Bách-Dụ Kinh là cuốn kinh số 209 (tập 4, trang 543-) Trong Đại-Tạng-Kinh. Bộ kinh này chia làm 4 quyển, do ngài Cầu-Na-Tỳ-Địa (Ấn-Độ) dịch chữ Phạm ra chữ Hán, trong đời Tiêu-Tề.
Bách-Dụ Kinh
Chính tôi (A-Nan) được nghe: một thời kia đức Phật ở trong vườn trúc Thước-Phong (Venuvana kàrndaka nivàpa), thành Vương-Xá (Ràjagrha) cùng với các vị Đại Tỳ-Khưu (Maha Bhiksu), Đại-Bồ-Tát (Maha Bodhisattva) và Thiên, Long, Dạ-soa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già [2] chừng ba vạn sáu nghìn người.
Khi ấy, trong pháp-hội có năm trăm người Dị-học Phạm-chí [3], từ nơi tòa ngồi của họ đứng dậy bạch Phật rằng: “Thưa Thế-Tôn! Chúng tôi nghe nói đạo Phật rộng, sâu không đạo nào có thể sánh kịp, nên chúng tôi lại đây muốn hỏi Ngài mấy điều, mong Ngài vui lòng nói cho!” Đức Phật nói: “Hay lắm, các ông cứ việc hỏi!”
– HỎI: Thiên-hạ “có” hay “không”?
– ĐÁP: Cũng có và cũng không.
– HỎI: “Hiện có” sao bảo là “không”, “hiện không” sao bảo là “có”?
– ĐÁP: “Sinh” cho là “có”, “chết” cho là “không”, nên nói là “hoặc có, hoặc không”.
– HỎI: Người ta do đâu sống được?
– ĐÁP: Người ta do ngũ-cốc mà sống.
– HỎI: Ngũ-cốc do đâu mà sinh?
– ĐÁP: Ngũ-cốc do nơi tứ-đại: đất, nước, gió, lửa, sinh.
– HỎI: Tứ-đại do đâu sinh?
– ĐÁP: Tứ-đại do “không” sinh.
– HỎI: “Không” do đâu sinh?
– ĐÁP: “Không” do chỗ “vô sở-hữu” (không có chỗ có) sinh.
– HỎI: “Vô sở-hữu” do đâu sinh?
– ĐÁP: Do “tự-nhiên” sinh.
– HỎI: “Tự-nhiên” do đâu sinh?
– ĐÁP: Do “Niết-bàn” (Nirvàna) sinh.
– HỎI: “Niết-bàn” do đâu sinh?
Đức Phật nói: “Sao các ông hỏi sâu-xa thế! Các ông không biết: Niết-bàn là pháp bất-sinh, bất-diệt sao?
– HỎI: Đức Phật được Niết-bàn chưa?
– ĐÁP: Tôi chưa được Niết-bàn.
– Hỏi: Ngài chưa được Niết-bàn sao Ngài biết được sự “thường, lạc” của Niết-bàn?
Đức Phật nói: “Nay tôi hỏi lại các ông: chúng-sinh trong thiên-hạ khổ hay vui?”
– ĐÁP: Chúng-sinh khổ lắm.
Đức Phật hỏi: Thế nào là khổ?
– ĐÁP: Chúng tôi thấy chúng-sinh khi chết đau-khổ khó nhẫn nên chúng tôi biết chết là khổ.
Đức Phật nói: Nay các ông chưa chết, cũng biết chết là khổ, thời tôi thấy chư Phật mười phương bất sinh, bất diệt, nên tôi biết Niết-bàn thường, lạc.
Năm trăm người Phạm-chí tâm-ý mở tỏ, cầu thụ ngũ-giới [4], chứng ngộ quả Tu-đà-hoàn [5] rồi ngồi lại chỗ cũ.
Đức Phật nói: Các ông nghe cho kỹ, nay tôi sẽ vì các ông nói rộng về những thí-dụ sau đây:
1.- NGƯỜI NGU ĂN MUỐI
Xưa có người ngu đến nhà người khác chơi được chủ-nhân tiếp-đãi vui-vẻ và làm cơm cho ăn. Trong khi ăn, thức ăn hơi lạt, người ngu có vẻ không vừa lòng, chê là kém ý-vị. Chủ nhân nghe hiểu, sai người lấy thêm muối đem lên. Đem lên, người ngu cho thêm muối vào món ăn. Ăn ngon, người ngu liền nghĩ: “Có lẽ vị ngon này là do muối. Cho ít còn ngon thế, huống là cho nhiều!” Người ngu không hiểu biết gì, nghĩ thế liền ăn muối không, miệng giộp, thành bệnh.
Ngoại-đạo nghe nói tiết-chế sự ăn uống đắc-đạo, liền đoạn-thực trong bảy ngày hoặc mười lăm ngày, chỉ làm đói khổ cho thân, không lợi-ích gì cho đạo. Cũng như người ngu ăn muối không, không khác.
2.- ĐỂ DÀNH SỮA
Xưa có người ngu muốn dành sữa đãi khách. Người ấy nghĩ: “Ngày ngày vắt sữa để dành trong hộp, sữa mỗi ngày mỗi nhiều không có chỗ để, lại chua ra, không bằng ta cứ để ngay trong bụng nó, khi mời khách, ta sẽ vắt ra, tốt hơn!”
Nghĩ rồi, người ấy liền dắt những con bò cái buộc một nơi. Độ sau một tháng mời khách đến, ngưới ấy dắt bò về vắt sữa, vú bò khô-quắt, không có một giọt sữa, tân-khách kẻ giận, người cười khôn tả.
Người ngu muốn tu bố-thí, lại nói: “Đợi khi rất giầu ta sẽ bố-thí không vội!” Khi chưa kịp gom góp đủ tiền của đã bị quan tham, nước lụt, lửa cháy, trộm giặc cướp-đoạt hoặc bị chết trước khi định bố-thí. Như thế khác gì người ngu dành sữa!
3.- ĐỂ ĐÁNH VỠ ĐẦU
Xưa có người ngu đầu không có tóc. Một hôm có người lấy cành lê đánh lên đầu hai, ba lần vỡ cả đầu, đau quá mà người kia cứ im-lặng chịu-đựng, không tránh.
Người hàng xóm thấy thế, hỏi: “Sao ông không tránh, để người ta đánh vỡ đầu như vậy?” Người kia đáp: “Người ấy ngu-si, kiêu-mạn, cậy khỏe, thấy đầu tôi không có tóc, cho là đá, nên lấy cành lê đánh vỡ đầu tôi như thế!”
Người hàng xóm bảo: “Ông là người ngu-si, lại bảo người ấy ngu-si. Nếu ông không ngu-si sao để người ta đánh vỡ đầu không tránh?”
Người tu đạo giải-thoát, không tu Tín, Giới, Văn, Tuệ đầy-đủ, chỉ sửa-sang uy-nghi, cầu mong lợi-dưỡng. Như người ngu kia để người ta đánh vỡ đầu, không tránh, còn bảo người ta ngu-si!
4.- ĐÁNH LỪA LÀ CHẾT
Xưa có người ngu lấy được người vợ đẹp, rất yêu, nhưng người vợ vẫn không để lòng tin-yêu mình. Sau một thời-gian lấy nhau, người vợ tư-tình với người khác.
Lòng riêng-tây quá mạnh, người vợ ấy muốn bỏ chồng, đi theo tiếng gọi của tình-lang, mới ngấm-ngầm bảo một bà lão: “Bà, sau khi tôi đi, bà kiếm giúp tôi một xác chết của người đàn-bà khác, để trên giường và bảo chồng tôi là tôi đã chết rồi!” Bà lão ưng-thuận. Rình khi người chồng đi vắng bà đem xác chết để trên giường. Người chồng về, bà bảo: “Vợ anh chết rồi!” Người chồng đến coi, tin là vợ mình đã chết, thương-xót, khóc-lóc áo-não, sắm-sửa dầu, củi hỏa-táng, nhặt xương đựng vào trong túi, ngày đêm đeo luôn bên mình.
Thời-gian sau, mầu tình phai-lạt, người vợ ấy lại quay về nhà cũ, bảo chồng: “Thưa anh, em là vợ anh trước đây!” Người chồng đáp: “Thưa bà, vợ tôi chết đã lâu rồi, bà là người lạ, bà nhận bỡn là vợ tôi, chứ có phải đâu?” Người vợ ấy nói đến hai, ba lần người chồng vẫn không tin.
Ngoại-đạo nghe tà-thuyết, tâm say-mê cho là chân-thực, quyết không thay-đổi. Mặc dầu khi được nghe chính-giáo họ vẫn không tin-tưởng, thụ-trì…, như người chồng kia không khác.
5.- KHÁT THẤY NƯỚC SÔNG
Xưa có người ngu, một hôm bị khát nước quá – khát đến nỗi hoa cả mắt, thấy ánh nắng cũng cho là nước – muốn có nước uống, mới chạy đến bờ sông Tân-đầu (Sindhu). Đến đây, người ấy đứng ngắm sông, không uống. Người bên sông thấy thế hỏi: “Ông bị khát, nay đến chỗ có nước sao ông không uống?” Người ngu đáp: “Ông có thể uống hết được, tôi sẽ uống! Nước sông nhiều quá, uống không hết nên tôi không uống!” Mọi người đều cười.
Ngoại-đạo quá thiên về lý, cho mình không giữ đầy-đủ được giới của Phật không dám thụ, thành ra sau này không được đạo-phẩm gì và phải lưu-chuyển trong sinh-tử. Đây và người ngu kia không khác!
6.- CON CHẾT KHÔNG CHÔN
Xưa có người ngu dưỡng-dục được bảy người con. Một hôm có một đứa chết. Thấy con chết, người kia muốn để yên trong nhà, bỏ đi nơi khác.
Người hàng xóm thấy thế bảo: “Sinh, tử đôi đường, ông nên thu xếp chôn tại nơi xa, sao ông lại định để yên trong nhà và muốn bỏ đi nơi khác vậy?” Người ngu nghe nói liền nghĩ: “Không để được ở nhà phải đem chôn, thời giết thêm đứa nữa, gánh hai đầu cho cân!” Nghĩ rồi, người ngu giết ngay đứa nữa, để hai đầu, gánh đến cánh đồng xa chôn. Đương-thời ai ai cũng chê cười, ghê sợ.
Người tu đạo giải-thoát, phạm một giới, ngại hối-cải, im-lặng, che-giấu, tự nói là trong sạch. Có người biết bảo: “Người tu đạo giải-thoát giữ giới cấm như giữ ngọc minh-châu, không để rơi, sứt. Nay phạm những giới đã thụ, sao ông không sám-hối đi?” Người kia đáp: “Nếu phải sám-hối, để phạm nữa, hãy xuất-tội luôn thể!”
Như người ngu kia, đây cũng thế!
7.- NHẬN NGƯỜI LÀM ANH
Xưa có một người hình-dáng đẹp-đẽ, thông-minh, nhiều của, nhân-dân đều khen ngợi.
Có người ngu thấy người ấy thế, nhận là anh tôi – vì người ấy có của, muốn dùng gì thì dùng – Sau vì sự vay-mượn phải trả, lại bảo không phải là anh. Người hàng xóm bảo: “Ông là người ngu, khi cần dùng của thì gọi người ta là anh, đến khi mang nợ lại bảo không phải là anh?” Người ngu đáp: “Muốn được tiền của người nên tôi nhận là anh, chứ có phải là anh đâu! Phải mang nợ còn gọi là anh làm chi!” Mọi người đều cười.
Ngoại-đạo nghe lời hay của Phật, ăn cắp làm của mình, khi người ở gần bảo họ tu-hành, họ không làm, nói: “Tôi vì lợi-dưỡng, lấy lời của Phật hóa-đạo chúng-sinh, chứ thực không có chi cả, thời tu-hành làm sao?”
Như người ngu kia, đây cũng vậy.
8.- TRỘM ÁO NHÀ VUA
Xưa có người mọi lấy trộm các đồ-vật trong kho nhà vua rồi chạy trốn. Nhà vua sai người đi khắp nơi tìm, bắt đem về. Vua hỏi: “Áo kia của ngươi do đâu có?” – Người mọi đáp: “Áo này là bảo-vật của ông cha tôi để lại!” – Vậy ngươi mặc xem? – nhà vua bảo. Người mọi mặc: Tay áo mặc vào đầu gối, lưng áo trùm lên đầu. Nhà vua thấy đúng là áo ăn trộm mới họp quần-thần lại, nói rõ đầu-đuôi rồi quay sang bảo người mọi: “Áo này nếu là của ông cha ngươi để lại, thời ngươi phải biết mặc, sao ngươi mặc lộn-bậy như vậy? Vì ngươi không biết mặc nên biết hẳn áo này là áo ngươi ăn trộm, chứ không phải là vật cũ của nhà ngươi!”
Mượn làm ví-dụ: “Vua” ví như “bảo-tạng như-pháp” (chân-lý) của Phật; “người mọi ngu-si” ví như ngoại-đạo nghe trộm chính-pháp của Phật lồng vào trong pháp của mình, cho là mình có. Song, vì không hiểu-biết, xếp-đặt Phật-pháp lộn-lạo trên, dưới, không biết pháp-tướng (sự-tướng trong Phật-pháp, tướng-trạng của sự-vật) ra sao. Như người mọi được áo quý của nhà vua, không biết lần-lượt, mặc lộn-bậy đầu-đuôi cũng thế!
9.- KHEN ĐỨC-HẠNH CHA
Xưa có người ở trong đám đông khen đức-hạnh cha mình: “Cha tôi nhân-từ không làm hại ai, không ăn trộm của ai; hay nói thực và hay làm việc bố-thí!”
Có người ngu nghe lời ấy rồi, bảo: “Đức-hạnh cha tôi còn hơn cha ông nhiều!” Mọi người đều hỏi: “Cha ông có đức-hạnh gì xin ông cho chúng tôi biết?” Người ngu đáp: “Cha tôi từ nhỏ đến giờ đoạn-tuyệt dâm-dục, không chút nhiễm-ô!” Mọi người cười nói: “Cha ông đoạn dâm-dục sao sinh được ông?”
Người vô-trí ở đời, muốn khen đức người, không biết đức thực của người, trái lại thành ra chê-bai. Người ngu, ý muốn khen cha mình lại thành lầm-lỗi. Đây cũng như thế!