Chuyển Pháp Luân và Tứ Diệu Ðế – Phần 1

Phần I – CHUYỂN PHÁP LUÂN

I-1 BỐ CÁO KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN (DHAMMACAKKAPPVATTANASUTTÀRAMBHO)

Anuttaram abhisambodhim sambujjhitvà tathàgato. Pathamam yamadesesi, dhammacakkam anuttaram. Sammadeva pavattento loke appativattiyam.

Ðức Như Lai là Ðấng Giáo Chủ, đã chứng bậc Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, những pháp trong thế gian chẳng ai hành được, Ngài có thể làm cho hành theo được rất chơn chánh.

Yathàkkhàtà ubho antà, patipattica majjhimà. Catùsvàriyasaccesu, visuddham nànadassanam.

Ngài chuyển Pháp Luân lần đầu giảng giải về 2 pháp thái quá, là pháp thấp thỏi, cùng con đường Trung đạo và Trí tuệ hiểu thấy phân minh Tứ Diệu Ðế là trí tuệ thanh bạch.

Desitam dhammaràjena. Sammàsambodhikittanam. Namena vissutam suttam.

Nay tôi tụng kinh Chuyển Pháp Luân của đức Chánh Biến Tri, là bậc Pháp vương đã diễn giải chắc chắn.

Dhammacakkappavattanam. Veyyàkakaranapàthena, sangìtantam bhanàmase.

Kinh ấy công bố về quả Chánh Biến Tri, mà các bậc A Xà Lê đã hội họp kết lập, chỉnh đốn theo Phạn ngữ (Pali) bằng văn thường, không lẫn lộn kệ ngôn.

I-2 KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN (DHAMMACAKKAPPAVATTANASÙTRA)

Evam me sutam.

Tôi (tên là A Nan Đa) được nghe lại như vầy:

Ekam samayam bhagavà bàrànasiyam viharati isipatane migadàye.

Thưở đức Thế Tôn ngự tại rừng Hưu (Isipatanamigadayavana) gần thành Bàrànasì.

Tatra kho bhagavà pancavaggiye bhikkhù àmantesi.

Ðức Thế Tôn một hôm gọi 5 thầy Tỳ Khưu, ngụ nơi ấy, dạy rằng:

Dveme bhikkhave antà pabbajitena na sevitabhà.

Này các thầy Tỳ Khưu! Hai pháp thái quá, là pháp tu thấp thỏi. Những bậc xuất gia, chẳng nên xu hướng theo, chẳng nên hành theo.

Katame dve?

Hai pháp thái quá ấy, thế nào?

Yo càyam kàmesu kàmasukhallikà nuyogo hìno, gammo.

Một là pháp làm cho thân tâm quyết luyến theo tình dục, pháp hèn hạ.

Pothujjaniko, anariyo.

Pháp của kẻ thế, pháp của phàm nhơn, chẳng phải của bậc cao nhơn.

Anatthasanhito.

Chẳng có lợi ích chi.

Yocàyam attakilamathànuyogo dukkho.

Hai là, pháp làm cho khổ khắc thân tâm, nhân làm cho thân hình đau đớn

Anariyo.

Chẳng phải là pháp của bậc cao nhơn.

Anatthasanhito

Chẳng có lợi ích chi.

Ete kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimà patipatà. Tathàgatena. Abhisamnuddhà cakkhukaranì nànakaranì upsamàya abhinnàya sambodhàya nibbànàya samvattati.

Này các thầy Tỳ Khưu! Sự tu hành theo con đường giữa, không thiên theo 2 con đường thái quá ấy, mà Như Lai đã được đại ngộ, là pháp làm cho phát sanh, sự thấy biết phân minh, sự an tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ.

Katamà casà bhikkhave majjhimà patipadà tathàgatena abhisambuddhà cakkhukatanì nànakaranì upasamàyasambodhàya nibbàya samvattati.

Này các thầy Tỳ Khưu! Phép tu hànhh theo con đường giữa, mà Như Lai đã được đại ngộ, là sự tu hành cho pháp sanh trí tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh chính xác, sự an tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ ấy là thế nào?

Ayameva ariyo atthangiko maggo

Là Bát Chánh Ðạo, pháp như con đường có 8 chi cao thượng.

Seyyathidam?

Bát Chánh Ðạo ấy thế nào?

Sammàditthi, Sammàsankappo, Sammàvàcà, Sammàkammanto, Sama-àjìvo, Samàvàyamo, Sammàsati, Sammàsamàdhi

Thấy hiểu chơn chánh, Suy nghĩ chơn chánh, Nói lời chơn chánh. Nghề nghiệp chơn chánh, Nuôi mạng chơn chánh, Tinh tấn chơn chánh, Tư tưởng chơn chánh, Ðịnh Tâm chơn chánh.

Ayamkho sà bhikkhave majjhimà patipadà tathàgatena abhisambuddhà cakkhukaranì nànakaranì upasamàya abhnnàya sambodhàya nibbànàya samvattati.

Này các thầy Tỳ Khưu! Bát Chánh Ðạo là con đường giữa, mà Như Lai đã đi và được đại ngộ, là sự tu hành theo, cho đặng phát sanh tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh thật tướng, tu cho đặng sự an tịnh, cho có trí tuệ, cho đặng hiểu biết chơn chánh, cho đặng dứt khổ.

Idam kho pana bhikkhave dukkham ariyasaccam jàtipi dukkhà, jaràpi dukkhà, byâdhipi dukkhà, maranampi dukkham, (soka parideva dukkhado ma nassupàyàsàpi dukkhà) appiyehi sampayago sukkho, piyehi vippayogo dukhho, yampiccham na labhati, tam po dukkham.

Này các thầy Tỳ Khưu! Sanh, là sự hội hợp Ngũ Uẩn, là nhân đem đến sự khổ. Lão là sự già cả yếu đuối, cũng là nhân đem đến sự khổ, bịnh là sự đau ốm, cũng là nhân đem đến sự khổ. Tử là sự tan rãn Ngũ Uẩn, cũng là nhân đem đến sự khổ. U?t ức, bực tức trong lòng, không bày tỏ ra được, cũng là nhân đem đến sự khổ. Không ưa mà hợp, cũng là nhân đem đến sự khổ; ưa mà phải lìa, cũng là nhân đem đến sự khổ.

Sankhittena pancuppàdànakkhandhà dukkhà.

Các sự thống khổ đầu hết có sanh khổ ấy, gọi là Khổ Diệu Ðế.

Idam kho pana bhikkhave dukkhasamudayam ariyasaccam yàyam tanhà ponobbhavikà nandiràgasahagatà.

Này các thầy Tỳ Khưu! Sự thương muốn hằng tạo ra kiếp thoát sanh mới, do bởi tình dục là mối ham muốn trong lòng, thường thường ưa thích điều vui sướng theo các cảnh giới. Sự thương muốn ấy là thế nào?

Tatra tatràbhinandinì seyyathi damkàmatanhà bhavatnhà vibhavatannhà.

Sự thương muốn ấy là:

– ca má tanh ha (kàmatanhà): Ái dục trần thế dục giới.
– phá qua tanh ha (bhavatanhà): Ái dục sanh trong sắc giới (vì thường kiến).
– quí phá quá tanh ha (vibhavatanhà): Ái dục sanh trong vô sắc giới (vì đoạn kiến).

Có 3 sự thương muốn ấy gọi là Khổ Tập Diệu Đế.

Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodhayam ariyasaccam yo tassàyeva tanhàya asesaviràganirodho càgopatinis saggo mutti anàlayo.

Này các thầy Tỳ Khưu! Cách dứt khỏi sự thương muốn, chẳng còn dư sót do nhờ Bát Chánh Ðạo. cách tránh khỏi Ái dục chẳng còn dư xót, do nhờ Bát Chánh Ðạo ấy, gọi là Diệt Khổ Diệu Đế.

Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam ayameva ariyo atthangiko maggo seyyathìdam samàditthì sammàsankappo sammvàcà sammàkammanto sammaààjìvo sammàvàyâmo sammàsati sammàsamàdhi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Bát Chánh Ðạo cao thượng ấy là thế nào? Là: Hiểu biết chơn chánh, Suy nghĩ chơn chánh, Nói lời chơn chánh, Nghề nghiệp chơn chánh, Nuôi mạng chơn chánh, Tinh tấn chơn chánh, Tư tưởng chơn chánh, Ðịnh tâm chơn chánh.

Bát Chánh Ðạo ấy gọi là Diệt Khổ Đạo Diệu Ðế.

1. Idam dukkham ariyasaccan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Đây là Khổ Diệu Đế như thế .

2. Tam kho padidam dukkham ariyasaccam parinneyan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng Khổ Diệu Đế nầy, nên ghi nhớ bằng Trí tuệ như thế .

3. Tam kho padidam dukkham ariyasaccam parinnatan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng Khổ Diệu Đế nầy, Như Lai đã ghi nhớ được rồi như thế .

4. Idam dukkhasamudayam ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Ðây là Khổ Tập Diệu Ðế như thế.

5. Tam kho panidam dukkhasamudayam ariyasaccam pahàtabban ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được thấy, hiểu rằng: Khổ Tập Diệu Ð? này phải dứt trừ như thế.

6. Tam kho panidam dukkhasamudayam ariyasaccam pahìnan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được thấy, được hiểu rằng: Khổ Tập Diệu Ð? này Như Lai đã hành được phân minh như thế.

7. Idam dukkhanirodham ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Ðây là Khổ Diệt Diệu Ðế như thế.

8. Tam kho panidam dukkhanirodham ariyasaccam sacchikàtabhan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, hiểu rằng: Khổ Diệt Diệu Ð? này, phải hành cho phân minh như thế.

9. Tam kho panidam dukkhanirodham ariyasaccam sacchikàtan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, hiểu rằng: Khổ Diệt Diệu Ð? này, Như Lai đã hành cho phân minh như thế.

10. Idam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, hiểu rằng: Ðây là Diệt Khổ Đạo Diệu Đế như thế.

11. Tam kho panidam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam bhàvetabban ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt Khổ Đạo Diệu Ð? này, phải hành cho tăng tiến như thế.

12. Tam kho panidam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam bhàvitan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.

Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt Khổ Đạo Diệu Ðộ này, Như Lai đã hành cho tăng tiến rồi như thế.

Yàvakivanca me bhikkhave imesucatùsu ariyasaccesu evam tiparivattam dvàdasàkàram yathàbhùtam nànadassanam na suvisuddham ahosi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Bao giờ tuệ biết rõ, thấy rõ theo lẽ chánh, ba luân, mười hai thể vận chuyển trong Tứ Diệu Ðế ấy chưa phát sanh trong sạch đến Như Lai.

(Ba luân là: Tuệ thấy rõ Diệu đế, Tuệ thấy rõ “sự” trong Diệu Ðế. Tuệ thấy rõ “sự” trong Diệu Ðế đã hành rồi, trong 3 luân ấy vận chuyển như bánh xe. Mỗi Diệu Ðế có 3 luân, bốn Diệu Ðế thành: 3×4=12 thể )

Neva tàvàham bhikhave sadevake loke samàrake sabramake sassamanabramaniyà pajàya sadevamanussàya anuttaram sammàsambodhim abhisambuddho paccannàsim.

Này các thầy Tỳ Khưu! Trong khi Như Lai chưa có sự hiểu biết cao siêu hơn trong các thế giới luôn cả cõi trời, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, trong vòng nhất thiết, chúng sanh, luôn cả bậc Sa Môn và Bà La Môn, thì Như Lai cũng chưa gọi mình là bậc chứng quả Chánh Biến Tri vậy.

Yato ca kho me bhikkhave imesu catùsuariyaccsu tiparivattam dvàdasàkàram yathàbhùtam nànadassanam suvisuddham ahosi.

Này các thầy Tỳ Khưu! Khi nào tuệ biết rõ, thấy rõ theo lẽ chánh, có ba luân, mười hai thể theo trong Tứ Diệu Ðế ấy đã phát sanh trong sạch đến Như Lai.

Athàham bhikkhave sadevake loke samàrake sabramake sassamanabràmaniyà pajàya sadevamanussàya anuttaram sammàsambodhim abhisambuddho ti paccannàsim.

Này các thầy Tỳ Khưu!Thì Như Lai được gọi là bậc Vô Thượng Chánh Biến Tri vì trong các thế giới luôn những cõi trời, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, trong vòng nhất thiết chúng sanh, luôn cả bậc Sa Môn và Bà La Môn, cùng chư nhơn và ngoài hạng người ra nữa, chẳng có sự hiểu biết nào, cao siêu hơn sự hiểu biết của Như Lai.

Nananca pana me dassanam udapàdi akuppà me vimutti, ayamantimà jati natthi dàni punabbhavoti.

Tuệ biết rõ, thấy rõ đã phát sanh cho nên Như Lai sự giải thoát phiền não của Như Lai chẳng còn lay động biến đổi nữa, kiếp này là kiếp chót, từ đây Như Lai chẳng còn thọ sanh ra kiếp khác nữa

Idamavoca bhagavà attamanà panca vaggiỳa bhikkhù bhagavato bhàsitam abhinandunti.

Ðức Thế Tôn giải kinh “Chuyển Pháp Luân” rồi, năm thầy Tỳ Khưu phát lòng hoan hỷ vô hạn.

Imasmimca pana veyyàkaranasmim bhannassa virajam vìtamalam dhamma cakkhum udapadi, yamkinci samudayyadhammam sabbantamnirodhadhamman ti.

Trong khi đức Như Lai giảng giải về kinh vô kệ này, thì pháp nhãn là đạo Tu đà hườn, đạo diệt trừ bụi nhơ là tình dục, phát sanh đến Kiều Trần Như, ngài đã biết rõ: Cái chi có tánh cách sanh tự nhiên, đều có tánh cách diệt tự nhiên.

Pavattile ca bhagavatà dhammacakke bhummà devà sadamanussà vesum etam bhagavatà bàrànàsiyam isipatane migadàya anuttaram dhamma – cakkam pavattitam appativattiyam samanena và bràmanena và devenavà màrena và bramunà và kenaci và lokasmin ti.

Khi đức Như Lai giảng giải kinh Pháp Luân vừa dứt, tất cả Chư Thiên ngự trên địa cầu bèn ca tụng rằng, bánh xe pháp này là bánh xe vô thượng, những Sa Môn, Bà La Môn, Chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hoặc một bậc nào trong thế giới đều không diễn giải được. Chỉ có đức Như Lai Ngài đã diển giải rồi, trong rừng Isipatanamigadàyâ, gần thành Bàrànasì.

Bhummànam devànam saddhamsutvà càtummahàràyikà devà saddama nussàvesum: “etam bhagavatà bàrànasìyam isipatanamigadàyà anuttaram dhammacakkam pavattiyam appativattiyam samanena và bràhmanena và devena và màrena và brahmunà vàkenaci và lokasmin” ti.

Chư Thiên trong cõi Tứ Ðại Thiên Vương được nghe tiếng ca tụng của chư thiên ngự trên địa cầu, rồi bèn đồng nhau ca tụng theo lời ngợi khen ấy.

Càtummahàràjikànam devànam saddam sutvà tàvatimsà devà sadamanussà vesum.

Chư thiên trong cõi trời Ðạo Lợi được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Tứ Ðại Thiên Vương, rồi liền ca tụng y như thế ấy.

Tàvatimsànam devànam saddam sutvà yâmà devà saddamanussàvesum.

Chư thiên trong cõi trời Dạ Ma được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Ðạo Lợi rồi cũng đều ca tụng lời ngợi khen ấy.

Yàmànam devànam saddam sutvà tusidà devà saddamanussàvesum.

Chư thiên trong cõi trời Ðâu Suất Ðà được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Dạ Ma, rồi cũng rập nhau ca tụng theo nữa.

Tusitànam devànam saddam sutvà nimmànaratì devà saddamanussàvesum.

Chư thiên trong cõi trời Hoá Lạc Thiên được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Ðâu Suất Ðà rồi đồng thinh ca tụng tiếp theo.

Nimnànaratìnam devànam saddam sutvà paranimmitavasavattì devà saddamanussàvesum.

Chư thiên trong cõi trời Tha Hoá Tự Tại, được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Hoá Lạc Thiên rồi đồng nhau ca tụng lời ngợi khen ấy.

Paranimmitavasavattìnam devànam saddam sutvà brahmakàyikà devàsaddamanussavesum: “etam bhagavatà bàrànasìyam ispatane migadàye anuttaram dhammacakkam pavattitam appativattiyam samanena và bràhmanena và devena và màrena vàbràhmunà và kenaci và lokasmin” ti.

Chư thiên trong hàng Phạm Thiên, được nghe tiếng của chư thiên trong cõi trời Tha Hoá Tự Tại rồi, cũng lập lại lời ca tụng như vầy: Chẳng có Pháp Luân nào cao siêu hơn Pháp Luân này, chư Sa Môn, Bà La Môn, chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hoặc một người nào trong các thế giới cũng chẳng diễn giải được, chỉ có đức Như Lai Ngài đã giảng giải rồi, trong rừng Isipatanamigadayavana, gần thành Bàrànasì.

Itiha tena khanenatena layenatena muhuttena yâva brahmalokà dasasahssì lokadhàtu sankampi sampakampi sampavedhi.

Tiếng ca tụng liên tiếp vang dội đến cõi Phạm Thiên chỉ trong nháy mắt. Do sự truyền báo ca tụng mà cả 10.000 thế giới thảy đều rung động, luôn cả trên dưới và các phương.

Appamàno ulàro obhà loke pàturahosi atikkamma devànam devànubhàvanti.

Có cả hào quang rực rỡ vô cùng vô tận, cao siêu hơn tất cả hoà quang của chư thiên, chiếu diệu trong thế giới.

Atha kho bhagavàimam udànam adànesi “annasi vata bho kondanno” annasi vata kondanno ti”.

Liền đó đức Như Lai là Ðấng Giáo Chủ, bèn lên tiếng rằng: Kiều Trần Như đã được đại ngộ, A Nhã Kiều Trần Như đã được đại ngộ.

Iti hitam àyasmato kondannassa annàsi kondanna tveva nànam ahosìti.

Từ đây A Nhã Kiều Trần Như được gọi là đức Kiều Trần Như.

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.