Áo Dài Việt Nam

Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó   được, và có quý   trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương   lai”. Ðó là lời của   cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này   muốn gửi đến các bạn   trẻ và những ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn   hóa dân tộc.  Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đã   ghi lại rất  nhiều   nét đan thanh không những qua ca dao tục ngữ mà còn qua   điêu khắc, hội   họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng   thời gian tìm về   nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà   áo thướt tha bay   lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như   trống đồng Ngọc Lũ,   Hòa Bình, Hoàng Hạ… từ trên ba ngàn năm trước.

Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với   lịch sử dân tộc để   lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua   cả mười thế kỷ bị  Trung Hoa đô hộ – một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương   diện – rồi ngót   một thế kỷ dưới ách thống trị của Pháp – quốc gia   đứng hàng đầu về thời  trang quốc tế – tà áo dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung   bay, biểu dương   tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh,   và khiếu thẩm   mỹ của người Việt. Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô   hộ, dân ta đã bao phen   bị người Tàu ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc   bím đuôi sam, đàn   bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy,   mọi người đều phải để   răng trắng không được nhuộm…  Nhưng những cổ vật   tiền nhân để lại cho  thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và   váy.  Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo   tứ thân nhưng   khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc   lại. Áo mặc phủ   ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa   các bà các cô   búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ   lông chim dài; về sau   bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá,   nón thúng. Cổ nhân   xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày.  Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao   lãnh được thu   gọn lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng  để tiện việc gồng   gánh, nhưng vẫn không làm giảm nét đẹp của người nữ.

Vẻ yêu kiều, nét   duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân  được mô tả rõ rệt   qua bài ca dao Mười Thương:  Một thương tóc bỏ đuôi gà    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên    Ba thương má lúm đồng tiền   Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua    Năm thương cổ yếm đeo bùa    Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng    Bẩy thương nết ở đoan trang   Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh    Chín thương cô ở một mình    Mười thương con mắt hữu tình với ai?  Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ   thân có mầu nâu   non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn,   nhưng trong những   dịp hội hè đình đám cưới hỏi, áo được may bằng   hàng the, nhiễu, thao,   lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào   và phủ lên chiếc   váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ   hay mầu cánh chả   bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung   hoặc vấn   trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón  thương quai thao, lưng   đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo   chuỗi hạt vàng,   chân mang giày dừa, dép cong.

Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam   cả mấy ngàn năm trong   khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ   còn xuất hiện trong   cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ   thứ ba sau Tây   lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi   chiếc quần xuất hiện   dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào   đất Tàu. Phụ nữ   Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà   Thanh năm 1774,   mặc kiểu áo xường xám không có… quần! Trong thời gian   đó, truyền   thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế   kỷ mười bảy như đã ghi   trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông,   tháng 3 năm 1665   với sắc lệnh nhắc nhở: ”… áo đàn bà con gái không   có thắt lưng, quần   không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ…” Tuy   nhiên, thời trang   Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành   chế biến kiểu   áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng   hơn.

Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt   trước là một   vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của   áo tứ thân nay trở   thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở   áo lót. Mỗi   vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ   mẫu, và vạt con   nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho   người mặc áo. Vạt   con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và   khép kín nhờ năm chiếc   khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho   giáo: Nhân,   Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá   trị cao quý   của người nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn   gói ghém nhân sinh   quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi   thành thân có   cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân   phụ mẫu, luôn tôn   trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở có   nhân nghĩa trên kính   dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận   tính toán và giữ   vững niềm tin nơi người. Áo ngũ thân đi đôi với quần  hai ống và khăn   đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam. Các bà các   cô dùng mầu sắc óng   ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen,  trắng, hoặc lam   thẫm.  Một kiểu thời trang mới đưa ra bao giờ cũng xuất phát   từ thành thị và   phải mất cả chục năm – nếu không bị đào thải – mới  được phổ biến sâu   rộng về thôn quê.

Do đó, có thể nói rằng bộ áo ngũ   thân xuất hiện vào   khoảng đời vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn Phúc. Sở dĩ   có sự ước   đoán này, vì mặc áo dài thì phải mặc quần chớ không   thể mặc váy. Và   1763 năm sau khi vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà mặc váy,   thì vào năm Minh   Mạng thứ 9 tức là năm 1828, triều đình Huế ra chiếu   chỉ cấm đàn bà mặc   váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian có câu ca   dao than vãn:

Chiếu Vua mồng sáu tháng ba
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì… lột quần chồng sao đang!
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan! 

Trước sự than vãn và chống đối của giới nữ, phe đàn   ông con trai an ủi   vỗ về:

Trúc xinh trúc mọc ngoài sân
Em xinh thì váy hay quần vẫn xinh! 

Từ chiếc áo ngũ thân, vạt con nấp sau vạt trước   được cắt ngắn bớt cho   gọn, và đó là hình dáng chiếc áo dài Việt Nam, còn giữ   lại cho đến bây   giờ. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà   giàu, có những   cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức   là nhiều lớp áo mặc   chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc   áo the mỏng phủ   ngoài áo dài trắng bên trong. Các kiểu trang sức thì đeo   chuỗi hạt   trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn…   Tóc vẫn còn để   dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn   khăn nhung, trời   lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. Từ đôi guốc gỗ thô   sơ, các bà các cô   có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc,   hoặc những đôi dép   da bóng.

Tuy nhiên, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng   ở kiểu áo   ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang   phục.  Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh   hưởng Tây phương,   bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng   một lần nữa, tinh   thần bất khuất của dân tộc Việt lại được biểu lộ   qua chiếc áo dài. Việt   Nam thoát ách đô hộ của người Tàu không bao lâu thì   lại rơi vào tay   người Pháp. Khi văn hóa Lang-sa tràn vào nước ta thì chữ   Quốc ngữ thay   thế chữ Nôm và Hán, và cách ăn lối ở của ta cũng lần   lần thay đổi và cố   nhiên áo quần cũng chịu ảnh hưởng. Một nhân vật có   tên là Cát Tường – có   người cho biết đó là một họa sĩ tên là Nguyễn Cát   Tường – tung ra kiểu   áo dài mới mệnh danh áo Lemur. Chữ Lemur viết trại theo   danh từ Pháp le   mur có nghĩa là cái tường viết trại tên họa sĩ Cát   Tường.  Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn   cổ xúy cải cách   xã hội, và được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa,   gây chấn động tại   các đô thị, nhất là tại Hà Nội, nơi từng được   mệnh danh là đất ngàn năm   văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương   nối vai ráp tay   phồng, cổ bồng, cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo   bạo hơn được khoét   rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng   vải mới sản xuất hoặc   nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời   đó, nhưng vẫn giữ   nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không   được mềm mại,   được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan”   mỏng quấn lơi quanh cổ   để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần   dài trắng, chân mang   giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng.

Phụ nữ   thời đại cải   cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc   vấn trần hoặc búi   lỏng, rẽ ngôi lệch. Hồi đó, ngay tại cố đô Huế nơi   có triều đình Việt  Nam và Tòa Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời a dua   mặc ”mốt” Lemur,   và dân Huế có bài vè như sau:

Vè vẻ vè ve
Nghe vè ”mốt” áo
Bận áo lơ-muya
Ði giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Ði chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cổi liền lơ-muya!

Tại Hà Nội, cây bút châm biếm thời đại Tú Mỡ cũng   có bài nhại Mười   Thương về áo tân thời như sau:

Một thương tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tý ”nữ quyền” giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương… thôi để mình ta thương mình! 

Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời   Tâm Sự của   Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài   thơ giễu nhẹ   các cô tân thời:

Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa
Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!  

Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ   chạy đua theo thời   trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng   mô tả tỉ mỉ trong  tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà   thủ cựu đã không ngần   ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà   đã xé toang vạt   áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường   phố Hà Nội.  Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm   1934, họa sĩ Lê   Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây   phương táo bạo để   dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay,   không tay   phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn   nhưng ôm sát thân   người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn. Chiếc áo   dài canh tân này   được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà   Nẵng năm 1934 với   gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh   và đồ thêu đan,   đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng   tóc búi lỏng hoặc   vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung   hòa được mới   với cũ để tôn vinh những nét đẹp của người nữ và   tìm được nhân dáng   chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ.

Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có   nhiều thay đổi lớn   ngoại trừ cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi   kín lúc hở;   chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi   lớn lúc   nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng   thay đổi từ   kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng   nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa   kéo kiểu Tây   phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc   ống túm.  Cho đến cuối thập niên 1950, áo dài Việt Nam theo dòng   lịch sử thay đổi   từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một   nhân vật nữ: Bà Ngô  Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố   Tổng Thống Ngô Ðình   Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển   Lãm Nữ Công   tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu   xuất hiện với kiểu   áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao.   Một số các bà   các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo   kiểu mới hở cổ:   Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim… Nhưng bà   Nhu lộng quyền   thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp   nơi. Nhiều vụ xuống   đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xảy ra để bày tỏ   chống đối. Chiếc áo dài   cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với   kiểu áo dài cổ   cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo   không cổ của bà Nhu   cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một.  Ðầu thập niên 1960, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một   kiểu mới: Áo   dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập   nhật này giúp xóa   bớt những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp   tay xéo vai, nên   thân hình người nữ được ôm gọn trong hàng lụa một   cách đầy thẩm mỹ.

Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu   mini-raglan tay   ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các   bà thích kiểu   maxi-raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng   hàng mềm xếp   xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà   mỗi bước đi thấp   thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới song lụa. Nhiều   người còn cầu kỳ hơn,   may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu   điệu.  Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà   gồm thân sau   nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo   tứ thân xưa,   gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả   mặc với quần tây kiểu   chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có   kiểu quần ”bell   bottom”.  Cuối thập niên 1960, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay   hay là mặc nguyên   một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa   nội hóa trông rất   dịu dàng khả ái.

Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc   nguyên bộ mầu sắc đỏ   chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ. Từ kiểu Raglan   có nhiều kiểu   biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng phía   ngực và tay ráp   bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu   với hai tay, có khi   là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt,   và có khi may bằng   hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn   nhắc nhở đến ngày   xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự   giàu có của mình.  Nữ sinh Việt Nam trước 1975 đến trường đều thường   là ”áo trắng học   trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo   trắng nữ sinh Ðồng   Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo   hồng Gia   Long… những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương   qua thơ nhạc.

Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân   chủ, kể từ thời Ðệ   nhất Cộng hòa (tháng 7-1954), hầu hết các cô dâu đều   mặc quốc phục áo   dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo   mệnh phụ hoặc áo   hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàng. Ý hẳn đó   là ngày nàng trở   thành một bậc mệnh  phụ và bước lên ngôi hoàng hậu   trong cuộc đời của   chàng vậy.  Từ cuối thập niên 1960, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra   những mẫu   hàng thêu hoa lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon   Souvenirs khu   Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu hàng vừa vẽ   vừa thêu trên lụa   rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn   trước 1975 là   nhà may Thanh Khánh – nay mở tại Paris, Pháp – nhà may Dung   Dakao và   nhà may Thiết Lập Pasteur – nay mở tại đường Brookhurst,   Garden Grove,   California, Hoa Kỳ.     Như trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn   liền với lịch sử   dân tộc. Sau biến cố30 tháng Tư năm 1975, chiếc áo dài   cũng theo những   bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính   trên quê hương   mình có một thời gian đã đẩy lùi chiếc áo dài vào   bóng tối hoặc chôn   kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong   dịp cưới hỏi lễ lạc.   Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay   Á, chiếc áo dài  được nâng niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người   Việt là ở đó có áo   dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu,   áo vẽ… kể cá   áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử.

Phẩm chất, mầu   sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp   với trình độ thẩm mỹ  khá cao.  Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến   Thành Lễ Hoàng Ðình   Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo   bạo như áo dài hở   ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ có một tay   kiểu… độc thủ nữ   hiệp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu… lính   thú đời xưa, áo dài   năm lớp hàng mầu v.v… Ðặc biệt các kiểu áo dài mới   của Thành Lễ đều   mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo   sự bắt mắt. Rất may,   đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai tà áo   bất khuất bay lượn,   nét đặc biệt của áo dài Việt Nam.  Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át   những mẫu áo thêu   loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời   xưa, đồng thời   với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai.

Nhiều   họa sĩ nổi danh   tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình   Tuyên, Thúy Uyển,   Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim   Liệu ở   Virginia… Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên   cũng mượn mầu   sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây   nước trăng sao   trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê   hương thể hiện qua tà   áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc.  Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói   hay dịu mát, may   bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có   ngắn cũn hay dài   thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín   cổng cao tường hay   hở hang lộ liễu… vẫn là một kết hợp của chân   thiện mỹ.

Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam   mà còn gói   trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào   cũng chỉ tiếp nhận   tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà   vẫn giữ cá tính độc   lập.  Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam.   Chính vì vậy mà   người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ   trẻ lưu vong trong sứ   mạng gìn vàng giữ ngọc.

Trần Thị Lai Hồng

http://www.trunghocthuduc.com/suutam/aodai.html


Tài liệu tham khảo

– Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục, Phong Trào Văn Hóa.   
– Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Ðại Nam.   
– Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, Xuân Thu.   
– Nhất Thanh, Ðất Lề Quê Thói, Sống Mới.   
– Nguyễn Khắc Ngữ, Những Hình Ảnh Xưa, Nhóm Nghiên   Cứu Sử Ðịa.   
– P. Huard và M. Durand, Connaissance du Vietnam, E.F.E.O.   
– W. Robert Moore và Maynard Williams, Portrait of Indochina, The   National Geographic Magazine 

This entry was posted in Văn Hóa, Đời Sống. Bookmark the permalink.