Hạnh Phúc Chân Thường – Phần V

Như vậy, đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề cập đến yếu tố sau cùng của cuộc sống hạnh phúc: Các chiều kích tâm linh. Xuyên qua lời dạy của đức Phật, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng như nhiều người khác đã tìm ra một cấu trúc có ý nghĩa trọng đại giúp họ kinh qua và đôi khi, chuyển hóa những đau đớn và phiền não mà cuộc sống đã mang đến cho kiếp người. Và giống như đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận định, các tôn giáo lớn đã cống hiến những cơ hội giống nhau giúp con người có được một cuộc sống hạnh phúc hơn. Sức mạnh của đức tin vốn được các truyền thống tôn giáo này khai triển đến một bình diện rất rộng lớn và đã đan kín cuộc sống của hàng triệu con người. Hằng hà sa số những trường hợp người ta đã sống sót qua những giai đoạn khó khăn nhờ vào niềm tin tôn giáo. Chuyện này đôi khi xảy ra thầm lặng trong một phạm vi nhỏ bé nhưng cũng có lúc diễn ra trên một bình diện quy mô và ồn ào hơn. Vào một lúc nào đó trong đời, bất cứ ai trong mỗi người chúng ta đều có dịp chứng kiến hay nhận biết sự hiện hữu của sức mạnh này đang xảy ra cho một thành viên trong gia đình, bạn hữu hay người quen.

Đôi khi, những thí dụ cụ thể về sức mạnh của đức tin tôn giáo đã xuất hiện trên trang nhất của báo chí. Nhiều người trong chúng ta còn nhớ đến trường hợp của Terry Anderson, một người dân rất bình thường bị bắt cóc trên đường phố Beirut (thủ đô của Lebanon) vào một buổi sáng năm 1985. Hezbollah, một nhóm Hồi giáo chính thống quá khích đã bất thần chụp một cái mền lên đầu Terry, tống anh ta vào một chiếc xe và chở đi giam giữ suốt 7 năm ròng. Đến năm 1991, Tery bị biệt giam trong một xà lim dơ dáy và ẩm thấp, bị bịt mắt và xích xiềng cũng như bị tra khảo và đánh đập thường ngày. Đến khi được phóng thích, cả thế giới quay lại và nhận ra một Terry vô cùng vui vẻ vì được xum họp với gia đình, được trở lại với cuộc sống. Nhưng cả thế giới cũng đã rất ngạc nhiên khi thấy Terry không mấy tỏ ra cay đắng hay thù hận đối với những người đã bắt cóc anh ta. Khi được các phóng viên hỏi về nguyên nhân của sức mạnh khác thường này, Terry cho biết đức tin và cầu nguyện là những tác nhân chính yếu đã giúp anh ta chống chọi với nghịch cảnh.

Không thiếu gì những trường hợp mà niềm tin tôn giáo đã là điểm tựa vững chắc cho chúng ta lúc nguy khốn. Và ngày nay, các cuộc sưu tầm rất rộng rãi cũng đã nhìn nhận rằng đức tin có thể giúp chúng ta rất nhiều trong việc đạt đến một đời sống hạnh phúc. Những cuộc nghiên cứu do các chuyên gia và các tổ chức độc lập (như công ty Gallup) cho thấy những người theo đạo (bất cứ tôn giáo nào) thường tỏ ra hạnh phúc và hài lòng hơn với cuộc sống so với những người không có tín ngưỡng. Người ta cũng thấy rằng đức tin không những giúp chúng ta vui sống mà còn giúp người ta ứng phó với tuổi già, những hoàn cảnh khó khăn hay khủng hoảng cá nhân một cách có hiệu quả hơn. Thêm nữa, thống kê còn chỉ rõ là những gia đình có đức tin tôn giáo vững mạnh thường ít có con cái phạm pháp, nghiện rượu, ma tuý và tan vỡ hôn nhân. Người ta cũng tìm thấy những chứng tích cho rằng sức mạnh của niềm tin tôn giáo còn giúp con người gia tăng sức khoẻ kể cả những người bị các căn bệnh hiểm nghèo. Thực ra, hàng trăm các cuộc nghiên cứu khoa học đã thiết lập mối liên hệ giữa đức tin tôn giáo, tử xuất thấp và cải thiện thể lực. Trong một cuộc sưu tầm, một số quý bà lớn tuổi với niềm tin vững mạnh đã đi được xa hơn sau khi giải phẫu hông so với những người khác và họ cũng ít bị suy thoái sau khi giải phẫu.

Ronna Casar Harris và Mary Amanda Dew thuộc trung tâm y khoa đại học Pittsburgh trong một cuộc nghiên cứu đã thấy rằng các bệnh nhân có niềm tin tôn giáo sau khi thay tim đã chấp nhận chế độ điều dưỡng hậu giải phẫu một cách tốt đẹp hơn, đồng thời chứng tỏ một sức khoẻ tinh thần lẫn thể lực vượt trội hơn trong trường kỳ. Trong một cuộc nghiên cứu khác, bác sĩ Thomas Oxman và các đồng nghiệp tại trường y khoa Dartmouth nhận thấy những bệnh nhân trên 55 tuổi có tín ngưỡng, đã bị giải phẫu về những bệnh có liên quan đến tim mạch, có khả năng sống sót 3 lần cao hơn nhưng người không có niềm tin tôn giáo.

Những lợi dưỡng có được từ đức tin là sản phẩm trực tiếp của một vài tín lý và truyền thống tôn giáo khác biệt. Nhiều Phật tử đã chịu đựng được các khổ não vì đã tin tưởng mãnh liệt vào chủ thuyết duyên nghiệp. Tương tự như thế, những người có niềm tin không gì lay chuyển được đối với Thượng đế cũng kinh qua các khổ nạn bởi niềm tin ở Thượng đế toàn năng và đầy tình thương, tin rằng những dự định của Ngài có thể bí mật đối với chúng ta trong hiện tại nhưng cuối cùng, trong sự hiểu biết uyên áo của Ngài, Thượng đế sẽ hiển bày tình thương cho chúng ta. Với tất cả niềm tin vào lời giảng trong kinh Thánh, người ta có thể tìm thấy sự an ủi khi đọc những đoạn như Romans 8:28 chẳng hạn “Mọi sự đều được xếp đặt nhắm đến sự tốt lành cho những ai mến yêu Thượng đế, cho những ai được ơn cứu gọi bởi những mục tiêu của Ngài”.

Mặc dù có những tưởng thưởng dựa trên các giáo điều độc nhất và đặc trưng đối với từng truyền thống tín ngưỡng riêng biệt, có những đặc điểm do sức mạnh của đức tin tạo ra có tính cách thông dụng trong tất cả các tôn giáo. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức tôn giáo khiến người ta cảm thấy sự liên hệ với cộng đồng, có sự quan tâm và chia xẻ với đồng đạo. Người ta thấy mình như có đồng đội, được chấp nhận bởi người khác và đồng thời làm cho mình thấy cuộc sống có mục tiêu và ý nghĩa. Các niềm tin này cho chúng ta hy vọng khi phải đối diện với nghịch cảnh, phiền não và cái chết. Chúng giúp con người chấp nhận một viễn tượng trường cửu, cho phép người ta vượt qua cái tôi của mình khi bị tràn ngập bởi những khó khăn của đời sống.

Tuy rằng các lợi dưỡng thiết yếu này lúc nào cũng dành sẵn cho những người thực hành giáo điều của các tín ngưỡng đã hình thành lâu đời trên mặt đất, người ta cũng thấy rõ rằng đức tin tôn giáo không đủ để đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc và bình an. Ngay khi Terry ngồi trong xà lim với xiềng xích trên mình và đang chứng nghiệm quyền năng của niềm tin tôn giáo thì ngoài kia, cơn bạo động do thịnh nộ và thù hận của đám đông đã chứng tỏ những đóng góp xấu xa của sức mạnh tín ngưỡng. Qua bao nhiêu năm tại Lebanon, nhân danh tín ngưỡng, cuộc chiến tranh đầy thù hận và bạo lực giữa các nhóm Hồi giáo chống lại Cơ Đốc và Do Thái giáo đã đưa đến những tàn độc không thể nói được. Câu chuyện này quá cũ, đã được lập lại nhiều lần trong lịch sử và vẫn được nhắc đến quá thường trong đời sống hiện tại.

Do bởi khả năng gây chia rẽ và thù hận, người ta có thể mất niềm tin vào các cơ chế tôn giáo, và những hình ảnh lớn của tôn giáo như đức Đạt Lai Lạt Ma đã cố gắng thanh lọc những thành tố của cuộc sống tâm linh nhằm đáp ứng ước vọng của bất cứ ai muốn có một cuộc sống hạnh phúc, không kể đến việc người ta theo tôn giáo này hay tôn giáo kia hoặc người ta có hay không có tín ngưỡng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma kết thúc buổi nói chuyện với viễn tượng của Ngài về cuộc sống tâm linh bằng một giọng điệu tin tưởng vững mạnh:

“Như thế, khi nói về các chiều kích tâm linh trong đời sống, chúng ta đã đề cập đến niềm tin tôn giáo như một cấp độ tinh thần. Nói về tín ngưỡng, nếu chúng ta tin ở một tôn giáo nào đó thì đấy là điều hay. Nhưng nếu không có đức tin tôn giáo, chúng ta cũng có cách giải quyết. Trong nhiều trường hợp, người ta còn thành công hơn nữa kia. Nhưng đây là quyền riêng của mỗi người. Bây giờ chúng ta đề cập đến một cấp độ khác mà tôi gọi là ‘tâm linh căn để’ tức là những phẩm chất căn bản của con người như sự tốt đẹp, hòa nhã, từ ái và quan tâm. Dù là tín đồ hay không, những tâm linh căn để này đều rất thiết yếu. Cá nhân tôi cho rằng mức độ thứ hai này quan trọng hơn mức độ thứ nhất rất nhiều vì rằng dù một tôn giáo có tuyệt vời đến đâu chăng nữa cũng chỉ được chấp nhận bởi một số người, một phần nhỏ của nhân loại. Trong khi tất cả mọi người, mỗi thành viên của cộng đồng nhân loại đều cần đến những giá trị tinh thần căn bản này. Không có chúng, sự sinh tồn của loài người vẫn khô cằn và cực nhọc, và hậu quả là không ai trong chúng ta được vui vẻ hạnh phúc, cả gia đình sẽ khổ lụy và cuối cùng, xã hội bị nhiễu loạn. Do vậy mà vun bồi những giá trị tinh thần căn để này là điều vô cùng hệ trọng.

“Để phát huy các giá trị tinh thần căn bản này, chúng ta cần nhớ rằng trong số 5 tỷ con người đang sống trên mặt đất, chỉ có 1 hay 2 tỷ là những người tin tưởng nhiệt thành vào tôn giáo. Khi nói tin tưởng nhiệt thành, tôi không có ý bao gồm những người ngoài miệng vẫn nói ‘Tôi là tín hữu Cơ Đốc’ chỉ vì gia đình họ theo Cơ Đốc, nhưng trong đời sống hàng ngày thì không mấy khi nghĩ đến những giá trị tinh thần hay thực hành những giáo điều của Cơ Đốc giáo. Nếu trừ lớp người này ra, có lẽ chỉ độ 1 tỷ người thực hành và tin tưởng với tất cả nhiệt tâm vào tôn giáo của họ. Điều này có nghĩa là còn lại 4 tỷ, đa phần nhân loại trên trái đất này không tin vào tôn giáo và chúng ta phải tìm cách cải thiện đời sống tinh thần của số đông nhân loại đó để họ trở nên những người tốt, có luân lý, có đạo đức mà không cần đến tín ngưỡng.

“Tôi nghĩ rằng ở đây, vai trò của giáo dục rất cần thiết: Làm cho người ta thấm nhuần với từ ái, khoan hòa tức là những phẩm chất tốt đẹp căn bản của con người chứ không chỉ là những mục tiêu của tín ngưỡng. Trước đây chúng ta đã bàn luận khá đầy đủ về tầm quan trọng của nồng nhiệt, trìu mến, từ tâm đối với sức khoẻ thể chất, hạnh phúc và bình an tâm thức. Các cảm xúc này là những mục tiêu thực tiễn chứ không phải là nguyên lý tôn giáo hay dự tưởng triết học. Chúng là những vấn đề then chốt và cũng là tinh túy của các giáo điều trong các tôn giáo khác nhau. Có theo hay không theo một tín ngưỡng, những mục tiêu này vẫn quan hệ như nhau và giáo dục có bổn phận nhấn mạnh đến ý tưởng rằng con người vẫn tốt đẹp, biết phán đoán, với những trách nhiệm và cam kết làm cho thế giới này trở nên một nơi chốn tốt đẹp và hạnh phúc hơn mà không cần đến tôn giáo.

“Nói chung, có những hình thức bên ngoài để cho người ta nhận diện một người đang theo một tôn giáo hay một lối sống tâm linh nào đó như trang phục, bàn thờ trong nhà, ca múa hay tế lễ … tức là các chỉ dấu ngoại vi. Những ấn chứng này, tuy vậy, chỉ đóng vai thứ yếu so với các giá trị tinh thần căn bản để xây dựng một đời sống tâm linh thực thụ vì rằng những người mang nặng trong mình trạng thái tâm thức tiêu cực vẫn dễ dàng theo đuổi và thực hành các biểu tượng này. Chỉ có những ấn chứng tâm linh chân thực mới làm cho người ta trở nên tĩnh lặng hơn, hạnh phúc hơn và an bình hơn.

“Tất cả các phẩm hạnh của tâm thức – từ ái, khoan nhượng, tha thứ, quan tâm – là các pháp chân chính, là các giá trị tâm linh đích thực vì chúng không cộng tồn với những cảm xúc nguy hại và tâm thức tiêu cực. Cho nên, dấn thân vào công tác hay phương pháp huấn luyện các nguyên tắc nội tại là yếu tính của đời sống tôn giáo, những nguyên tắc có mục đích vun bồi tính tích cực của tâm thức. Vì vậy, người ta có đạt được một đời sống tâm linh hay không là tùy thuộc vào việc người ta có thành công hay không trong công việc rèn luyện và thuần hóa tâm thức, chuyển đạt tâm thức này vào đời sống hàng ngày.”

Đến giờ đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự một buổi tiếp tân nhỏ được tổ chức để tuyên dương một nhóm ân nhân đã mạnh mẽ ủng hộ cho cuộc vận động giúp đỡ Tây Tạng. Bên ngoài phòng khánh tiết, quan khách tụ tập đông đảo để chào đón đức Đạt Lai Lạt Ma và khi gần đến giờ khai mạc thì đám đông đã đầy nghẹt. Trong số khán giả, tôi nhận ra một khuôn mặt mà tôi đã gặp vài lần trong tuần này. Ngoại diện của anh ta rất khó mà xác định tuổi tác nhưng tôi đoán vào khoảng 25, gần 30, cao và rất gầy ốm. Bề ngoài lôi thôi xốc xếch của người này khiến tôi chú ý tới vẻ lo lắng, trầm uất nặng nề trên nét mặt (mà tôi thường thấy ở các bệnh nhân tâm thần). Tôi cũng nhận ra các cử động liên tục và không có chủ ý của các bắp thịt ở quanh miệng người đàn ông. Tôi nghĩ đến chứng Tardic Dyskinesia, một hiệu ứng thần kinh do việc dùng thuốc chống rối loạn tâm lý trong một thời gian dài. Tôi nhủ thầm “Tội nghiệp !” và rồi quên mất anh ta sau đó.

Khi đức Đạt Lai Lạt Ma xuất hiện, đám đông vốn đã chật cứng mà ai cũng muốn đến gần để chào đón Ngài. Nhân viên bảo vệ, đa số làm thiện nguyện, đã rất khó nhọc để chống lại sức xô đẩy của quan khách hầu giữ được khoảng trống cho đức Đạt Lai Lạt Ma tiến đến phòng tiếp tân. Người đàn ông lúc nãy bỗng xuất hiện trong tầm mắt tôi, anh ta bị đám đông dồn ép đến sát lằn ranh của nhân viên bảo vệ và nét mặt trông càng bất an, bối rối. Lúc đức Đạt Lai Lạt Ma đi ngang qua, Ngài thấy người đàn ông. Ngài nhìn anh ta, tách khỏi đám bảo vệ và đến hỏi chuyện với người đàn ông này. Đầu tiên anh ta có vẻ sửng sốt nhưng sau đó đã nói thật nhanh với đức Đạt Lai Lạt Ma trong khi Ngài chỉ đáp lại rất ít. Vì đứng xa nên không nghe được họ trao đổi với nhau những gì nhưng tôi thấy người đàn ông càng nói càng lộ vẻ kích động, bối rối. Anh ta hỏi một câu gì đó và thay vì trả lời, đức Đạt Lai Lạt Ma nắm tay anh ta vào giữa hai bàn tay của mình, vỗ nhẹ. Ngài đứng yên và cúi đầu trong giây lát. Khi cầm chặt bàn tay và nhìn vào mắt người đàn ông, đức Đạt Lai Lạt Ma như quên hẳn đám đông quan khách đang vây quanh Ngài. Vẻ đau khổ và kích động trên nét mặt người đàn ông bỗng dịu hẳn đi khi hai giọt lệ hiện ra trên khóe mắt và lăn dài xuống gò má. Anh ta nở một nụ cười tuy vẫn còn gượng gạo và yếu ớt, ánh mắt người đàn ông đã lộ vẻ thoải mái, hân hoan.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh nhiều lần rằng các nguyên tắc nội tại là căn bản của đời sống tâm linh, rằng chúng là phương tiện không thể thiếu để đạt được hạnh phúc. Như đã trình bày trong suốt cuốn sách, theo quan điểm của Ngài, nguyên tắc nội tại bao gồm việc chiến đấu chống lại những tình trạng tiêu cực của tâm thức như THAM, SÂN, SI đồng thời phát huy các phương diện tích cực như HÒA NHÃ, TỪ ÁI, KHOAN NHƯỢNG. Ngài cũng nói rằng một cuộc sống hạnh phúc được xây dựng trên nền tảng bình an, không giao động của tâm thức. Công tác hành trì các nguyên tắc nội tại có thể gồm những kỹ thuật thiền quán nhằm giúp tâm thức chúng ta được ổn định và tĩnh lặng. Hầu hết các truyền thống tâm linh trên thế giới đều nhắm đến sự tĩnh lặng của tâm thức, giúp chúng ta động chạm đến bản năng tâm linh sâu kín của mình. Để kết thúc tuần lễ nói chuyện với công chúng tại Arizona, đức Đạt Lai Lạt Ma đã hướng dẫn thính giả một phép quán nhằm hiểu rõ bản chất căn để của tâm thức đồng thời giúp chúng ta an tâm / tĩnh tâm.

Nhìn quanh thính đường, đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu nói với phong cách như thể đang nói chuyện, đang hướng dẫn từng người chứ không phải nói với cả đám đông. Có lúc như bất động vì chú tâm, có lúc diễn tả rất hoạt bát với các động tác như gật đầu, ra dấu, nghiêng người nhằm giúp thính giả lĩnh hội dễ dàng sự diễn đạt của Ngài.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.