cắn răng niệm Phật. Thời gian này cha cũng từng nói: “Ngày mai là ngày bắt quỷ”, “chúng rất đói” v.v…” Hễ cha tôi quên niệm Phật, thì tôi vội nhắc nhở cha: “Ba, mọi thứ đều không nên nghĩ đến, chúng ta phải chuyên tâm niệm Phật”.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.