Hiếu Hạnh

Hôm nay nhân ngày Tự Tứ, quí Phật tử về Thiền viện cúng dường lễ Vu Lan, chúng tôi sẽ nói một ít chuyện đạo lý mang ý nghĩa báo hiếu để quí vị nhận hiểu và áp dụng chữ Hiếu đúng theo tinh thần Phật dạy. Từ lâu chúng ta đã nghe nói về ngài Mục Kiền Liên với lễ báo hiếu Vu Lan, tức ngày rằm tháng bảy, ngày hoan hỷ của mười phương chư Phật và chúng Tăng. Nói đến Tôn giả Mục Kiền Liên, ai cũng biết Ngài cùng với Tôn giả Xá Lợi Phất được xem như hai cánh tay phải và trái của đức Phật. Xá Lợi Phất là trí tuệ đệ nhất, còn Ngài là thần thông đệ nhất. Tư cách của hai vị đại đệ tử này trong Tăng đoàn rất đặc biệt. Đại chúng đều kính nể uy đức của hai Ngài.

Ngài Mục Kiền Liên có người mẹ tên là Thanh Đề. Khi còn sinh tiền, bà thường ôm lòng keo sẻn xấu xa, lại không kính tin Tam Bảo nên khi chết bị đọa vào loài quỷ đói. Đọa vào loài này thì trong cổ họng luôn cháy khát, vì bất cứ thức ăn nào để vào cũng biến thành lửa đỏ. Chẳng những thế mà nghe tên của thức ăn, nghe mùi thức ăn, nghe tiếng động dao thớt hoặc nghe tiếng chén bát khuav.v… trong cổ họng cũng phát lửa.

Trong kinh nói lửa đó từ tham, sân, si mà ra. Tâm keo sẻn, không rộng rãi buông xả, gây tạo tội lỗi sẽ chiêu cảm các quả báo như thế. Do vậy sau khi thành đạo, nghĩ đến mẹ, ngài Mục Kiền Liên vận thần thông tìm kiếm khắp nơi. Cuối cùng Ngài gặp mẹ trong chốn địa ngục sâu thẳm, mang lớp quỷ đói. Thương mẹ vô cùng, Ngài quay trở về nhân gian đi khất thực được một bát cơm, vội vã đem xuống địa ngục dâng mẹ. Nhưng vì lòng tham lam bỏn sẻn, sợ các tội nhân chung quanh giành lấy mà ăn, nên bà vội vàng che giấu thức ăn, vừa bốc cơm lên thì cơm hóa thành lửa đỏ, không dùng được.

Sau khi chứng kiến cảnh này rồi, Ngài quá đau xót, thấy mình quả thật bất lực. Ngài vội trở về trình bạch với đức Phật, khẩn thiết cầu xin Phật chỉ phương pháp cứu mẹ. Đức Phật thể theo yêu cầu của Tôn giả Mục Kiền Liên, chỉ cho phương pháp cúng dường chúng tăng trong ngày mãn hạ, tức ngày Tự Tứ. Vì ngày ấy, chư Tăng vừa qua ba tháng an cư, công đức tu hành viên mãn, nếu dâng lễ cúng dường tứ sự, sẽ được công đức rất lớn. Tứ sự là bốn thứ thức ăn, y phục, ngọa cụ, thuốc men, nói chung là vật dụng cần thiết của các vị tu hành. Chư Tăng hoan hỷ nhận những phẩm vật cúng dường này rồi, các Ngài vận dụng công đức tu tập trong suốt mùa an cư của mình, hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nhờ công đức đặc biệt của các vị Thánh tăng qua thời gian an cư, tập trung cầu nguyện có thể làm chuyển hóa tâm thức của các loài ngạ quỷ. Nhân đó mà chúng có thể siêu thăng, thoát khỏi nghiệp báo khổ đau trong địa ngục.

Quả thực, khi ngài Mục Kiền Liên vừa thiết lễ cúng dường dâng lên, mười phương các bậc hiền thánh hoan hỷ nhận lễ, trong đó có đức Phật. Nhờ sức gia bị của Phật và chư Tăng, bà Thanh Đề phát tâm kính tin Tam Bảo, bỏ lòng keo sẻn, chuyển nghiệp quỷ đói được sanh thiên. Tất cả những loài quỷ chung quanh cũng được sự chú nguyện này mà thoát nghiệp báo khổ đau trong loài quỷ, được sanh lên các cảnh giới an vui hơn.

Điểm quan trọng chúng tôi muốn nói ở đây là căn cứ từ tâm. Cũng bát cơm ấy, cũng con người ấy, nhưng nếu lòng mình chưa thật sự cởi mở, còn cố chấp, muốn một mình mình dùng bát cơm đó thôi, thì không đủ phước để hưởng bát cơm ấy. Cho nên khi được bát cơm, bà Thanh Đề sợ các quỷ đói kia xin ăn, bà ôm lòng keo sẻn chỉ muốn ăn một mình, nên bát cơm biến thành lửa dữ. Do lòng tham che mờ, mắt bà tối tăm, lòng bà cùng quẫn, không có cơ hội mở ra, nên bà vẫn bị tù hãm vây khốn. Càng bị tù hãm thì càng khổ sở đói khát, càng khổ sở đói khát thì lòng tham càng tăng trưởng, nên lửa than bốc lên đốt cháy tâm can.

Sau khi được sự hỗ trợ của đức Thế Tôn và các vị Thánh tăng bà đã phát tâm. Chữ “Phát” là mở ra, “Tâm” là lòng mình, phát tâm nghĩa là mở rộng lòng mình ra. Mở ra bằng cách nào? Ta đang đói, thấy người khác đói mình biết họ cũng khổ như mình. Nếu mình được ăn, chia sớt cho người cùng ăn, ta no họ cũng no, ta bớt khổ họ cũng bớt khổ. Đó là cách mở rộng lòng ra. Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta cách mở rộng lòng ra vì mọi người chung quanh, không nên vì mình mà quên người khác. Mình khổ, biết người cũng khổ như mình, cũng đói như mình nên thương yêu giúp đỡ nhau. Bởi nghĩ thế nên có gì, đều hướng cho tất cả mọi người chung quanh. Mình vui thì cũng hướng nguyện cho tất cả đều được vui. Đó là tinh thần phát tâm của người con Phật, cũng gọi là phát tâm Bồ-đề, phát tâm chân thật đối với tất cả chúng sanh. Đó là yếu điểm của sự tu hành.

Bây giờ trở lại đời sống thường nhật của quí Phật tử. Ví dụ, ngày xưa quí vị chỉ lo cho gia đình và bản thân mình. Xóm làng ai đi chùa được thì tốt, không đi được thì thôi, ta không biết tới, miễn mình tới chùa vui vẻ là đủ. Nhưng bây giờ không phải thế, mình thấy đạo lý hay quá, nên muốn huynh đệ chung quanh đều được nghe Phật pháp, hiểu Phật pháp như mình. Đó là mở rộng lòng ra.

Sở dĩ chúng ta đi chùa, học Phật pháp là vì muốn hết khổ, được an vui. Phật tử không muốn mình bị khống chế bởi tham sân si phiền não, không muốn bị mắc mứu bởi những tiện nghi trong cuộc sống, không muốn gây tạo những nghiệp nhân bất hảo để chịu quả khổ. Ta muốn giải tỏa những điều đó nên đi chùa, đồng thời động viên bạn bè cùng đi chùa để chung một hướng tiến. Người như thế là người biết phát tâm Bồ-đề. Trong các kinh Đại thừa, chư Bồ-tát được một bát cơm thơm, các Ngài liền nghĩ đến chúng sanh cũng cần có bát cơm thơm để được an vui, no đủ. Do đó các Ngài hướng tâm Bồ-đề, hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh đều được hưởng bát cơm này. Nhờ phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên như thế mà các Ngài tu hành đều được thành Phật. Hướng tâm của người tu Phật chúng ta là thế. Hướng tâm như vậy, mình không bị buộc ràng trong phạm vi cá nhân độc đoán riêng tư. Tinh thần này rất cần thiết để xây dựng một xã hội tốt đẹp tích cực.

Tôi nghĩ một xã hội nhỏ thôi, ví dụ như trong các xã Phước Kiểng, Hiệp Phước, Long Phước, Phước Thọ v.v.. một số quí Phật tử nòng cốt phát tâm như vậy, học hiểu như vậy, thấy rõ như vậy, áp dụng như vậy, rồi khuyến phát huynh đệ đều được như vậy, thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Xã hội rất cần những con người có tâm rộng rãi vì số đông, làm thành cho cái chung. Đó là tinh thần cởi mở, vị tha, là chân tinh thần của Bồ-tát đạo. Đó cũng là cách phát tâm Bồ-đề của hàng Phật tử.

Nhân câu chuyện của bà Thanh Đề, Phật dạy: Do lòng tham ác nặng sinh vào loài quỷ đói. Đức Phật giải thích cho ngài Mục Kiền Liên biết mẹ của Ngài, từ nhiều đời do lòng tham ác nặng nề, nên khi chết bị sinh vào loài quỷ đói. Bây giờ muốn cứu được bà thì phải nhờ sức của tập thể, của số đông. Phật nói: Như tảng đá nặng, một hai người không thể khiêng nổi. Tuy nhiên nếu có được số người đông đảo, có lực mạnh hơn thì có thể dời tảng đá đó một cách dễ dàng. Như vậy sự cầu nguyện, sự hướng tâm của chúng ta phải như lời dạy thứ hai của đức Phật. Vật nặng cần có nhiều người đồng tâm hiệp lực dời đi mới nổi.

Qua tinh thần này, chúng ta thấy sự cầu nguyện không hẳn là mê tín, tùy thái độ và tâm thành của người cầu. Trong đạo Phật cũng có cầu nguyện chứ. Ví dụ như tôi đi đường được bình yên, tôi cũng mong muốn mọi người đi đường được bình yên. Điều này không mang tính dị đoan, mà trái lại còn thực tế nữa. Bằng tấm lòng chân thật và sự hỗ trợ tích cực, chúng ta có thể hướng tâm chúc lành, trợ giúp cho nhau nhiều lắm.

Bây giờ nói thẳng vào tinh thần báo hiếu. Ngày lễ Vu Lan trong đạo Phật rất trọng đại. Nhiều chùa tổ chức lễ hoa hồng cài áo gây ấn tượng sâu đậm với mọi người. Người được cài hoa hồng thì vui vẻ, người không được cài hoa hồng thì nước mắt chảy trào. Tôi nhớ năm đó, cũng khoảng ngày hai mươi mấy tháng bảy, lúc thầy Phước Viên còn sinh tiền ở ngã ba Thái Lan. Thầy mời tôi lên dự lễ Vu Lan, có gia đình Phật tử đông đảo. Trong lễ cài hoa hồng, mấy anh gia đình Phật tử hát lời hiếu đạo, mấy chị cài hoa. Khi ấy chị Tuyết cài hoa hồng cho người ta, mà bản thân chị cài hoa trắng. Thành ra chị vừa cài vừa khóc, làm cho những bạn bè được chị tới cài hoa đều khóc theo. Sau đó chị đến đảnh lễ quí Thầy và cũng xin cài hoa, thấy chị khóc sướt mướt, có nhiều Thầy cũng muốn rơi lệ.

Quí vị thấy trong cái ổn có cái bất ổn, trong cái vui có cái không vui. Và dường như cái không vui nhiều hơn cái vui. Cuộc đời tương đối thôi. Tôi thấy các vị hơi lớn tuổi một chút, có ai được cài hoa hồng đâu? Một dãy chư tăng ngồi hai ba chục vị, số chư Tăng được cài hoa hồng hiếm lắm. Vì vậy, ngày nay để đỡ tủi, Phật tử chế ra hoa hồng vàng. Thế là quí Thầy, Cô đều bình đẳng với một màu vàng trang nghiêm rực rỡ, khỏi ai phải tủi thân nữa. Thông qua những lễ tiết nhỏ như vậy, cũng làm cho người ta dễ cảm xúc.

Ở Thiền viện tổ chức lễ Vu Lan giản dị hơn các nơi, quí ở lòng thành của chúng ta. Quí Phật tử về chùa cúng dường, rồi thỉnh quí Thầy nói chuyện cho nghe để Phật tử hiểu, áp dụng tu hành. Như vậy bớt đi những lễ tiết phụ, mà nhắm thẳng vào trọng tâm là làm sao Phật tử hiểu được đạo lý, thông suốt việc làm của mình trong tinh thần Phật dạy.

Trong những cách báo hiếu của Phật dạy, có nhiều Phật tử làm được, nhưng cũng có vị chưa làm được. Tôi nêu ra một số điều, quí vị cùng kiểm nghiệm thử xem.

Thứ nhất đối với cha mẹ, khuyên gắng tu phước, làm các việc công đức, quy y Tam Bảo, tin nhân quả, sống đời sống cao thượng theo tinh thần giác ngộ giải thoát. Điều này một số Phật tử lâu năm thấm nhuần Phật pháp, có lẽ áp dụng được. Tuy nhiên, không phải ai cũng làm được. Nhiều Phật tử nói với tôi vui lắm: “Thầy ơi! Nhiều khi con phải trốn nhà mà đi chùa, rủ không ai chịu đi hết. Thôi thì độc diễn”.

Ở đây nói khuyên cha mẹ làm phước, làm các việc công đức là thế này. Ví dụ, ngoài việc cúng dường chư Tăng Ni, quí vị có thể giúp đỡ hoặc tạo điều kiện cho cha mẹ giúp đỡ người trong xóm của mình, ai nghèo thiếu ta giúp cho họ. Không giúp được bằng tiền của thì giúp bằng công sức, bằng lời nói, hành động, đem lại an vui cho người. Đó cũng là cách tu tạo công đức lành. Luôn động viên, an ủi cha mẹ hướng tới Tam Bảo, nếu đủ duyên nữa thì quy y Tam Bảo và sống đời sống cao thượng của một người Phật tử tại gia. Trong nhà mọi người sống với nhau, trao đổi với nhau bằng tinh thần nhân quả, tinh thần vị tha sáng suốt thì rất hay. Nếu Phật tử tu tạo được như vậy, động viên các huynh đệ trong đạo tràng của mình cùng được như vậy thì tốt đẹp biết mấy!

Thứ hai là săn sóc đời sống của cha mẹ, làm sao cho cha mẹ có niềm vui thanh thản ở tuổi già. Muốn có niềm vui thanh thản thì đời sống phải có đạo lý. Nhờ hiểu đạo lý, nên tâm không bực dọc buồn khổ bởi những công việc làm ăn hay các việc khác. Điểm này là điểm làm cho người ta khổ lắm. Làm được thì cố ý giữ gìn cho còn mãi của mình, nếu bị mất đi thì khổ. Cho nên Phật nói: “Được mà muốn giữ cho còn cũng khổ. Giữ không được bị mất đi càng khổ hơn”. Được rồi thì nói là của mình. Ai đụng tới là có chuyện rầy rà. Hồi chưa được, muốn cho được chỉ là một cái khổ. Nhưng khi đã được rồi phải canh cánh giữ gìn thì thành một tòa nhà khổ rất kiên cố. Ai động đến cũng không được.

Thế nên Phật tử phải săn sóc đời sống cha mẹ theo hướng có đạo đức, có trí tuệ. Giải tỏa được tất cả những ràng buộc bởi đời sống làm ăn, tiếp cận quan hệ với mọi người chung quanh. Giúp cho tâm hồn cha mẹ được thanh thản bằng cách khuyên cha mẹ buông bỏ bớt, đừng lo cho con cháu nữa. Mỗi vị lớn khôn, phải tự biết lo liệu cho mình, để thời giờ cho cha mẹ rảnh rỗi tu hành. Cuộc sống này khi đầy khi vơi, ta làm sao cho mọi người trong gia đình có thái độ bình thản, tự nhiên trước những đổi thay đó.

Mình là người Phật tử, khi đầy cũng không quá tự kiêu rằng mình có phước, khi vơi cũng không quá tự ti rằng mình kém phước, vô duyên bạc phận rồi than Trời trách Phật không ủng hộ mình. Quí Phật tử áp dụng được như thế thì đời sống sinh hoạt tu tập không bị bất cứ một ngoại duyên nào cản trở. Nếu không chuẩn bị tinh thần như thế, chúng ta sẽ dễ dàng bị trở ngại lắm.

Tôi nói qua một vài trở ngại cho quí Phật tử thấy. Có nhiều người lúc làm ăn được thì đi chùa cúng kiến cái này cái kia cho quí Thầy, vui vẻ lắm. Nhưng thời gian sau làm ăn thua lỗ, sầu thảm không đi chùa nữa. Quí Thầy gặp hỏi: “Sao lâu quá không thấy đi chùa?” Thưa: “Lúc này con làm ăn thất bại quá, về chùa không có gì cúng kiến cho quí Thầy, con thấy xấu hổ quá”. Nếu cuộc làm ăn đó thất bại kéo dài thêm một thời gian nữa thì chắc là sẽ bỏ chùa luôn. Thành ra từ việc làm ăn mà làm cho đạo tâm bị lui sụt. Khi làm ăn lên thì đạo tâm lên, khi làm ăn xuống thì đạo tâm xuống. Như vậy làm sao tu được? Bởi đâu có ai bảo đảm được việc làm ăn của mình lên hoài. Phật tử đến với quý Thầy là để học hiểu Phật pháp, ứng dụng tu trong những lúc thăng trầm biến đổi như vậy, chớ đâu phải đến chỉ để cúng kiến. Cho nên hiểu như thế là hiểu sai lầm, vì vậy việc tu theo đó cũng sai luôn.

Tóm lại, Phật tử làm ăn được hay không được nên biết do phước nghiệp mà ra. Phước còn thì đi xe hơi ở nhà lầu, phước hết thì đi bộ ở nhà tranh cũng được. Làm sao giữ vững đạo tâm là quí. Giữ vững đạo tâm như vậy mới thấy lời Phật dạy chí lý: “Giàu sang không thật”, những cái ta được không thật. Đã không thật mà mình muốn giữ, làm sao giữ được. Cuộc đời này với bao nhiêu sự kiện bấp bênh trước mắt, chúng ta thấy rõ ràng hết rồi. Chiến tranh, thiên tai, dịch họa… bao nhiêu thứ đe dọa mạng sống của con người. Thế thì của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị có nghĩa lý gì! Trong kinh nói một cơn gió độc, một con rắn độc, một viên đạn cũng đủ cắt đứt mạng sống của mình rồi. Vậy mà con người không hiểu còn làm khổ nhau, hành hạ nhau đủ thứ chuyện trên đời. Chúng ta là Phật tử, biết tu rồi phải tránh những nhân như thế.

Phật tử muốn săn sóc đời sống tinh thần của cha mẹ, tạo cho cha mẹ có niềm vui thanh thản, chính bản thân mình phải có được niềm vui thanh thản trước. Chúng ta tự tại đối với tất cả. Tự tại có nghĩa là đối với công việc làm ăn, cái được cái mất, cái vui cái buồn, những gì quí vị nếm trải phải biết nó không thật. Như con cái trong nhà năm đứa, nhưng đâu phải quí vị dạy được hết năm đứa. Nhiều khi đứa mình thương nó lại trận thượng, phá hết tiền bạc tài sản của mình.

Đó, hiện trạng xã hội ngày nay chúng ta thấy rõ, đám trẻ con nhà có tiền nhiều được nuông chiều đã lao đầu vào xì ke ma túy, một tệ nạn mà xã hội đang trừ khử quyết liệt. Bình thường đối với cha mẹ rất thương biết, nhưng tới cơn nghiền nó không kể chi, cứ nhằm cha mẹ mà quậy phá vơ vét, đôi khi không được như ý, chúng còn hành hung nữa. Bản chất nó không phải là đứa con bất hiếu, nhưng lúc đó nó chỉ nghĩ làm sao có tiền để thỏa mãn cơn nghiền thôi. Chúng ta đừng đổ thừa cho xã hội, mà mình phải giáo dục gầy dựng lại từ đầu, giáo dục là ngay ở chỗ này. Để tránh khỏi những cái khổ trước mắtù, mình phải chăm sóc giáo dục con cháu mình một cách chu đáo. Phải thường xuyên chỉ dạy cặn kẽ những cái hay cái xấu, và cũng luôn quan tâm đến cuộc sống của nó. Nhưng nếu vì một nguyên do nào đó mà bị rơi vào con đường khổ sở như vậy, thì ta phải bình thản sắp xếp, bình thản trước những cảnh được mất, bình thản đối với tất cả những sự đổi thay chung quanh. Đó là quí vị bình thản để trả nghiệp, chuyển nghiệp. Đây là yếu điểm tu tập, quí vị học Phật rồi phải áp dụng cho được giáo pháp vào đời sống của mình. Học Phật là để sống bình thản. Trong tinh thần thứ hai này, tôi muốn nhấn mạnh đến hướng tiến tự thân của người Phật tử. Đó là bình thản an nhiên đối với tất cả các cảnh duyên. Kế đến động viên, tạo điều kiện cho cha mẹ, những người thân của mình cũng được như thế.

Thế thì có cách thức nào để chúng ta được tự tại? Chạy lên chùa tụng một biến kinh, cầu Phật hay nhờ thầy cứu con ? Không phải thế, mà bản thân mỗi người nên thấy tất cả muôn sự muôn việc trên thế gian này đều không thật. Ví dụ như đứa con bình thường thương mình, bây giờ nó hỗn láo với mình, nói những lời trái nghịch xấc xược, làm bức xúc mình. Ta là người Phật tử phải làm sao? Phải bình tĩnh dạy lại nó. Giải thích cho nó hiểu cái tốt cái xấu bằng tình thương cởi mở, chứ không dùng quyền lực ép buộc hay trấn áp nó. Không phải lên đốt nhang cầu Phật dạy cho con của con đừng nói như thế. Phật trên bệ đâu có nói được mà dạy. Cũng không phải chạy tới nói với bà nội nó: “Bà nội! Bà dạy cháu bà nghe, nó không được nói với tui như vậy”. Nói kiểu đó, con nó lại càng lộng hành hơn, vì nó bắt chước mình. Phải tự hóa giải, tự an ổn, tự bình thản trước rồi hãy dạy con.

Trong cuộc sống, mối quan hệ giữa cha mẹ con cái rất quan trọng. Nếu Phật tử có tu tập, có đời sống đạo đức thì sẽ tạo cho gia đình mình hạnh phúc. Có nhiều vấn đề đôi khi rất khó xử, nhưng nhờ ta bình thản nên sáng suốt, từ từ tháo gỡ được tất cả không khó. Quí Phật tử ở trong đạo tràng, mỗi tháng được quí Thầy nói Phật pháp cho nghe, nên cố gắng ứng dụng những gì mình học hiểu vào đời sống để gia đình luôn được an ổn vui vẻ. Như vậy mới xứng đáng là người con Phật.

Bản thân mỗi Phật tử phải sống luôn tỉnh táo sáng suốt, thành thật kiên nhẫn và có sức chịu đựng. Kiên nhẫn và chịu đựng như thế nào? Đối với hoàn cảnh hiện tại, quí vị phải kiên nhẫn gánh chịu. Thật ra hạnh phúc trên thế gian là cái gì đâu? Sinh ra lụi hụi mười bảy, mười tám tuổi có gia đình. Bắt đầu có gia đình rồi thì phải chấp nhận khuôn luật gia đình. Chồng con hay vợ con ra sao, bao nhiêu những nghĩa vụ, bổn phận đủ thứ. Nội những chuyện đó ập tới, quí vị cũng đủ bạc tóc, già trước tuổi rồi. Nhiều người ba bốn mươi tuổi, mặt đã nhăn nheo ngồi bó gối thở ra, có sung sướng gì đâu. Nếu người thiếu kiên nhẫn, không chịu đựng nổi, thì thấy như có ai lảng vảng xúi mình nhảy xuống sông, xuống hố. Thế là từ khổ này chập chồng thêm khổ khác.

Những người chịu đựng không nổi, thường đổ thừa cho hoàn cảnh gia đình bức xúc. Nói thế cũng là một cách biện luận. Hồi xưa tự mình muốn lập gia đình, chứ đâu có ai tới bắt quí vị phải như vậy đâu. Sao hồi đó chịu, rồi bây giờ nói chịu không nổi? Thật ra tại vì hồi nhỏ mình chưa biết gì thì chịu, bây giờ biết rồi than khổ. Cuộc đời này trớ trêu lắm. Cho nên không giữ được tâm bình thản, để quá phần thì dễ dẫn tới sự mất thăng bằng. Bộ chỉ huy của mình là não bộ mất thăng bằng rồi thì coi như thân thể này hết xài, vô tác dụng. Người còn biết tốt xấu thì còn có đạo lý, còn sống ra người. Nếu để mất hết lý trí, không đủ sức chịu đựng thì quí vị thấy đó, trời nắng chang chang họ vẫn trùi trụi đi ngoài đường, chẳng thấy chi. Đó là những hiện tượng bất ổn.

Là Phật tử, có sinh hoạt đạo tràng, được học Phật pháp, quí vị làm sao tu tập sửa đổi mình ngày một tốt hơn. Không phải học Phật để nhớ nhiều hoặc tính năm tính tháng, mà học Phật pháp để xem mình có sáng suốt chưa, đã bỏ những tập khí nhỏ nhen ích kỷ chưa. Học Phật pháp để phát tâm rộng rãi cầu giác ngộ giải thoát, tha thứ yêu thương người, vật v.v… Nếu ai học Phật pháp mà chưa làm được những điều đó thì phải ráng lên. Quí vị nhớ người Phật tử phải sáng suốt, phải chân thật, phải kiên nhẫn, có sức chịu đựng để giải trừ tất cả những nghiệp xấu của mình. Giữa cuôïc đời này ai nhát gan, không chịu đựng nổi thì sanh chuyện dữ lắm. Nhiều chuyện không ra gì mà do ta không chịu đựng nổi nên thành lớn chuyện.

Ngoài ra Phật tử còn phải có nếp sống đạo hạnh, khép mình trong giới luật. Người Phật tử nào áp dụng được Phật pháp, chúng ta nhìn vào phong thái của họ sẽ thấy rõ, khoan dung độ lượng, trang nghiêm mực thước. Gia đình Phật tử nào có áp dụng Phật pháp, thấm nhuần Phật pháp, nhìn vào tổ chức của họ rất tốt đẹp, an vui. Khi mà nội dung bên trong có rồi, tự nó biểu hiện ra ngoài rõ ràng, không cần ai phải giới thiệu quảng cáo. Đó là những điều cần thiết đối với đời sống của hàng Phật tử tại gia.

Quí Phật tử nhớ, luật nhân quả rất quan trọng trong đời sống. Chúng ta lờ mờ đối với nhân quả hoặc không tin nhân quả thì sẽ gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, dẫn đến kết quả đau khổ vô cùng. Hễ gây nhân rồi thì phải chuốc quả. Người không đủ sáng suốt đã tạo nghiệp nhân xấu nào, phải nhận chịu quả báo tương ứng như thế. Ví dụ, ban đầu người ấy không muốn hút xì ke, mà do bạn bè dụ dỗ, kẻ ấy để dính vô cái đó rồi thì thành nghiền, sau đó chuốc khổ.

Trong cuộc đời có nhiều trường hợp bất hạnh như vậy, nhưng không thể đổ thừa hết cho hoàn cảnh. Chủ yếu là tại đương sự không kiên quyết, không tỉnh táo sáng suốt. Bạn bè nói gì thì nói, ta không nghe thì thôi. Tại mình yếu đuối, đến khi gặp khổ cũng khiếp nhược không dám chịu trách nhiệm về sự sai lầm của mình, lại đổ thừa cho hoàn cảnh chung quanh. Đạo Phật không chấp nhận những người có thái độ nhu nhược, thiếu tỉnh táo như thế.

Ở đây nói rõ hơn về nhân quả. Chữ “Nhân” là nhân tố, “Quả” là hậu quả. Người học Phật pháp, biết rõ gây nhân xấu thì sẽ đưa đến hậu quả xấu. Muốn được quả tốt, không bao giờ ta gây nhân xấu, rõ ràng như vậy. Nhiều người cứ gây bừa, không áp dụng theo tinh thần nhân quả, gây nhân xấu nhiều, nhân tốt ít. Nhưng đến khi hậu quả tới thì kêu trời, khấn Phật cứu con. Phật trời nào cứu được. Nhân đó của mình gây, chứ Phật đâu có gây mà đòi Ngài sửa quả cho mình. Do vậy quý vị phải sáng suốt, không gây nhân xấu thì không bị quả xấu.

Hằng ngày chúng ta kiểm lại từ sáng tới chiều, vừa thức dậy ăn cơm, nói chuyện, đi làm… xem mình có phạm sai trái gì không, tâm tình như thế nào, đời sống ra sao? Kiểm lại từ sáng tới tối mình chưa hề có niệm xấu, tức là không gây những nhân xấu ác. Đó là một ngày vui, ta có quyền để vào trong lon một hạt đậu trắng, vì biết mình không gây nhân xấu thì không bao giờ có quả xấu tới, rõ ràng như vậy. Căn cứ từ nhân quả mà tu, quí vị khỏi phải tốn tiền với mấy ông thầy bói. Bởi chúng ta không gây nhân xấu thì không có quỷ ma nào làm gì mình được. Còn nếu đã gây nhân xấu, dù có đút lót mấy ông thầy bói bao nhiêu tiền, hậu quả xấu mình cũng phải gánh chịu thôi. Ví dụ, người thụt két hay tham lạm tiền của người khác, thầy bói báo trước: “Coi chừng ở tù nghe con”. Nếu người ấy không có tiền bù vô, chạy đằng nào đi nữa thì cũng vô tù thôi, chuyện đó dĩ nhiên như thế.

Cho nên ai phủ nhận nhân quả thì cuộc đời họ đáng sợ lắm, dù hiện tại là người gì, Vua chúa Đế vương cỡ nào cũng không thoát được lưới nhân quả. Đối với vấn đề nhân quả, Phật tử chúng ta nên quan tâm. Học đạo phải thông nhân quả. Chính chúng tôi cũng vì lo nhân quả nên ráng tu. Ngày xưa có một vị tăng thọ nhận của đàn na mà tu không ra gì, tới chừng chết phải trả nợ cũ bằng cách đầu thai làm khúc gỗ mục, sanh nấm mèo quanh năm cho chủ nợ ăn. Hồi đó người ta cúng cho mình ăn, mà tu không thành tựu gì hết, thì bây giờ thành khúc cây mục để lên nấm cho người ta ăn.

Cũng vậy, nếu như ai sợ bị người hại thì mình đừng có tâm hại người, đó là sống đúng luật nhân quả. Muốn người ta không cướp giật của mình thì ta đừng khởi tâm tham của người. Muốn gia đình mình được hạnh phúc thì đừng phá hại hạnh phúc gia đình người. Đó là những điều luật thông thường, người thế gian còn biết huống nữa là Phật tử. Đối với vấn đề nhân quả, nắm rõ tin sâu, sau đó sắp xếp mọi việc trong gia đình không khó. Người sống đúng luật nhân quả sẽ thể hiện được tinh thần tu tập đúng chánh pháp của hàng Phật tử tại gia.

Trở lại vấn đề báo hiếu của người con Phật. Nhiều vị quan niệm rằng: Người xuất gia như chư Tăng chúng tôi không làm tròn được hiếu đạo, vì bỏ cha mẹ đi tu. Nhưng trong kinh Phật, nhất là những kinh thuộc về nhân quả, Phật lại nói nhiều về hiếu hạnh. Tinh thần hiếu hạnh của đạo Phật rất cao siêu, chính hàng xuất gia chúng tôi mới có thể thực hiện trọn vẹn hiếu hạnh đối với song thân, chớ không phải bất hiếu như nhiều người lầm tưởng. Bởi vì không phải chỉ có lo miếng cơm manh áo cho cha mẹ là đủ báo đáp thâm ân sanh thành dưỡng dục. Mà làm sao cho cha mẹ thức tỉnh, chuyển đổi tâm xấu thành tâm lành, giúp cha mẹ thoát khỏi sự thống khổ trong các đường dữ mới là người con chí hiếu.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.