Con Đường Tìm Chân Lý của Đức Phật

Ma Vương Cám Dổ

Giữa tình trạng nguy ngập ấy, trong khi Ngài vẫn ngồi bên bờ sông Nerannjarà (Ni Liên Thiền) thì Ma Vương đến gần và nói:

“Hỡi này đạo sĩ, người gầy còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến… Hãy sống, này hỡi đạo sĩ, đời sống rất tốt đẹp. Có sống mới tạo được phước. Hãy sống độc thân và chuyên cần cúng tế thần lửa, người sẽ tạo được nhiều phước báo. Ép mình sống đời khổ hạnh như thế này để làm gì? Con đường kiên trì nỗ lực quả thật kham khổ, khó khăn và khó thành tựu.”

Bồ Tát trả lời Ma Vương như sau:

“Này con người xấu xa quỷ quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng! Ngươi đến đây chỉ vì lợi ích của riêng ngươi. Đối với ngươi, phước báo nào có giá trị gì, nhưng bổn phận ngươi là phải nói như vậy. “Ta tu hành với niềm tin vững chắc (saddhà), với sự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo), sự tinh tấn (viriya) và trí tuệ (panna). Ta quyết tâm như vậy, sao ngươi còn cật vấn ta?

“… Đời sống trên thế gian này rõ thật là khốn khổ! Thà ta chết trên chiến trường (trong khi chiến đấu) còn hơn sống mà thất bại!”

Với lời lẽ quả quyết ấy Đạo Sĩ Gotama cảm thắng Ma Vương, và Ngài đã quyết tâm đạt cho kỳ được mục tiêu: Đạo Quả Phật.

Thọ Thực Lần Cuối Cùng Trước Khi Thành Đạo

Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của thần chết nhưng cảm thấy không gần mục tiêu hơn. Lối tu hành khổ hạnh rõ ràng không đem lại lợi ích thiết thực nào. Ngài nhận định rằng con đường đưa đến Đạo Quả mà Ngài hằng nóng lòng quyết định thành đạt phải hướng về nội tâm. Ngài không hề nản chí nhưng thấy rằng lối tu khổ hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần. Cơ thể mòn mỏi, tâm không thể hoàn toàn sáng suốt. Ngài liền dứt khoát không nhịn ăn nữa mà dùng chút ít vật thực thô sơ. Năm vị đạo sĩ cùng tu với Ngài hiểu lầm, ngỡ là Ngài trở lại đời sống xa hoa phong phú nên từ bỏ Ngài ra đi về phía Isipatana (Sarnath).

Vào buổi sáng ngay trước ngày Thành Đạo, trong khi Bồ Tát ngồi hành thiền dưới bóng một cây ajapalà (cây da) gần cội bồ đề, thì có một thiếu phụ tên Sujàtà đến dâng lên Ngài một vật thực nấu bằng gạo sửa mà nàng đã công khó tự tay tỉ mỉ làm lấy.

Sự tích nàng Sujàtà dâng vật thực đến Bồ Tát được thuật lại như sau: Vào thủa ấy trong khu làng Senàni, gần rừng Uruvela có một thiếu phụ tên Sujàtà. Một hôm nọ nàng đến cội cây da gần nhà, van vái cầu xin thọ thần hộ trì cho mình được gặp chồng như ý nguyện và đầu lòng sẽ sanh được một trai. Và nàng chú nguyện mỗi năm sẽ đến đây cúng tế. Lúc bấy giờ Bồ Tát vừa quyết định không tuyệt thực nữa mà dùng lại chút ít vật thực.

Vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha (tháng Tư âm lịch), nàng Sujàtà mang vật thực đến cây da để tế thần. Khi nhìn thấy Bồ Tát, lúc ấy đang ngồi hành thiền, thì nàng ngỡ là thọ thần, và dâng vật thực đến Ngài trong một bình bát rất quý giá.

Bồ Tát thọ bát xong, đi xuống mé sông Neranjarà (Ni Liên Thiền) ngồi độ thực. Sau đó Ngài cầm bát đứng bên bờ sông, chú nguyện: “Nếu hôm nay tôi có thể chứng đắc Đạo Quả Phật, xin cho cái bát này sẽ trôi ngược dòng nước.” Cái bát trôi ngược dòng!

Chiến Thắng Cuối Cùng

Một mình, trong cảnh cô đơn giữa chốn rừng sâu, không có bất luận sự hỗ trợ nào từ bên ngoài, với ý chí sắt đá. Ngài lập tâm nhất quyết nỗ lực cùng tột bất thối chuyển:

“Dầu chỉ còn da, gân và xương, máu và thịt đã tan khô và tan biến, ta nguyện không xê dịch khỏi chỗ này cho đến khi chứng ngộ Toàn Giác (sammà-sambodhi).”

Cố gắng không biết mệt, nhiệt thành không thối chuyển. Ngài nhất quyết chứng ngộ chân lý và thành tựu trạng thái Toàn Giác. Ngồi tréo chân dưới cội cây mà về sau gọi là cây bồ đề, có nghĩa là cây giác ngộ, hay cây trí tuệ. Ngài áp dụng pháp “niệm hơi thở vào – thở ra” (ànàpàna sati).

Cuộc chiến đấu gay go cuối cùng này được thuật lại như sau:

“Giờ đây tôi đã dùng vật thực thô sơ và đã hồi phục sức khỏe. Đã dứt khoát lánh xa mọi dục lạc, tôi nhập vào và an trú trong Sơ Thiền, tâm an trụ với chi thiền tầm và sát, sáng suốt và phỉ lạc, phát sanh do trạng thái tĩnh lặng. Nhưng tôi không để cho cảm giác phỉ lạc đã sanh khởi ấy lấn áp tâm. Rồi diệt bỏ tầm và sát, gom tâm vững vàng an trụ vào một điểm duy nhất không lay chuyển, tôi nhập vào và an trú trong Nhị Thiền, một trạng thái phỉ lạc phát sanh do định, lòng tự tin càng vững chắc. Nhưng tôi không để cảm giác phỉ lạc đã sánh khởi như vậy lấn áp tâm. Với trạng thái hạnh phúc dịu dần và tan biến, tâm tôi bình thản, chú niệm tập trung chắc chắn vào một điểm và luôn luôn giác tỉnh, vẫn còn nghe thích thú trong thân, tôi nhập vào và an trú trong Tam Thiền. Nhưng không để thọ lạc đã sanh khởi lấn áp tâm. Với sự buông xả những thích thú và đau khổ của thân và tình trạng hỷ lạc và ưu phiền của tâm tan biến, tôi nhập vào và an trú trong Tứ Thiền. Do tâm xả, không còn thích thú hay sầu khổ, tâm thanh ý tịnh, và chú niệm không lay chuyển.

“Với tâm định an trú vào một điểm, thanh tịnh, lắng dịu, trong sáng như mặt gương được lau chùi bóng láng, không còn ô nhiễm, nhu thuận, dễ uốn nắn, dễ xử dụng, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, tôi hướng tâm ấy về tuệ giác Hồi Nhớ Những Kiếp Sống Quá Khứ (Pubbe nivàsànussati nàna, Túc Mạng Minh). Tôi nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ của tôi; một kiếp, hai kiếp, ba, bốn, năm kiếp, rồi mười, hai mươi đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Tôi nhớ ở đây tôi tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, đời sống ra sao, vui thích và đau khổ như thế nào, tuổi thọ được bao nhiêu và lìa đời như thế nào. Từ cảnh ấy ra đi tôi tái sanh vào cảnh nào, tên gì v.v… Như thế ấy tôi hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá khứ. Đó là tuệ giác đầu tiên mà tôi chứng ngộ lúc canh một, đêm Thành Đạo. Màn vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi. Đêm tối đã chấm dứt, ánh sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần, nhiệt thành và giác tỉnh tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại nhưng tôi không để tâm bị nó lấn áp.

“Với tâm định an trụ vào một điểm… tôi hướng tâm ấy về Sự Hiểu Biết Hiện Tượng Diệt và Sanh Của Chúng Sanh (Cutùpapàta nàna, Thiên Nhãn Minh). Với thiên nhãn tinh khiết, siêu nhân, tôi thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác. Tôi thấu triệt rằng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khốn khổ, tất cả đều trải qua trạng thái diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người. Tôi biết rõ rằng những chúng sanh này, do hành động, lời nói, và tư tưởng xấu xa, nguyền rủa bậc Thánh Nhân, tin tưởng không chân chánh, có nếp sống của người nuôi dưỡng tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào những trạng thái bất hạnh, đọa xứ hay địa ngục. Tôi cũng biết rằng những chúng sanh kia do hành động, lời nói, và tư tưởng tốt đẹp, không nguyền rủa bậc Thánh Nhân, tin tưởng chân chánh, và sống nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa trần, tái sanh vào những cảnh giới nhàn lạc, những cảnh Trời. Như vậy, với Thiên Nhãn Minh tôi thấy rõ ràng sự phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh. Đó là tuệ giác thứ nhì mà tôi chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo. Màn vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi. Đêm tối đã chấm dứt, ánh sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần, nhiệt thành và giác tỉnh tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại, nhưng tôi không để tâm bị nó lấn áp.

“Với tâm định an trụ vào một điểm… tôi hướng tâm ấy về Tuệ Hiểu Biết Sự Chấm Dứt Các Hoặc Lậu (Asavakkhaya nàna, Lậu Tận Minh). Hoặc lậu, àsava, hay những bợn nhơ trong tâm, là những ô nhiễm ngủ ngầm trong dòng trôi chảy của luồng nghiệp từ vô lượng kiếp chí đến các cảnh giới cao nhất — nhìn về phương diện cảnh giới; hay đến trạng thái chuyển tánh (gotrabhù) — về phương diện luồng tâm.

“Tôi hiểu biết sự vật đúng như thật sự nó là vậy: Đây là khổ. Đây là nguyên nhân sanh đau khổ. Đây là sự chấm dứt đau khổ. Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.

“Cùng một thế ấy, tôi biết đúng như thật: Đây là những hoặc lậu. Đây là sự chấm dứt các hoặc lậu. Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt các hoặc lậu. Nhận thức đúng như vậy, hiểu biết đúng như vậy, tâm tôi thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiêm liên quan đến dục vọng), thoát ra khỏi hữu lậu (ô nhiễm liên quan đến sự luyến ái bám víu vào đời sống), thoát ra khỏi vô minh lậu (ô nhiễm liên quan đến vô minh). Khi tự thân đã giải thoát như vậy, tôi hiểu biết: “Tôi đã giải thoát”. Tôi trực giác chứng ngộ: “Không còn sanh nữa, đời sống Thánh Thiện đã hoàn tất viên mãn, những gì phải làm đã làm, sau kiếp sống hiện tại không còn đời sống nào khác nữa.” Đó là Tuệ Giác thứ ba mà tôi chứng ngộ vào lúc canh ba, đêm Thành Đạo.

“Màn vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi. Đêm tối đã chấm dứt, ánh sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần, nhiệt thành và giác tỉnh tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại, nhưng tôi không để tâm bị nó lấn áp.” (Majjhima Nikàya – Trung A Hàm, kinh số 36, Mahà Saccaka Sutta)

Bài Kệ Hoan Hỷ

Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Trong cuộc chiến đấu phi thường để thành Đạo Quả. Ngài đã vẻ vang chiến thắng. Ánh sáng Chân Lý đã bật soi cho Ngài những bí ẩn của đời sống. Cuộc chiến thắng tinh thần vô cùng vinh quang rực rỡ này đã biến Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) ra một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, đấng Chánh Biến Tri, toàn năng vô thượng. Ngài đọc lên bài kệ hoan hỷ:

“Xuyên qua nhiều kiếp sống
trong vòng luân hồi,
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai đi tìm mãi, mà không gặp,
Như Lai tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hởi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây
Ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dông của ngươi dựng lên
Cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng Quả Vô Sanh Bất Diệt,
Và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục.”
(Dhammapada – Kinh Pháp Cú, câu 153-154)

Đức Phật xác nhận cuộc đi thênh thang bất định trong nhiều kiếp sống quá khứ đầy khổ đau phiền lụy. Ngài đi đến tuyên ngôn như vậy, không phải do lý luận hay trí tưởng tượng riêng của mình, hay nghe ai nói, mà vì chính Ngài đã tận mắt nhận thấy trong canh đầu, đêm Thành Đạo, từ một, hai, ba đến vô số kiếp sống trong quá khứ. Điều này cũng hiển nhiên chứng minh niềm tin có nhiều kiếp sống.

Ngài đi bất định trong vòng sanh tử – tử sanh, và do đó phải chịu nhiều gian lao khổ nhọc, để tìm người thợ xây dựng ngôi nhà này — tức nguyên do đưa đến thân này. Ngài mãi đi tìm nguyên nhân đã lôi cuốn mình trôi giạt trong những kiếp sinh tồn, sống rồi chết, chết rồi tái sanh trở lại, triền miên vô cùng tận. Tìm nhưng không gặp.

Trong kiếp sống cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu vào công trình hành thiền mà Ngài đã dày công trau giồi từ xa xôi trong quá khứ. Ngài khám phá ra anh thợ cất nhà hằng mong mỏi muốn biết.

Anh thợ này không phải ở đâu xa lạ bên ngoài, mà vẫn tiềm tàng nằm sâu kín bên trong Ngài. Đó là Ái Dục, sự tự tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Tìm ra người thợ cất nhà, biết được nguyên nhân lôi cuốn chúng sanh trong vòng sanh tử triền miên, tức Ngài đã tận diệt Ái Dục.

Cái sườn của ngôi nhà tự tạo ấy là các ô nhiễm như tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, dã dượi, phóng dật, không hổ thẹn tội lỗi, không ghê sợ hậu quả của hành động bất thiện. Cây đòn dông chịu đựng cái sườn là vô minh, căn duyên xuất phát của mọi dục vọng. Ngài đã phá vỡ cây đòn dông và giựt sập ngôi nhà. Ánh sáng trí tuệ của Ngài đã vĩnh viễn đẩy lui đêm tối của vô minh. Sườn và đòn dông là vật liệu xây cất mà anh thợ dùng để dựng lên ngôi nhà. Hết vật liệu, tức nhiên anh thợ không còn cất nhà được nữa.

Bài Học

Xuyên qua công trình hành đạo và thành quả chứng đắc của Đức Phật, chúng ta thấy rằng trước tiên Ngài đến học với hai vị thầy và hành thiền Vắng Lặng (samatha bhàvanà) đến mức cùng tột. Nếu giữ mức độ này cho đến khi viên tịch, Ngài sẽ tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc, thọ hưởng những hạnh phúc vô cùng tinh vi cao thượng và tuổi thọ rất dài, nhưng vẫn còn trong Tam Giới. Dầu có thể sống đến 84 ngàn a-tăng-kỳ kìếp nhưng rồi, khi tuổi thọ chấm dứt, cũng phải tái sanh trở lại vào cuộc sống đi bất định trong vòng luân hồi. Thiền Vắng Lặng không đưa đến giải thoát.

Chúng ta thường nghe nói “định sanh tuệ”, và đôi khi hiểu lầm là một khi hành thiền đến mực độ “định” thì đương nhiên “tuệ” phát sanh. Nhưng lời nói này chỉ có nghĩa là khi gom tâm an trụ đến mức “định” thì dùng tâm định ấy làm nền tảng để khai triển “trí tuệ”.

Trong tình trạng bình thường, tâm của con người luôn luôn di động. Người hành thiền canh phòng, không để tâm nhảy đầu này, vào thời quá khứ, hay chạy đầu kia, đến thời vị lai, bởi vì một khi tâm phóng dật chạy nhảy như thế thì không thể an trụ vào một điểm. Hành thiền Vắng Lặng, hành giả cố gắng gom tâm an trụ, luôn luôn chú niệm và hay biết, đề phòng mỗi khi tâm phóng, cho đến khi đạt đến trạng thái nhất điểm và an tĩnh. Thiền Vắng Lặng đưa tâm tạm thời vượt qua khỏi những chướng ngại tinh thần như tham ái, sân hận, si mê, dã dượi hôn trầm, phóng dật lo âu và hoài nghi, tiến đến tâm tịnh, một trạng thái tâm tĩnh lặng, sáng suốt và nhu thuận. Nhưng không nên lầm lạc hiểu rằng khi tâm hoàn toàn an trụ thì trí tuệ đương nhiên sanh khởi. Trí tuệ không phải là cái gì tự động phát sanh, và có nhiều mức độ trí tuệ và nhiều mức độ hiểu biết: thô thiển, trung bình và tế nhị. Trí tuệ hay tuệ minh sát (vipassanànàna) là hiểu biết rõ ràng và thâm sâu sắc bén bản chất thật sự của vạn pháp.

Người hành thiền đến mức định thì dùng tâm định ấy để quán chiếu sự vật và khai triển trí tuệ bằng thiền Minh Sát (vipassanà bhàvanà). Danh từ vipassanà, minh sát, có nghĩa là nhìn thấy một cách khác thường. Có cái thấy vượt ra ngoài tầm thức thông thường, thấy một cách rõ ràng. Tuệ minh sát là trí tuệ chứng ngộ Chân Lý. Đây không phải là thấy phớt qua trên bề mặt mà thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó, tức thấy sự vật dưới ánh sáng của ba đặc tướng, vô thường, khổ, vô ngã. Chính thiền Minh Sát này, dựa trên nền tảng tâm định vắng lặng, giúp cho người hành thiền có khả năng gội rửa tất cả mọi ô nhiễm trong tâm đến mức tận cùng, lột bỏ mọi ảo kiến về cái “Ta”, nhìn thấy thực tướng của vạn pháp và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Con Đường Giải Thoát.

Bảy Tuần Lễ Sau Khi Thành Đạo

Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, Đạo Sĩ Gotama, lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, trở thành một vị Phật, đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác.

Tuần Lễ Đầu Tiên – Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên sau khi Thành Đạo Đức Phật ngồi không cử động dưới tàn bóng của cội cây bồ đề để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (vimutti sukha).

Trong đêm cuối tuần Ngài xuất thiền và suy niệm về pháp Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppàda) theo chiều xuôi như sau: “Khi có cái này (nguyên nhân), thì có cái này (hậu quả), Với sự phát sanh của cái này (nhân), cái này (quả) phát sanh.”

– Tùy thuộc nơi Vô Minh (avijjà), Hành (samkhàrà), thiện và bất thiện, phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Hành, Thức (vinằna) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (nàma-rùpa) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Danh-Sắc, Lục Căn (salàyatana) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Lục Căn, Xúc (phassa) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (vedàna) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Thọ, Ái Dục (tanhà) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Ái, Thủ (upàdàna) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (bhava) phát sanh.
– Tùy thuộc nơi Hữu, có Sanh (jàti).
– Tùy thuộc nơi Sanh, phát sanh Lão (jarà), Tử (marana), Phiền Não (soka), Ta Thán (parideva), Đau Khổ (dukkha), Sầu Muộn (domanassa) và Thất Vọng (upàyàsa).

Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau: “Quả thật vậy, khi chân lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm, bao nhiêu hoài nghi đều tiêu tan, bởi vì vị này đã thấu triệt chân lý và các nguyên nhân.”

Khoảng cách giữa trong đêm, Đức Phật suy niệm về pháp Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều ngược như sau:

“Khi nguyên nhân này không còn thì hậu quả này cũng không còn. Với sự chấm dứt của nhân này, quả này cũng chấm dứt.”

– Với sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Hành, Thức chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Thức, Danh-Sắc chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Danh-Sắc, Lục Căn chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Lục Căn, Xúc chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Xúc, Thọ chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Thọ, Ái chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Ái, Thủ chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Thủ, Hữu chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Hữu, Sanh chấm dứt.
– Với sự chấm dứt của Sanh, Lão, Tử, Phiền Não, Ta Thán, Đau Khổ, Sầu Muộn và Thất Vọng chấm dứt.

Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau: “Quả thật vậy, khi các chân lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm, bao nhiêu hoài nghi đều tiêu tan, bởi vì vị này đã thấu triệt sự tận diệt các nguyên nhân.”

Đến canh ba Đức Thế Tôn suy niệm về sự “Tùy Thuộc Phát Sanh” theo chiều xuôi và chiều ngược như sau: “Khi có nhân này, thì có quả này. Với sự phát sanh của nhân này, quả này phát sanh. Khi không có nhân này, thì quả này không có. Với sự chấm duút nhân này, quả này chấm dứt.”

– Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh v.v… Như thế ấy, toàn khối đau khổ phát sanh.

– Với sự chấm dứt Vô Minh, Hành chấm dứt … Như thế ấy, toàn khối đau khổ châm dứt.

Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau:

“Quả thật vậy, khi các chân lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm thì Ngài vững vàng phá tan vây cánh của Ma Vương cũng như ánh sáng thái dương phá tan đêm tối và rọi sáng bầu trời.”

Tuần Lễ Thứ Nhì – Tuần lễ thứ nhì trải qua một cách bình thản, nhưng trong sự yên lặng ấy Đức Phật đã ban bố cho thế gian một bài học quan trọng. Để tỏ lòng tri ân sâu xa đối với cây bồ đề vô tri vô giác đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời gian chiến đấu để thành đạt Đạo Quả. Ngài đứng cách một khoảng xa để chăm chú nhìn cội bồ đề trọn một tuần không nháy mắt. Về sau, nơi Đức Phật đứng trọn tuần lễ để nhìn cây bồ đề Vua Asoka (A Dục) có cho dựng lên một bảo tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya.

Noi theo gương lành cao quý và để kỷ niệm sự thành công vẻ vang rực rỡ ấy, đến ngày nay hàng tín đồ Phật Giáo vẫn còn tôn kính, chẳng những cây bồ đề chánh gốc ấy mà đến các cây con, cây cháu. Một nhánh, chiết từ phía tay mặt của cây bồ đề nguyên thủy, được Ni Sư Sanghimittà Theri đem từ Ấn Độ sang Sri Lanka (Tích Lan). Nơi đây cây được Vua Devànampiya Tissa hạ thổ tại cố đô Anuradhapura, xứ Tích Lan. Cho đến nay cây này vẫn còn sum sê tươi tốt và tiếp nhận lòng kính mộ sùng bái của hằng triệu khách nhiệt thành đến hành hương. Từ cội này nhiều cây con đã được chiết và trồng lại ở nhiều nơi trên đảo và trong các quốc gia xa xôi khác.

Tuần Lễ Thứ Ba – Vì Đức Phật không rời nơi trú ngụ mà vẫn còn quanh quẩn cội bồ đề, chư Thiên lúc bấy giờ còn nghi ngờ, không biết Ngài đã đắc Quả Phật chưa. Đọc được tư tưởng ấy, Đức Phật dùng oai lực thần thông tạo một “đường kinh hành quý báu” (ratana cankamana, đường kinh hành quý như kim cương ngọc báu) và đi lên đi xuống thiền hành suốt trọn tuần.

Tuần Lễ Thứ Tư – Trong tuần thứ tư, Đức Phật ngự trong “bảo cung” (ratanaghara, gọi như vậy vì lúc ấy Đức Phật suy niệm về phần quý báu của Giáo Pháp) để suy niệm về những điểm phức tạp của Tạng Luận (Abhidhamma). Kinh sách ghi nhận rằng khi Ngài suy tưởng về pháp Nhân Quả Tương Quan (patthàna, bộ Vị Trí), bộ khái luận thứ bảy của Tạng Luận, tâm và thân Ngài trở nên hoàn toàn tinh khiết và do đó, phát ra một vầng hào quang sáu màu: xanh dương, vàng, đỏ, trắng, cam và thứ sáu là năm màu pha lẫn.

Tuần Lễ Thứ Năm – Trong tuần thứ năm Đức Phật ngồi dưới cội cây ajapàla trứ danh (một loại cây da), chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (vimutti sukha). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thế ấy, có một vị bà la môn ngạo mạn (huhunkajàtika) đến gần chào hỏi theo lễ nghi rồi nói: “Này Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm), đứng về phương diện nào ta trở thành một thánh nhân, và những điều kiện nào làm cho ta trở thành thánh nhân?”

Để trả lời, Đức Phật đọc lên bài kệ:

“Người kia xa lánh mọi điều bất thiện tội lỗi, không còn ngạo mạn (huhunka), đã thanh lọc mọi ô nhiễm, thu thúc lục căn, thông suốt các pháp học và đã chân chánh sống đời phạm hạnh thiêng liêng, người ấy được coi là thánh nhân. Đối với người ấy không còn có sự bồng bột, dầu ở nơi nào trên thế gian.” (Udàna, phần I)

Theo bản chú giải Túc Sanh Truyện, cũng trong tuần lễ này ba người con gái của Ma Vương cố gắng lấy nhan sắc quyến rũ Đức Phật, nhưng thất bại.

Tuần Lễ Thứ Sáu – Từ cội cây ajapàla Đức Phật sang cây Mucalinda và ngự tại đây một tuần lễ để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến. Trời sẩm tối dưới lớp mây đen nghịt và gió lạnh thổi suốt nhiều ngày. Vừa lúc ấy Mucalinda, mãng xà vương, từ ổ chun ra, uốn mình quấn xung quanh Đức Phật bảy vòng và lấy cái mỏ to che trên đầu Ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió lớn không động đến thân Đức Phật.

Đến cuối ngày thứ bảy, trời quang mây tạnh trở lại Mucalinda tháo mình trở ra và, bỏ hình rắn, hiện thành một thanh niên, chấp tay đứng trước mặt Đức Phật. Và Đức Phật đọc bài kệ sau đây:

“Đối với hạng người tri túc, người đã cố lắng nghe chân lý và đã thấy, thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, người biết thu thúc, đối với mọi chúng sanh, là hạnh phúc. Không luyến ái, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá được “ngã chấp” quả là hạnh phúc tối thượng.” (Udàna, trang 10)

Tuần Lễ Thứ Bảy – Vào tuần thứ bảy Đức Phật bước sang cội cây Ràjàyatana và ở đó suốt tuần, chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát.

Phạm Kim Khánh (Trích “Hành Hương Xứ Phật”, Trung Tâm Narada, Seattle, USA, 1997)

http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/p-007-conduong.htm

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.