Chương 3: Điều kiện vãng sanh
DANH HIỆU CỦA PHẬT A-DI-ĐÀ
Đức Phật Thích Ca giới thiệu về đức Phật A-di-đà bằng câu hỏi rất ngắn: “Này Xá-lợi-phất, ông hãy nghĩ xem, vì sao đức Phật, hiệu A-di-đà … ” Toàn bộ kinh A-di-đà gồm có ba câu hỏi: câu hỏi thứ nhất về bản chất của thế giới Cực Lạc, câu hỏi thứ hai về danh hiệu của đức Phật A-di-đà và câu hỏi thứ ba là tại sao kinh này được chư Phật tán thán và hộ niệm. Ba câu hỏi này đã hình thành nên pháp môn Tịnh độ.
Sau khi hỏi, không chờ ngài Xá-lợi-phất trả lời, đức Phật đã trả lời thay: “Này Xá-lợi-phất, vì đức Phật ấy là Vô Lượng Quang, chiếu soi khắp cùng, thế giới mười phương, ngay cả thành quách, không thể ngăn cách. Này Xá-lợi-phất, thọ mạng của Phật và hàng Thánh chúng, ở cõi Tây phương, dài lâu vô lượng, không thể nghĩ bàn. Vì thế Phật ấy hiệu A-di-đà.”
Vô Lượng Quang. Đoạn này có hai nội dung căn bản là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Quang liên hệ đến bản chất tu tập của đức Phật A-di-đà, nghĩa là ánh sáng ấy không bị giới hạn bởi không gian vật lý và thời gian chiếu soi. Hào quang hay điện quang của lòng từ bi, tuệ giác, dấn thân, công đức thì không có ngằn mé, hiểu Vô Lượng Quang dưới góc độ này mới thấy được nguyện lực, hạnh đức của Phật là không gì có thể ngăn cách. Do bởi Ngài có tuệ giác không cùng tận, và tuệ giác đó cho phép Ngài sử dụng vô số phương tiện vi diệu. Ngài cài đặt hệ thống hỗ trợ để ta trở thành một người của tuệ giác Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ.
Bằng cách hiểu như thế, các hành giả ở Ta bà có thể tham gia công việc phát quang tuệ giác của đức Phật A-di-đà bằng nhiều cách thức khác nhau. Ví dụ như hai loại hình từ thiện nhường cơm xẻ áo liên hệ đến vật chất, sức khỏe, mạng sống hay tuổi thọ, và loại hình từ thiện về trí tuệ liên hệ đến việc ấn tống kinh điển, truyền bá pháp âm, băng giảng hay truyền bá những gì có thể cải tạo tư duy, nhận thức và hành động của con người. Dấn thân thực hiện hai loại từ thiện này hỗ trợ ta về phương diện tuệ giác, nghĩa là làm cho hào quang trí tuệ vô lượng của đức Phật thắp sáng trong lòng mỗi người, giúp lương tâm của họ được thắp sáng. Như thế, họ ít phạm phải những việc xấu xa hoặc phi đạo đức trong tương lai.
Vô Lượng Thọ. Nội dung Vô Lượng Thọ được áp dụng cho hai đối tượng gồm đức Phật A-di-đà và hàng Thánh Chúng.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật làm một so sánh nhỏ cho thấy số lượng thời gian về kiếp sống ở Ta bà chỉ bằng một ngày một đêm ở Tây phương Tịnh độ. Tuổi thọ của các vị Bồ-tát, A- la-hán, thượng thiện nhân và bất thối chuyển dài lâu vô số, trong số đó phải kể đến bậc bất thối chuyển, các vị nhứt sanh bổ xứ Bồ-tát, nghĩa là các vị Bồ-tát sẽ làm Phật ở đời sau.
Chẳng hạn Bồ-tát Di-lặc sẽ sinh ra và giáo hóa chúng sanh trên nền tảng lòng từ bi. Con đường nhận thức bằng tâm lý học của ngài sẽ giúp con người giải thoát khổ đau, loại bỏ sai lầm về nhận thức, học thuyết, tôn giáo, chính trị và triết học.
Kế đến, Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là các vị “nhứt sanh sở hệ Bồ-tát”, nghĩa là làm Phật thăng tiến trong tương lai, số lượng các vị ấy nhiều không đếm hết và các vị như thế thường có tuổi thọ vô lượng và vô tận.
Sống lâu như thế không phải để hưởng thụ. Tâm lý của một số người rất sợ sống lâu, vì phải mang theo bệnh tật và khổ đau. Thế nhưng cư dân của Tây phương Tịnh độ không hề có bệnh tật vì họ gieo vô lượng công đức, không có nghiệp sát sanh bằng vũ khí hay bằng tâm niệm nên tuổi thọ được dài lâu và sự dài lâu về tuổi thọ cho phép họ làm vô số công đức. Mỗi người đều có tuổi thọ dài lâu, nếu ta có cái nhìn tuệ quán của đức Phật thì mọi sự vật không hề bị mất đi vĩnh viễn.
Nhìn từ góc độ hiện tại, nếu ta lấy thời điểm từ khi có mặt trên cuộc đời và cứ thế mà tính thì thời gian đó rất ngắn ngủi, hạn định. Nếu nhìn từ chiều dài của những lần tái sanh ở quá khứ, hiện tại và vị lai thì mỗi người trong chúng ta có đến tỉ tỉ năm tuổi. Cứ mỗi kiếp ta có thể có năm mươi cho đến một trăm tuổi, qua kiếp sau ta cũng có số lượng tuổi tương tự và cứ như thế cộng dồn cho mỗi kiếp tái sanh sẽ có vô lượng số tuổi. Vì thế, trong kinh Pháp Hoa có đề cập: “Thọ mạng của Thế Tôn dài lâu hằng hà sa số” là thế. Thọ mạng của đức Phật và các vị Bồ-tát trong bài kinh này cũng hằng hà sa số và con người chúng ta cũng như thế. Tất cả chúng ta đều có tuổi thọ dài lâu bằng mắc xích bởi từng kiếp và trong mỗi đời là khác nhau. Do đó, hiểu đạo lý này giúp ta thiết lập Tịnh độ ở Ta bà.
Kinh Vô Lượng Thọ là bản kinh nền tảng mà thông qua đó bản kinh A-di-đà được tóm tắt, có đề cập đến một danh hiệu khác của đức Phật A-di-đà trong quá khứ đó là Vô Lượng Chánh Niệm, nghĩa là sống trong tình trạng tâm lý nhận thức không tranh chấp, ganh tỵ, hận thù, đấu tranh hoặc loại trừ lẫn nhau. Đây chính là yếu tố quan trọng để tạo nên tuổi thọ. Những ai sống trong hờn giận, ganh tị, hận thù chắc chắn sẽ bị mất ngủ, thần kinh suy yếu và dẫn đến tuổi thọ suy giảm. Qui luật này diễn ra một cách nghiêm khắc và tất yếu đối với mọi người, mọi loài.
Một yếu tố khác, khi đức Phật A-di-đà còn là một vị Bồ-tát có tên là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã là một đại hành giả có tên là Thế Tự Tại Vương, nghĩa là vua tự tại về cuộc đời, sống thong dong, không câu chấp, vướng mắc, hay chạy theo dục lạc thế gian cùng những thói quen vị kỷ, tranh chấp, bản ngã.
Muốn có được Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang là những yếu tố tượng trưng cho trí tuệ bền bỉ lâu dài, lập trường trên lý tưởng và hành động dấn thân phục vụ, ta cần có thái độ vô tranh; tức là không tranh chấp về ý thức hệ, tôn giáo, chính trị thì lúc đó bản ngã độc tôn sẽ bị thiêu hủy và chuyển hoá, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng và an vui.
Đó cũng là lý do đức Phật Thích Ca từng tuyên bố: “Ta chưa từng tranh chấp với đời chỉ có đời tranh chấp với ta.” Lời tuyên bố chánh pháp của Thế Tôn đi ngược lại với các quan niệm sai lầm về phong tục tập quán, nền văn hóa triết học và tôn giáo Ấn Độ. Nó không được xem là sự tranh chấp bởi lời tuyên bố đó không vì quyền lợi, không để khẳng định Phật là người có tài để mong cầu sự cung kính và cúng dường của bá tánh. Ngài tuyên bố chân lý mang lại lợi lạc cho cuộc đời, hoàn toàn không có thái độ và động cơ của sự tranh chấp.
Đối diện trước tuyên bố chân lý đó, những giới chức tôn giáo đóng vai trò trung gian giữa thượng đế và con người bị mất quyền lợi, giảm ảnh hưởng, vai trò và vị trí của họ trong xã hội. Họ xem đức Phật như đối thủ hay cản lực lớn, do bởi Ngài đã phá bỏ sự mê tín dị đoan, niềm tin vào các thần linh, chấp nhận định mệnh, sự ngẫu nhiên hay an bày. Đức Phật đi theo con đường chân lý, tuyên bố những gì cần tuyên bố, và làm những gì cần làm. Khi việc đã xong, Ngài xác định vai trò, nhiệm vụ của Ngài đã hoàn tất, và sau đó nhập Niết Bàn. Đạo lý của Thế Tôn là thế.
Cơ sở dữ liệu về tâm lý, thái độ và hành động vô tranh sẽ trở thành yếu tố quyết định “vô lượng thọ” của chúng ta. Khi sống trong tuổi thọ không hề bệnh tật, ốm đau, phiền não, hận thù, tranh chấp thì trí tuệ sẽ phát sinh. Hai yếu tố này bổ sung cho nhau.
Đó là mô hình của xã hội Tịnh độ lý tưởng gồm các thành phần kiến trúc sư cao nhất của Tịnh độ là Thế Tôn, A-Di-Đà, các vị nhứt sanh bổ xứ như Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Di Lặc, Thường Tinh Tấn, Càn-đà-ha-đề v.v…các cư dân Thánh giả, các vị bất thối chuyển, và cuối cùng là các vị mới nhập cư hay mới tái sanh.
Thế giới Cực Lạc không có vua và dân, không có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Thế giới Ta bà này chưa có mô hình như Tây phương Cực lạc. Thế giới Tây phương là một thế giới rất đẹp. Nơi ấy thiên nhiên hài hoà vào sự sống con người và các loài vật, phương tiện là công cụ hỗ trợ giúp con người hướng về chánh pháp và đạo đức. Con người nơi ấy có Phật tính và sự bình đẳng Phật tính, tiềm năng chứng đắc và sự chứng đắc, mời gọi và mở cửa cho tất cả mọi người. Cấu trúc Tịnh độ như là xã hội lý tưởng mà ta có thể mô phỏng, nhập cảng và thiết lập ở Ta bà nếu có quyết tâm thì chắc chắn ta sẽ xây dựng được.
LÀM BẠN BẬC TRÍ
Kinh A-di-đà xác định nguyện vọng chính đáng của các hành giả Tịnh độ khi bày tỏ tấm lòng muốn phát nguyện vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc và nguyện vọng đó có thể khác nhau tùy theo mỗi người.
Một số người cho rằng cõi Ta bà đầy khổ đau, bất hạnh. Dù đã nỗ lực tu tập, làm lành lánh dữ nhưng tai họa và khổ đau vẫn tiếp tục đeo đuổi, cho nên họ mong tìm một cảnh giới hạnh phúc và an vui lâu dài. Lại có quan điểm cho rằng sanh về Tây phương Cực Lạc không có cha mẹ, hành giả sẽ được hóa sanh trên những hoa sen báu. Nói cách khác, cõi ấy không có đời sống tính dục nên khổ đau cũng không có; do đó, tốt nhất là sanh về Tây phương. Đó là một trong vô số quan điểm và lý do chính đáng của những người có nguyện vọng vãng sanh.
Trong kinh A-di-đà, đức Phật đã nêu các trợ duyên tích cực: “Khi nghe danh Phật, hãy nên nhiếp tâm, phát nguyện vãng sanh, làm bạn Bồ- tát, tròn đầy trí đức.”
Đây là nội dung ẩn chứa sâu sắc giống như câu nói: “ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Bạn ở đây không phải là người phàm kẻ tục, mà là Thánh nhân, Bồ-tát và các bậc giải thoát với trí tuệ và lòng từ bi rộng lớn. Khi làm bạn với các ngài, tâm của ta cũng được chuyển hóa theo. Trong cuộc đời, ai cũng muốn có người bạn đồng giới, bạn khác giới, bạn đời, bạn chí hướng, bạn đồng nghiệp… nhưng có mấy ai tìm được người bạn lý tưởng như mong đợi. Tìm một người tốt để làm bạn rất khó, bởi cá tính của mỗi người khác nhau. Nếu người bạn ấy có chí hướng cao, có bản lĩnh và lòng vị tha rộng lớn, kết bạn và giao du với họ tâm ta sẽ được thăng hoa. Ngược lại, giao du với người không có chí nguyện, lười biếng, bạc nhược, ỷ lại, ích kỷ sẽ mang lại cho ta nhiều phức tạp và rắc rối về sau.
Trong kinh Pàli, đức Phật dạy:“Nếu không tìm được người bạn đường bằng hoặc hơn mình thì thà đơn độc một mình chứ không kết bạn với người vô minh.” Đó không phải là thái độ ích kỷ, mà phải thận trọng“chọn bạn mà chơi”. Bởi sự ảnh hưởng, lây lan tâm lý được diễn ra theo cách tương tác, người có cá tính mạnh sẽ ảnh hưởng đến người có cá tính yếu hơn. Nếu sống tương quan trong vùng từ trường của người yếu kém về đạo đức, suy sụp về tâm linh và không có tuệ giác lớn thì tâm ta biếng nhác. Vì thế, tìm được người bạn lý tưởng sẽ hỗ trợ ta tiến bộ rất nhiều trên con đường lập nghiệp và tu tập.
Loại hình tâm linh của các vị Thánh ở Tây phương cho thấy đây là một thế giới lý tưởng. Đó là nơi hội tụ bậc thượng thiện. Có mặt trong vùng từ trường tâm linh của bậc thượng thiện thì tâm tư, tình cảm, chí nguyện của ta cũng sẽ được chuyển hóa. Sống trong môi trường tích cực thì giá trị và lợi lạc sẽ lớn. Nhận chân được sự ảnh hưởng tiêu cực của người phàm kẻ tục đối với mối quan hệ bạn bè, đức Phật khuyên ta hãy nên phát nguyện vãng sanh về Tây phương, bởi cõi ấy chỉ toàn các vị Bồ-tát đầy đủ trí đức. Trí thuộc về nhận thức và đức thuộc về hành động từ bi. Người có tuệ giác lớn luôn có hành động lớn và kèm theo là chí nguyện lớn. Chí nguyện và hành động sẽ mang lại phước báu cho bản thân, cộng đồng và xã hội. Khi giao du, thân cận, học hỏi và đảnh lễ các ngài thì tất nhiên ta sẽ có vùng ảnh hưởng tâm linh tích cực.
GIÁ TRỊ CỦA KHUYẾN TẤN
Điều kiện vãng sanh được nêu ra trong kinh không đơn giản. Các vị Pháp sư hay các hành giả Tịnh độ tông khuyến tấn bằng nhiều lời khích lệ. Ví dụ như: “Niệm Phật một câu tiêu tội vô lượng, lạy Phật một lễ tội diệt hà sa.” Chính lời khẳng định ấy đã tác động khá nhiều đến những người phát nguyện dấn thân hành trì pháp môn Tịnh độ. Vì họ thấy được sự lợi lạc của pháp môn này khá lớn. Chỉ cần niệm Phật, đảnh lễ mà tội được diệt và vãng sanh là điều ai lại chẳng mong muốn. Tuy nhiên, lời nói đó cần được hiểu trong những dấu ngoặc đơn, nếu không, ta mê theo giá trị của pháp môn mà không gieo trồng hạt giống để tạo ra các giá trị đó, thì khó có thể đạt được mục đích.
Các vị Tổ sư thường nói vắn tắt, như công án để ta tư duy và ứng dụng. Nếu trong một nội dung mà tất cả những điều cần nói được nói hết, đôi lúc lại không tạo ra sự khao khát tìm cầu. Nếu không có vấn nạn thì kiến thức của hành giả sẽ bị giới hạn trong những gì được diễn đạt và mô tả.
Dấu ngoặc đơn thứ nhất cho câu tuyên bố nêu trên là ta phải niệm Phật theo công thức “nhất tâm bất loạn”, nghĩa là tâm không còn loạn tưởng với đối tượng, chuyên chú vào danh hiệu Phật với lòng chí thành thì phước bắt đầu gia tăng. Việc đảnh lễ Phật không đơn thuần chỉ là động tác thể dục thể thao để có tuổi thọ, dù các hoạt động cơ bắp được diễn ra. Mấu chốt của việc đảnh lễ nên được xem là pháp môn hành trì. Có như thế thì giá trị công đức mới gia tăng và phước báu vô lượng.
Dấu ngoặc đơn thứ hai là tâm hành giả chuyên nhứt niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà. Động tác đảnh lễ Phật được bày tỏ một cách chí thành tha thiết, đương nhiên những phiền não, nghiệp chướng và khuynh hướng tiêu cực nếu có trong quá khứ sẽ bị khựng lại. Việc khựng lại này sẽ tạo ra một bước ngoặt trong tư duy và nhận thức của con người. Tư duy và nhận thức đó sẽ mang chất liệu dẫn đạo, làm tiền đề đưa ta đến sự hành trì tích cực và dấn thân nhiều hơn, do đó “tội diệt và phước sanh” là thế. Nếu chỉ hiểu nghĩa đơn thuần là niệm Phật một niệm thì tội tiêu và lễ Phật một lễ thì phước sanh, mà không có lòng chí thành và không có phương pháp sẽ dẫn đến sự hiểu lầm và ỷ lại. Đảnh lễ và thọ trì như thế chẳng mang lại kết quả gì.
Lời tuyên bố của chư Tổ về Tịnh độ tông mang tính chất khuyến tấn. Giá trị của giáo dục khuyến tấn thường tạo ra nhân duyên khích lệ, giúp thiết lập niềm tin vững chãi và không bỏ cuộc trên con đường hành trì. Cũng như viên thuốc được bọc đường bên ngoài khi uống, bệnh tật được trị liệu mà vẫn tạo cảm giác khoái khẩu để ta có thể uống lâu dài. Nếu để “thuốc đắng đả tật” thì chỉ có người hiểu được giá trị của vị thuốc và sức nhẫn nại chịu đựng mới có thể trị liệu thành công, còn lại số đông rất ngán ngẫm. Thông thường, vị thuốc đông y rất đắng nhưng có tác dụng cao. Hiện nay, đông y cũng phương tiện hóa bằng cách bọc một lớp mật xung quanh viên thuốc nhằm giảm bớt phần nào vị đắng khó chịu. Bản chất trị liệu không nằm ở yếu tố mật ngọt mà nằm ở vị đắng của thuốc, nếu không có mật thì vị đắng này khó đưa vào cơ thể và không mang lại hiệu quả trị liệu. Các Tổ đã phương tiện hóa bằng cách dùng những lời lẽ khuyến tấn để hỗ trợ ta trong buổi đầu hành trì.
ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH
Kinh A-di-đà nêu rõ: “Bất đắc dĩ thiểu, thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.” Dịch nghĩa là “Căn lành ít ỏi, phước đức sơ sài, nhân duyên thiếu thốn, sẽ không dễ gì sanh về
Cực lạc”. Đức Phật nêu ba yếu tố: 1) Đầy đủ căn lành, 2) Đầy đủ phước báu và 3) Đầy đủ nhân duyên hỗ trợ, là điều kiện cần thiết dể vãng sanh về Tây phương Cực Lạc.
Những ai không có đủ ba yếu tố trên hoặc có ít thì không thể sanh về cõi ấy. Giả sử các vị Tổ của Tịnh độ hay các vị đạo sư có giúp ta đến Tây phương Cực Lạc thì nơi ấy cũng không thể dung nhận, vì ta thiếu các điều kiện vừa nêu. Thế nhưng nội dung quan trọng này lại ít được đề cập trong các tác phẩm Tịnh độ tông. Các vị Tổ sư thường có khuynh hướng nhắm vào lòng từ bi và tha lực huyền diệu của chư Phật, lại phớt qua nhân tố quyết định quan trọng, tạo cơ sở và nền tảng phước báu như một bệ phóng của phi thuyền đẩy ta từ cảnh giới Ta bà đi thẳng vào quỹ đạo Tịnh Độ. Dù hành giả đã có căn lành, phước báu, nhân duyên nhưng ít thì cũng chưa đủ để có thể sanh về cõi ấy.
“Nhiều” là lượng từ bao quát, ý nhắc ta hãy tập trung đầu tư có phương pháp bằng thời gian, công sức, tâm huyết, hành trì, làm các việc lành, gieo trồng nhiều phước báu và hỗ trợ những nhân duyên tích cực thì mới có cơ may sanh về thế giới Cực Lạc. Khi nghe các điều kiện trên, có người tỏ vẻ ngán ngẫm cho rằng pháp môn này tuy đơn giản nhưng điều kiện vãng sanh lại quá khó. Tuy nhiên, nếu đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ, có lời nguyện thứ mười tám như sau: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp”.
Nghĩa câu trên là, nếu hành giả nào niệm mười hiệu với tâm tập trung cao độ, đúng phương pháp mà không được vãng sanh thì đức Phật sẽ không ở ngôi chánh giác. Hai câu trong kinh A-di-đà và Quán Vô Lượng Thọ kinh hoàn toàn không đối lập ý nghĩa mà ngược lại còn bổ sung cho nhau. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Phật nhắm đến nội dung chiều sâu tâm thức trong sự hành trì và tu tập, trong khi kinh A-di-đà lại nhấn mạnh đến yếu tố phước báu, tạo cơ sở “Nhất tâm bất loạn” cho hành giả. Những ai tạo quá nhiều việc xấu, có nỗi sợ hãi về pháp luật, bị lương tâm đạo đức giằng xé, không thể tập trung để đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn. Do đó, cần phối hợp cả hai điều kiện trên, vừa phải gieo trồng công đức và phước báu, vừa phải có nhất tâm bất loạn trong hành trì thì cơ hội vãng sanh mới cao.
Hòa thượng Tịnh Không là một trong các vị hành giả Tịnh độ tông hiện đại, trong các ngôi chùa của ngài đều có hai câu đối đặt bên đức Phật A-di-đà: “Bách phước tự trang nghiêm. Chư Phật sở hộ niệm”, nghĩa là hãy tự trang nghiêm con người hành giả bằng hàng trăm loại phước báu khác nhau, được vậy chư Phật sẽ hộ niệm và tiếp dẫn ta về Tây phương Cực Lạc. Hòa thượng Tịnh Không đã tóm lược phần nào nội dung trong kinh A-di-đà. Câu đối này liên hệ đến nhân quả và là trọng tâm của phương pháp tu tập. Nhân là yếu tố quyết định, quả là sự kéo theo tất yếu, nhân không có thì quả không thể hội tụ. Tiếc thay, nhiều hành giả lại có suy nghĩ khá đơn giản rằng chư Phật có lòng từ bi lớn, không cần phải tạo phước đức nhiều mà chỉ cần chí thành niệm danh hiệu của Ngài là đủ và ta có thể mang nghiệp phàm phu này mà sanh về Tây phương. Như thế là ta đánh mất đi yếu tố tự lực thuộc về nhân quả, do đó tiến trình vãng sanh khó thành tựu.
Các hành giả nên tập trung vào câu thứ nhất “Bách phước tự trang nghiêm” nhiều hơn là câu thứ hai “Chư Phật sở hội niệm.” Nơi nào có người trang nghiêm đạo đức bằng hàng trăm ngàn phước báu khác nhau thì nơi đó Phật và Bồ-tát sẽ có mặt. Các vị Bồ-tát thường được mô tả trong kinh điển Đại thừa là những đại hành giả gieo trồng vạn hạnh công đức. Các ngài vận dụng vô số phương tiện, ứng thân nhiều loại hình chúng sanh khác nhau, để tiếp độ chúng sanh. Có như thế, lời kinh và chánh pháp của đức Phật mới được họ tiếp nhận một cách hiệu quả.
Ta không thể lấy não trạng văn hóa của người Việt Nam áp đặt lên não trạng văn hóa của người phương Tây, như thế họ khó có thể hiểu và tiếp nhận giáo lý của đạo Phật. Cần phải lấy não trạng văn hóa của phương Tây diễn dịch giáo lý của đạo Phật thì người phương Tây có cơ hội biết đến đạo Phật hơn.
Sự nhập cảng nguyên vẹn một pháp môn hay một nền văn hóa sang một nền văn hóa khác mà thiếu tính khế lý và khế cơ sẽ không mang lại kết quả như ý. Các vị Bồ-tát có ba mươi hai ứng thân, thiên hình vạn trạng, phong phú với nhiều hình thức, sắc thái khác nhau để thực hiện muôn hạnh lành và tạo vô số công đức. Khi hạnh lành và công đức được thành tựu thì những nghiệp chướng xấu xa trong quá khứ sẽ bị tiêu trừ. Đó là bệ phóng, điều kiện tất yếu để đưa ta sang cảnh giới Tây phương Cực Lạc.
Đầy đủ thiện căn. Thiện căn là không còn tham, sân, si, có thể hiểu chung là gốc rễ từ bi, đạo đức, hoặc các yếu tố căn bản để giúp hành giả thiết lập an vui và hạnh phúc trong cuộc đời. Thiện căn còn được hiểu theo hai hình thức khác nhau. Thứ nhất là các hạt giống tích cực, thứ hai là các khuynh hướng phát huy từ cách gieo trồng hạt giống nhân cách. Hạt giống là tiềm năng và khuynh hướng nhân cách là kết quả. Nếu đặt vào quỹ đạo hay những con đường tốt, chúng sẽ là nền tảng lâu dài, dù bất cứ ở đâu, trong nền văn hóa hay bối cảnh lịch sử nào, cũng không thể nhổ lên. Khi tuệ giác, gốc rễ từ bi, đạo đức bám sâu vào não trạng và nhận thức thì dù có phong ba bão tố hay những cám dỗ của cuộc đời, con người vẫn có thể vượt qua.
Đức Phật nhìn thấy rõ mỗi con người thông qua hành vi đạo đức, thiết lập cây đạo đức ở tâm, ở ngôi nhà, xã hội đang sống và rộng lớn hơn là một quốc gia hay toàn thế giới. Gốc rễ đó được gieo trồng một cách có nghệ thuật thì con người có thể bước vào đời vững vàng. Những gì được gieo trồng và vun đắp từ thuở nhỏ thì khó có thể nhổ lên khi trưởng thành. Nếu không may các bậc cha mẹ tin các học thuyết mê tín dị đoan, tà thuyết vu vơ của tà ma ngoại đạo, hoặc các học thuyết định mệnh thì các hạt giống này sẽ trở thành lệnh điều khiển dẫn dắt con em ta trong cuộc đời, làm chúng trở nên bạc nhược, mất phương hướng.
Do đó, cần gieo trồng hạt giống thiện lành trong não trạng và tâm thức của con em từ thuở lọt lòng, bằng cách cho chúng quy y. Rất nhiều gia đình Phật tử hiểu sai ý nghĩa tự lực trong đạo Phật, từ đó hiểu sai ý nghĩa tự giác là tự ý thức. Điều này dẫn đến quan niệm không cần khuyến tấn con em, người thân hay gia đình theo đạo Phật, để họ tự tìm đường mà đi. Trong sự dò dẫm như thế không phải ai cũng may mắn tìm ra được con đường chân chính.
Khi nhận thấy đạo Phật là con đường của tình thương và hiểu biết, con đường của tuệ giác và từ bi, con đường của an vui và hạnh phúc thì không có lý do gì ta lại không chia sẻ giá trị đó cho gia đình và người thân. Nếu con em ta vẫn chưa chấp nhận, cần phải có biện pháp cứng rắn hơn để chúng tiếp nhận được giá trị chân chính và đạo đức. Nếu để chúng tập tành khuynh hướng xấu của xã hội, về lâu dài, gốc rễ tiêu cực này khó có thể bứng khỏi não trạng chúng. Bởi các thói quen, khuynh hướng xấu dễ gieo trồng nhưng lại khó tẩy rửa. Những gì đã trở thành nếp suy nghĩ của con người thì sẽ trở thành chân lý. Cho dù ta có đổ công sức, mồ hôi và nước mắt cũng khó thành công trong việc, cách tân. Có thiết lập được căn lành cho con em thì mới định hướng ý thức cho chúng. Chính căn lành này tạo thành ngọn đuốc soi đường, làm nền tảng cho các giá trị chân chính và đạo đức.
Có những loại cây có thể trồng bằng gốc rễ. Có cây có thể trồng bằng cách chiết nhánh hay hạt. Tương tự, căn lành của con người có thể gieo trồng bằng nhiều cách khác nhau, bằng tư duy, nhận thức, hành động cụ thể, lời nói hoặc các tác phẩm văn hóa nghệ thuật v.v… Tùy theo chức nghiệp và sở trường ta có thể chọn lựa cách thức gieo trồng căn lành cho bản thân. Nếu là một nhà văn thì nên khuyến tấn sáng tác các thể loại văn chương nhằm ca ngợi cái đẹp, tán thán công đức giúp cho người đọc thấy được giá trị công bằng xã hội. Dù những tác phẩm ấy có thể ít người mua, kén người đọc, giá trị kinh tế của sản phẩm không cao, nhưng gieo trồng nó nghĩa là ta đang thiết lập Tây phương Cực Lạc tại Ta Bà.