Thế Giới Cực Lạc – Chương 3

Ta có thể gieo trồng giống lành bằng lời nói trực tiếp, khuyến tấn, chia sẻ kinh nghiệm tu tập hoặc bằng hành động dấn thân. Ta có thể tự làm và trở thành đúng đắn, như bài học ấn tượng cho người khác nương theo. Điều này được gọi là thân giáo, nghĩa là giáo dục bằng sự mô phạm của bản thân, giá trị và ảnh hưởng về đạo đức của nó là rất lớn.

Đầy đủ phước đức. Đề cập đến việc gieo trồng phước báu nhiều, đức Phật nói trong kinh A-di-đà: “Buổi sáng các cư dân Tịnh độ đi rải hoa cúng dường mười phương chư Phật.” Nên hiểu ý nghĩa câu này dưới góc độ triết lý mới thấy được giá trị sâu sắc, so với nghĩa đen.

Đức Phật khuyên người xuất gia không sử dụng hương liệu hay trang sức phẩm để làm đẹp, mà nên trang sức, làm đẹp bằng hương thơm đạo đức. Thẩm mỹ học đạo Phật là thẩm mỹ đạo đức. Do đó, “hoa” ở đây là hoa công đức, nghĩa là làm điều lành, từ thiện, dấn thân làm công tác xã hội. Cúng dường chư Phật bằng hành động thực tiễn là công việc rải hoa cúng dường Thế Tôn. Giá trị của sự cúng dường ấy mang lại phước báu lớn.

Ở Ấn Độ, vào thời Phật không có đốt hương, thắp nhang. Từ khi đạo Phật du nhập vào Trung Hoa thì tập tục này mới xuất hiện. Người Việt Nam do bị ảnh hưởng sâu đậm bởi truyền thống văn hóa Trung Hoa nên thắp hương đã trở thành phong tục tập quán. Khói nhang đầy hóa chất làm cho chùa và tượng Phật bị ngã màu đen đuốc, mất hết vẻ đẹp và sự trang nghiêm. Đến chùa vào ngày rằm, mùng một hay những ngày lễ lớn, người ta khó tập trung, lòng tôn kính đức Phật và việc tìm hiểu giáo lý thông qua lời kinh cũng bị giảm, do phải đối phó với nạn nghẹt thở của khói nhang dày dặc. Ta đốt một bó nhang vài ngàn đồng mà làm cho ngôi chùa phải sơn phết lại tốn biết bao kinh phí, lại còn gây ảnh hưởng đến việc sinh hoạt và tu tập của nhiều người thì việc làm này hoàn toàn không có công đức, phước báu gì.

Bài nguyện hương nói về năm loại hương gồm: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. Giới hương là hương đạo đức, định hương là hương tu tập và thiền quán, tuệ hương là hương nhận thức sáng suốt. Riêng hai loại giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương là kết quả của một quá trình tu tập nhờ hoàn tất Giới-Định-Tuệ nên hành giả có được sự giải thoát và ý thức rõ về cấp độ giải thoát của mình. Đây là năm loại hương đức Phật khuyên chúng ta nên cúng dường Ngài.

Dâng hoa công đức bằng cách làm những việc lành cụ thể, cho dù việc làm lành ấy nhỏ. Ví dụ khi đi đường thấy một mảnh chai bị vỡ, ta có thể lượm nó bỏ vào thùng rác, giúp cho người khác không bị thương tật khi vô ý giẫm phải. Việc làm này là cúng hương Phật để tô đẹp cuộc đời. Hoặc khi thấy rác ngoài đường phố, ta có thể nhặt chúng bỏ vào sọt rác, góp phần làm sạch đẹp môi trường sự sống. Người làm công quả trong chùa là người tạo vô số công đức. Không nên xem thường những việc vặt vãnh như lặt rau, quét lá, lau chánh điện, dọn vệ sinh v.v… Nếu người làm với lòng chí thành dâng cúng mười phương Phật thì phước báu vô cùng. Giá trị của phước báu tỷ lệ thuận với tâm và cách thức hành động. Hiểu được điều này theo tinh thần của kinh A-di-đà, ta có thể tạo vô số phước đức ở hiện tại và tương lai với nhiều điều kiện thuận lợi.

Bên cạnh việc gieo trồng phước cần tạo thêm đức. “Phước” liên hệ đến việc làm còn “đức” thuộc về tâm linh, thái độ, cách nhận thức và hành động. Nếu hành động nhặt mảnh chai ở ven đường mà ta buộc mọi người phải mang ơn, ca tụng hay tán thán, xem như ta đang tán dương bản ngã, làm cho phước bị giảm thiểu và kéo theo sau là sự phiền não, phiền toái phát sinh trong các mối quan hệ. Do đó, khi làm phước với thái độ chân chính, Phật tử nên có lòng khiêm hạ và tấm lòng của người dấn thân phục vụ. Hãy quán niệm ta là mảnh giẻ lau thân Phật cho sạch sẽ trang nghiêm, là cây chổi để quét sạch rác rưởi trong sân chùa, là ly nước giúp cho cuộc đời bớt khát hoặc chén cơm giúp cho người bớt đói khổ v.v…

Thái độ vô ngã giúp lòng khiêm hạ được tăng trưởng và bản ngã ngày càng nhỏ lại, rồi được chuyển hoá tuyệt đối. Tinh thần vô ngã là trục xoay giúp ta có được thái độ khiêm hạ. Vô ngã, khiêm hạ và không chấp trước là ba yếu tố quan trọng làm cho “đức” của hành giả được tăng trưởng. Nếu chỉ có phước mà không có đức thì con người chỉ có thể hưởng đời sống an lành và hạnh phúc, nhưng bản chất đời sống nội tâm của họ lại khổ đau, mối quan hệ tình người và các giá trị đạo lý nhân văn có thể không có. Đức tạo thêm giá trị cho phước và phước hỗ trợ cho đức được tồn tại lâu dài.

Muốn gieo trồng nhân duyên, ta có thể thực hiện bằng nhiều hình thức tùy theo điều kiện cho phép. Thế Tôn trước khi xuất gia nhờ nhìn thấy một vị Sa môn với bước đi thanh thoát, tạo sự tương phản ấn tượng khá lớn giữa ngưỡng cửa cuộc đời và ngưỡng cửa tâm linh. Sự mâu thuẫn nội tại giữa hai khuynh hướng hưởng thụ và tâm linh đã chuyển hóa cuộc đời của thái tử Tất-đạt-đa. Ngài nhìn thấy vị hành giả ấy không có trong tay một tài sản gì, nhưng lại có chất liệu an vui và hạnh phúc trên từng bước chân. Điều này khiến Ngài đặt câu hỏi: Phải chăng hạnh phúc là vật chất? Câu trả lời  là: Không! Phải chăng hạnh phúc là tinh thần? Câu trả lời của Ngài là: Hẳn vậy!

Nói cách khác, hạnh phúc thuộc về cảm xúc, chỉ cần điều chỉnh cảm xúc theo đúng hướng thì lúc con người cảm nhận được giá trị an vui. Hạnh phúc đi ngược lại với khuynh hướng hưởng thụ.

Đầy đủ nhân duyên tốt. Thái tử Tất-đạt-đa đi xuất gia nhờ gặp vị hành giả của một tôn giáo khác. Rất nhiều vị đạo sư, Bồ- tát trong Phật giáo cũng có nhân duyên may mắn như thế trước khi đến với đạo Phật. Ví dụ như ngài Xá-lợi-phất nhờ gặp vị A-la-hán Mã Thắng với hai câu triết lý: “Mọi sự vật hiện tượng không tự nó sanh ra và không tự nó mất đi” giác ngộ. Bởi vì đạo lý đó chưa từng xuất hiện trong kinh điển Vệ-đà, trong tâm linh của người Ấn Độ hay bất kỳ một tôn giáo nào khác. Chỉ có đạo Phật trong thời điểm đó đã khám phá và tuyên bố như thế qua cái nhìn tuệ giác của Thế Tôn. Cuộc gặp gỡ và hai câu triết lý của ngài Mã Thắng đã làm cho nhà Bà-la-môn trẻ tuổi và tài ba Xá-lợi-phất trở thành hành giả Phật giáo, hỗ trợ đắc lực cho đức Phật trên con đường hoằng hóa về sau.

Tương tự, Lục tổ Huệ Năng của Trung Hoa sau khi nghe câu kinh Kim Cang“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là không để tâm bị vướng víu, chấp trước vào bất kỳ một đối tượng nào dù là thế gian hay xuất thế gian, là phương tiện hay cứu cánh, là chân lý hay phi chân lý, có thể vượt thoát mọi khổ ách trong cuộc đời. Nhờ nhân duyên với câu kinh đó mà ngài trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa. Do đó, yếu tố nhân duyên tốt thường mang lại nhiều giá trị tích cực và to lớn. Những ai bắt gặp nhân duyên như thế sẽ thay đổi cả cuộc đời theo hướng tích cực.

Kinh điển Pàli  kể lại nhiều cuộc đối thoại của Thế Tôn và các vị Bà-la-môn giáo và các hành giả khác tôn giáo thời bấy giờ. Nhiều tình huống cho thấy các vị này khi đến gặp đức Phật với mục đích để vấn nạn, gây khó khăn, làm cho Ngài bí thế trước quần chúng nhằm chứng tỏ họ là người tài ba và trí tuệ hơn Ngài. Thế nhưng khi gặp Thế Tôn, được nghe Ngài thuyết pháp thì họ đều trở thành đệ tử và thậm chí xuất gia theo Phật. Chính nhờ nhân duyên “chất vấn Phật” mà họ trở thành người hành giả Phật giáo.

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, yếu tố nhân duyên được trình bày khá tích cực và cụ thể. Đức Phật dạy một đứa bé thốt lên tiếng “Mô Phật” cũng có hạt giống Phật tính và có thể trở thành một vị Phật trong tương lai. Hạt giống Phật tính không bị mất trong mỗi người. Nó có thể mất đi tác dụng trong một giai đoạn nào đó hay suốt quá trình sanh tử của con người. Khi vô minh chinh phục và chi phối nỗi khổ đau thì hạt giống Phật có thể bị ảnh hưởng, nhưng không vì thế mà mất hẳn. Chẳng hạn mặt trời trong một thời điểm bị mây mù che khuất, nhưng bản chất chiếu sáng của nó vẫn luôn tồn tại không hề mất. Mây che khuất thì ánh sáng chiếu soi bị giảm tác dụng. Ánh sáng mặt trời liên tục chiếu soi giống như tuệ giác con người không thể mất.

Hãy gieo trồng hạt giống Phật tính bằng cách nhiếp tâm niệm Phật, đi chùa, tạo công đức và dấn thân vào các công tác từ thiện. Nếu sau này không có cơ hội làm những việc đó thì các hạt giống này vẫn còn nguyên vẹn, dù không tiếp tục phát triển nhưng cũng không vì thế mà biến mất hẳn. Đến một lúc khi điều kiện và chất xúc tác có mặt thì Phật tính ấy lại tiếp tục diễn ra.

Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Khi không có nhân duyên thì dù có gặp nhau trước mắt cũng trở nên xa lạ. Điều này có thể thấy rõ trong mối quan hệ vợ chồng. Nếu hai vợ chồng có cá tính khác nhau, luôn xung khắc như nước với lửa thì dù có ăn chung một mâm, ngủ chung một giường nhưng tâm tư của họ hoàn toàn là hai chiều đối lập nhau. Họ có cùng điểm giao thoa từ nơi xuất phát, nhưng càng đi họ càng xa dần đến độ trở thành người xa lạ nhau.

Nhân duyên là yếu tố quan trọng giúp phước báu thành tựu, đức lớn mạnh và căn lành tăng trưởng. Do đó, hành giả cần gieo trồng nhân duyên lành. Có người tuy nhà ở cạnh chùa, thế mà suốt cuộc đời chưa từng bước chân đến chùa và điều này hoàn toàn đúng với câu “Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Khi vô duyên thì dù là người hàng xóm vẫn chẳng thể gặp nhau.

Ở phương Tây, dù ở sát vách nhau mấy mươi năm, người ta không hề biết mặt hay tên tuổi của nhau. Bởi nền văn hóa ấy đề cao sự riêng tư được luật pháp bảo hộ. Sống trong nền văn hóa ấy, con người co rút lại trong vỏ sò “đèn nhà ai nấy tỏ”, không thiết lập quan hệ tình làng nghĩa xóm, tạo ra tình huống tuy gần nhau mà vẫn xa nhau. Nền kinh tế tư bản và công nghiệp hiện đại thường dẫn quan hệ tình người như thế. Ngược lại, ở các nước chậm phát triển, dù đời sống vật chất khó khăn nhưng tình làng nghĩa xóm rất đậm đà. Khi đời sống nông thôn được đô thị hóa ở bình diện lớn thì mối quan hệ tình người cũng sẽ bị giảm dần và trở nên nhạt nhẽo.

Hiểu được tinh thần của bài kinh, mỗi chúng ta nên thiết lập giá trị tình người dù cho luật pháp xã hội đó có những ràng buộc nhất định hay tạo sự ích kỷ, ta nên vượt qua những khó khăn, trở ngại, nghịch duyên để tạo nhân duyên tích cực. Khi có nhân duyên rồi thì dù xa nhau cách mấy vẫn có thể gần nhau. Tình huống của một số Phật tử tuy ở cách xa chùa vài mươi cây số mà hàng ngày họ vẫn đến chùa là thế.

Điều này giải thích lý do tại sao đất nước của Phật hiện nay vẫn còn nghèo, các Phật tích hoang tàn, đổ nát, các dấu ấn quan trọng liên quan đến cuộc đời đức Phật trở thành đống gạch vụn, ngoài tháp Bồ đề Đạo Tràng vẫn còn trang nghiêm, hoành tráng. Thế mà Phật tử từ năm châu bốn biển và nhiều chủng tộc khác nhau vẫn tha thiết trở về đây lễ bái. Bởi lẽ những Phật tử đó có nhân duyên với Phật, chánh pháp. Do đó, họ cùng gặp nhau trên mảnh đất Phật, trong lý tưởng, trong công tác Phật sự v.v… Nếu đến ngôi chùa nào đó, có dịp học hỏi với chư Tăng Ni thì đó cũng là nhân duyên.

Chùa Giác Ngộ có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn do Hoà thượng trụ trì an vị năm 1984. Kể từ khi có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn thì việc thọ trì thần chú Đại Bi được phổ biến. Có nhiều Phật tử tuy ở rất xa nhưng vẫn lặn lội trở về chùa để thọ trì thần chú này. Những hành giả ấy có duyên với đức Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn.

Tương tự, một số người nhìn thấy tượng Phật Dược Sư và hạnh nguyện của Ngài gần gũi với nghề y nên cố gắng học theo hạnh nguyện đó. Nơi nào có tượng của Ngài thì hành giả ấy muốn đến, đó là vì nhân duyên. Khi đã có nhân duyên thì những khoảng cách về địa dư, quốc gia hay bất kỳ một cản trở nào không còn là vấn đề quan trọng.

Trong kinh A-di-đà, đức Phật dạy phải có đủ phước báu, căn lành và nhân duyên lớn với pháp môn, cùng sự hành trì thì ta mới hội đủ điều kiện sanh về Tây phươngTịnh độ.

YẾU TỐ HỖ TRỢ VÃNG SANH

Phương pháp tu tập với những yêu cầu căn bản để được vãng sanh về Tây phương Cực Lạc được nêu ra trong kinh A-di-đà như sau: “Bất luận nam nữ, khởi lòng khát ngưỡng, thọ trì danh hiệu, thực tập quán niệm, nhất tâm bất loạn, trong vòng một ngày, cho đến bảy ngày, tâm ý người ấy, phải thực  yên tĩnh, như vào thiền định, không còn tán loạn, điên đảo mộng tưởng, thấy Phật Di-đà, Thánh chúng hà sa, dang tay tiếp dẫn, giúp cho vãng sanh.

Chúng tôi vừa trình bày khái quát ba yếu tố căn bản để vãng sanh. Nếu chỉ tu ba yếu tố này mà không có những việc làm khác thì hành giả cũng khó được vãng sanh. Chính vì thế, đức Phật dạy thêm nhiều điều kiện, sự hỗ trợ và phương pháp tu tập tương thích để vãng sanh Tây phương được đảm bảo.

Nói cách khác, việc vãng sanh Tây phương phải bao gồm hai yếu tố. Thứ nhất, có tấm “hộ chiếu” để ra khỏi Ta bà, thứ hai, được cấp “visa” để nhập cảnh về Tây phương. Hai yếu tố này khác nhau rất nhiều, bởi vì có người tuy có tấm hộ chiếu nhưng không đủ điều kiện để nhập cảnh đến một nước nào đó thì họ vẫn phải quay về. Do đó, nếu hành giả không gieo trồng nhân duyên, phước báu, công đức và không thực hiện theo các phương pháp mà đức Phật đã dạy ở đây thì không thể nào được vãng sanh về Tây phương.

Thực tập tâm bình đẳng. Bản chất của bình đẳng là không phân biệt đối xử về giới tính, tuổi tác hay bất kỳ một ý thức hệ nào. Khi mọi ý niệm phân chia cần được xóa bỏ, thì hành giả đạt được trạng thái tĩnh lặng. Những hoạt dụng này làm cho tâm con người không chuyên nhứt với danh hiệu Phật A-di-đà và con đường hành trì tu tập sẽ bị trở ngại khá nhiều. Người học Phật nên hiểu ý nghĩa mở rộng của học thuyết bình đẳng trong nhiều lĩnh vực như chính trị, xã hội, luật pháp, đạo đức, tâm linh và tiềm năng tu chứng.

Thể hiện lòng khát ngưỡng. Các hành giả cần xem việc tu tập là nhu cầu tâm linh không thể thiếu như không khí để thở, nước để uống hay áo quần để mặc. Chính lòng khát ngưỡng này khiến con người có thể dấn thân lâu dài, bền bỉ, không thối chí hay nản lòng bỏ cuộc. Sự bền bỉ có thể mang lại kết quả như ý muốn.

Niệm trì danh hiệu. Việc thọ trì danh hiệu Phật mang ý nghĩa lớn. Nếu chỉ hiểu đơn thuần là sự thực tập thì chưa đủ. Hiểu theo nghĩa đen là “nắm lấy” danh hiệu của đức Phật như bàn tay hành giả đang nắm lấy hoặc ôm một vật gì đó vào lòng. Sự nắm lấy còn bày tỏ thái độ rất thân mật, tôn kính, giữ gìn. Nếu làm với thái độ qua loa, chiếu lệ thì lòng khát ngưỡng sẽ mất đi và việc thọ trì sẽ không có kết quả.

Vấn đề đặt ra là tại sao các hành giả Tịnh độ phải nắm lấy danh hiệu của đức Phật A-di-đà? Danh hiệu đó có ý nghĩa gì mà hành giả cần phải nắm lấy? Trả lời cho vấn đề trên, ta hãy liên tưởng đến sự kiện mỗi khi giao tế, ta thường có thói quen xin danh thiếp của đối tác, điều này có nghĩa là ta đang nắm lấy thông tin cá nhân của người đang giao tế và thiết lập mối quan hệ giao dịch, hợp tác với họ. Sự nắm lấy này tạo cho ta cơ hội giao tế trong hiện tại hoặc tương lai.

Việc nắm lấy danh hiệu của đức Phật được thể hiện bằng các hành động và là cơ sở liên hệ đến bản chất của pháp môn, sự hành trì hay một tông chỉ nào đó, để khi có nhu cầu ta biết chọn đúng nơi và thực hiện đúng phương pháp. Nhờ nắm lấy địa chỉ chùa mà hành giả có cơ hội đến chùa tu tập, nắm lấy danh hiệu của các vị cao tăng mà hành giả mới đến nghe các vị ấy thuyết giảng, nắm lấy danh hiệu của đức Phật là bậc tuệ giác vĩ đại của lịch sử nhân loại mà hành giả mới có thể tin tưởng vào kinh điển do Ngài nói ra. Tất cả những việc nắm lấy đó là điều kiện tất yếu liên hệ đến sự thọ trì.

Trong sự thọ trì, trí nhớ của ta được gia tăng, giá trị của kinh được mở rộng. Mức độ thọ trì là chất liệu của sự tập trung cao độ, giúp ta có thể an lạc và thảnh thơi trong cuộc đời. Hành giả nắm lấy danh hiệu của đức Phật A-di-đà là để nhớ đến phương pháp thực tập, pháp môn hành trì giúp thiết lập chánh niệm, nắm lấy con đường Tịnh độ để gieo trồng phước báu lớn, công đức nhiều, đầy đủ thiện căn và nhân duyên tích cực. Sự nắm lấy đó là những hỗ trợ dẫn ta đi đến thành công về phương diện tu tập.

Hành giả nắm lấy bằng cách liên hệ đến những gì thuộc về danh hiệu của đức Phật và giá trị của nó mà trong kinh A-di-đà có nêu ra hai nội dung chính là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Hào quang tượng trưng trí tuệ và là một trong những biểu tượng triết lý sâu sắc của đạo Phật. Trong nền văn hóa Ấn Độ, ánh sáng tượng trưng cho sự tích cực, giá trị an vui và hạnh phúc. Yếu tố này được đạo Phật nâng lên thành trí tuệ, bởi có trí tuệ thực sự thì có an vui và hạnh phúc lâu dài. Vô Lượng Quang là ánh sáng tuệ giác của đức Phật A-di-đà, là ngọn đuốc soi đường để thiết lập chánh niệm cho pháp môn hành trì. Nhờ trí tuệ trong hành trì đó, hành giả có thể vượt thoát khổ đau.

Do đó, kinh A-di-đà giúp thiết lập tinh thần tự lực nơi hành giả khoảng 75%, sự hỗ trợ của đức Phật chỉ mang tính chất đưa đường dẫn lối và trao chìa khóa cho hành giả. Vấn đề còn lại là hành giả có mở cửa đi vào Tây phương Cực Lạc hay không?

Bản chất của pháp môn Tịnh độ dạy ta tinh thần tự lực và con đường dấn thân. Muốn đạt được như thế, hành giả phải nắm lấy danh hiệu của đức Phật và việc nắm lấy phải mang ý nghĩa tự lực. Nếu là tha lực thì hành giả không cần phải nắm lấy, vì tự động Ngài sẽ cứu ta. Sự nỗ lực cần được thiết lập trước thì sự giúp đỡ của tha lực mới được thiết lập sau đó. Điều này giống như các tôn giáo khác thường nói: “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”, nghĩa là trời xanh không cô phụ tấm lòng của người tốt. Trời, thần linh và thượng đế chỉ giúp những người lành, còn kẻ xấu thì chẳng ai giúp. Tại sao thần linh không giúp kẻ xấu? Vì quy luật nhân quả không cho phép các vị này làm như thế. Nếu vị nào tuyên bố có thể giúp được kẻ xấu thì đó chỉ là lời tuyên bố sáo rỗng, không có bất kỳ giá trị nào.

Cần các định rõ sự giới hạn của thượng đế và thần linh nếu thượng đế là có thật. Theo đạo Phật, công đức, việc làm lành, nhân duyên và phước báu giúp đỡ, hỗ trợ ta. Khi mỗi người được giúp bởi công đức, phước báu, nhân duyên, căn lành của chính mình thì đức Phật cũng sẽ hỗ trợ ta là điều tất yếu. Muốn được như thế, hành giả phải thọ trì danh hiệu, nghĩa là nắm lấy pháp môn thông qua sự thiết lập chánh niệm và tỉnh thức. Nếu hành giả chỉ niệm qua loa hoặc bằng cách thức tính công với Phật thì chắc chắn việc niệm này sẽ không mang lại nội dung. Việc thọ trì danh hiệu có nội dung thì công đức mới có thể phát sinh.

Trong quá trình thọ trì danh hiệu Phật A-di-đà, hành giả không nên mong cầu phước báu cho bản thân và đây chính là nội dung quan trọng nhất. Nếu niệm danh hiệu đức Phật một ngàn câu để cầu mong cho mình có phước báu như việc trúng vé số chẳng hạn, là xem như ta đang mặc cả mua bán với đức Phật. Nếu Phật giúp đỡ ta thì Ngài trở thành người ô dù, còn những ai không niệm thì Phật không giúp ư? Như thế lòng từ bi của đức Phật là có điều kiện sao? Không thể như thế!

Do đó, hành giả cần niệm danh hiệu Phật bằng phương pháp chân chính để có nội dung hành trì. Chính nội dung hành trì giúp ta có được tấm “visa” nhập cảnh vào cõi Tịnh độ. Bằng không, dù có tốn nhiều năm công đức tu tập, hành trì nhưng thiếu nội dung và phương pháp vẫn chẳng mang lại kết quả lớn lao. Ngược lại, nếu tu tập và hành trì có phương pháp, nương vào niệm bằng lời để phát huy niệm bằng tâm, tức là niệm bằng chánh niệm thì công đức sẽ gia tăng và kết quả sẽ có mặt trên con đường tu tập của hành giả.

Thích Nhật Từ

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.